Khổng Tử là một trong vài nhân vật đã ảnh hưởng sâu xa đến lịch sử nhân
loại bằng bản lĩnh nhân cách, tài năng trí tuệ, và những thành tựu cá
nhân. Chúng ta không thể nào giải thích cặn kẽ được sự xuất hiện của các
nhân vật như thế, nhưng nhờ xem xét các hoàn cảnh sinh bình của họ, ít
nhất ta cũng
có thể hiểu thêm về
họ.
Dù nỗ lực
nhưng chúng
ta vẫn thấy
khó hiểu
được Khổng
Tử, vì biết
bao truyền
thuyết về
ông đã tích
lũy qua
nhiều thế kỷ
khiến ta rất
khó thấy
được sự
thật. Các
thêm thắt tô
điểm này
phát xuất từ
hai động cơ
khác biệt.
Một mặt,
những kẻ
trung thành
với Khổng Tử
bấy lâu vẫn
hằng mong
xưng tán ông
và vì thế đã
thực hiện
những điều
sùng tín,
như tạo ra
một gia phả
đầy thêm
thắt, cho
rằng tổ tiên
xa xôi của
ông cũng là
hoàng tộc.
Mặt khác,
những kẻ mà
quyền lợi
của họ bị
nhà tư tưởng
cách mạng họ
Khổng đe dọa
đã tìm cách
và đã thành
công phần
nào vô hiệu
hóa những
tấn công của
ông vào đặc
quyền đặc
lợi của họ
bằng cách
xuyên tạc và
diễn giải
sai lạc
những lời
nói của ông.
Vì thế, công
việc an toàn
duy nhất của
ta là gạt bỏ
những truyền
thuyết thêm
thắt về cuộc
đời và tư
tưởng của
ông, và ta
chỉ tin vào
những bằng
chứng mộc
mạc hơn, có
thể thu thập
từ các văn
bản được
chứng minh
là cổ xưa và
khả tín.
Khổng Tử
sinh năm 551
tcn tại nước
Lỗ, một nước
nhỏ tọa lạc
tại nơi mà
ngày nay
được gọi là
tỉnh Sơn
Đông. Không
ai rõ về tổ
tiên của
ông, nhưng
dường như
ông bà tổ
tiên của ông
cũng có
người thuộc
hàng quý
tộc. Tuy
nhiên ông tự
thuật rằng
ông đã trải
qua một tuổi
thơ nghèo
khổ: «Thuở
bé ta chịu
cảnh nghèo,
nên phải làm
việc hạ
tiện.»
Ông đã phải
bươn chải
mưu sinh,
không câu nệ
những việc
hèn hạ. Nhờ
thế mà ông
có thể học
tập được,
nhưng có lẽ
phần lớn là
tự học.
Những kinh
nghiệm gian
lao của tuổi
thơ đã giúp
ông nhận
chân nỗi
thống khổ
của dân
nghèo và ông
bắt đầu suy
tư sâu sắc
về nó. Ông
nhận thấy
cái thế giới
mà ông đang
sống đang
phân rã ghê
gớm và vì
thế rất cần
có những đổi
thay quyết
liệt. Ông
thường có
dịp tiếp cận
với thường
dân cũng như
giới quý
tộc. Ông
đánh giá
thấp hầu hết
giới quý
tộc. Đó là
những kẻ no
cơm rửng mỡ
chẳng có gì
để làm. So
với giới cờ
bạc, họ còn
tệ hơn nữa,
vì ít ra
giới cờ bạc
cũng có việc
để làm.
Thực ra giới
quý tộc ấy
có nhàn rỗi
mãi đâu. Họ
luôn dụng
tâm biến cải
cuộc sống
của họ đã xa
xỉ lại càng
xa xỉ hơn,
một cuộc
sống xa hoa
dật lạc có
được từ
những sưu
thuế và mồ
hôi lao động
của nhân
dân. Còn hơn
thế, giới
quý tộc
thường gây
chinh chiến.
Tại Trung
Quốc – có lẽ
ở các quốc
gia khác
cũng thế –
giới quý tộc
đều xuất
thân từ quân
phiệt. Thoạt
đầu, giới
quân phiệt
này đã thực
thi chức
năng hữu ích
của họ là
bảo vệ xã
hội. Nhưng
với tư cách
là một giai
cấp, họ đã
đi quá xa
giới hạn, và
đã cướp bóc
nhân dân,
thậm chí còn
cướp bóc lẫn
nhau nữa. Đa
số giới họ
đều thấy
rằng chính
cái nghệ
thuật chinh
chiến ấy mới
là nghề
nghiệp duy
nhất mà sĩ
phu phải đặc
biệt lưu
tâm. Và họ
nhạo báng
bất cứ ai –
kể cả những
kẻ chung
giai cấp với
họ – luôn mơ
tưởng một
chính quyền
hoàn hảo và
qui củ.
Khổng Tử
không chỉ là
người hiếu
hòa. Ông chủ
trương bất
đắc dĩ cũng
cần đến vũ
lực, nhưng
quyền lực ấy
phải nằm
trong tay
những bậc
đạo đức để
thế giới
không biến
thành nạn
nhân của
những kẻ
sùng bái bạo
lực. Thực
ra, ông cho
rằng vũ lực
là phương
sách sau
cùng, điều
tiên quyết
là con người
phải phục
tùng chánh
nghĩa. Ông
nói: «Nếu đã
tự xét mình
có lỗi thì
dù đối diện
một kẻ thất
phu, ta cũng
lấy làm run
sợ. Nhưng
nếu tự xét
mình có
chính nghĩa
thì dù đương
đầu muôn vạn
người, ta
vẫn cứ xông
tới.»
Ở mức độ
thực tế hơn,
ông cho rằng
một quân đội
không thể
thiện chiến
nếu những
người lính
bình thường
chưa hiểu vì
sao họ phải
chiến đấu
cũng như
chưa hiểu
cái chính
nghĩa mà họ
chiến đấu
cho. Ông cho
rằng nếu
khiến cho
chiến sĩ
nhận ra sự
vô đạo đức
của kẻ thù
thì tinh
thần chiến
đấu của họ
sẽ dâng cao.
Ông nói:
«Chẳng dạy
bảo dân mà
bắt họ đi
đánh giặc,
đó là đẩy họ
đến chỗ thua
chết mà
thôi.»
Khổng Tử
nhận thức
rằng những ý
niệm như thế
hoàn toàn
bất đồng với
những ý niệm
của giới quý
tộc. Ông
không những
nhận ra nó
mà còn cố
gắng thực
thi điều gì
đó về nó. Từ
thời Khổng
Tử trở về
trước, thuật
ngữ «Quân
tử» có ý
nghĩa phổ
quát giống
như ý nghĩa
nguyên thủy
của từ «gentleman»
của người
Tây phương,
tức là nó ám
chỉ một
người sinh
ra trong gia
đình giàu
sang mà tổ
tiên của họ
thuộc giai
tầng cao hơn
hạng dân
đen. Kẻ đó
sinh ra đã
là quân tử
rồi, không
cần biết đạo
đức của hắn
như thế nào.
Đến thời của
Khổng Tử,
ông đã thay
đổi hoàn
toàn quan
niệm này và
tạo cho từ
Quân tử
có ý nghĩa
mới mẻ. Theo
ông, ai ai
cũng có thể
trở thành
bậc quân tử
nếu họ là
người có đức
hạnh tốt,
công bằng,
nhân ái, vị
tha. Chẳng
có ai sinh
ra là quân
tử ngay lập
tức. Đó chỉ
là vấn đề
của đức hạnh
mà thôi.
Khổng Tử
khinh miệt
những trò
xảo ngôn
miệng lưỡi.
Ông rất ít
khi diễn
thuyết trước
đám đông.
Tuy nhiên,
ông hẳn là
một người
diễn giảng
rất thuyết
phục trước
một người
hoặc một
nhóm ít
người nào
đó. Ngày nay
đọc Luận
Ngữ –
tác phẩm ghi
lại tất cả
những gì ông
đã nói –
chúng ta
phải cảm
nhận cái hấp
lực từ nhân
cách của
ông. Những
ai tiếp cận
với ông đều
được nghe
những ý
tưởng canh
tân thế giới
của ông, dần
dần họ trở
thành môn đệ
của ông.
Ngay lúc
đầu, vài
người trong
số môn đệ ấy
chỉ nhỏ tuổi
hơn ông một
chút thôi.
 |
Khổng
Tử dạy
học |
Ông và môn
đệ hình
thành một
trường tư
thục đầu
tiên trong
lịch sử
Trung Quốc
có sự giáo
dục nâng cao
hơn. Ngày
xưa trong
triều đình
vẫn có những
chức quan
phụ trách
việc dạy dỗ
con em của
giới quý tộc
và quan lại.
Những người
được sắc
phong làm
quan chức
nhỏ sẽ vào
triều và học
tập cách làm
quan nơi các
quan chức
cao hơn. Lối
giảng dạy
này dường
như chủ yếu
là huấn
luyện các
thao tác để
người học có
thể thi hành
một chức
việc nào
đấy. Tuy
nhiên, Khổng
Tử không
những huấn
luyện các kỹ
năng, mà ông
còn giáo
hóa
(educate)
họ với ý
nghĩa – như
một định
nghĩa trong
từ điển giải
thích động
từ này – là
«phát triển
và rèn luyện
trí tuệ hoặc
đạo đức con
người để mở
mang, kiên
cường và
khép vào kỷ
luật».[7]
Có một lý do
nhất định
giải thích
tại sao
Khổng Tử đã
vượt ra khỏi
khuôn mẫu cổ
truyền trong
quan niệm
của ông về
chức năng
của học vấn.
Chương trình
giáo dục của
ông tương
đồng với
chương trình
giáo dục của
cung đình ở
chỗ đó là
cái học để
làm quan.
Lối giáo dục
cung đình
đòi hỏi quan
lại là công
cụ của kẻ
thống trị
(vua chúa),
nghĩa là
phục vụ và
thực thi
những nguyện
vọng của
vua, đồng
thời cai trị
dân theo tập
quán mà
thôi. Trái
lại, Khổng
Tử kỳ vọng
các môn đệ
của ông phải
nắm giữ vai
trò năng
động cách
mạng bất kỳ
chính quyền
nào mà họ
tham chính,
đó là buộc
giai cấp
thống trị
phải đáp ứng
nguyện vọng
của nhân
dân. Muốn
được vậy,
môn đệ đó
phải được
chuẩn bị chu
đáo cho chức
năng tích
cực ấy: Họ
phải biết
chủ động
sáng tạo,
thông minh,
đạo đức và
luôn phải tự
rèn luyện
mãi. Chỉ
huấn luyện
các kỹ năng
thôi thì
chưa đủ.
Với Khổng
Tử, quan
niệm về «bậc
quân tử phi
nguồn gốc
xuất thân»
không là lý
thuyết
suông; ông
đã vận dụng
nó trong
việc giáo
hóa môn đệ
trở thành
bậc quân tử.
Bất kỳ ai ai
cũng có thể
trở thành
môn đệ của
ông, ngay cả
những kẻ
nghèo hèn
nhất ông
cũng không
câu nệ. Ông
nói: «Dạy
người, ta
không phân
biệt đó là
loại người
nào, lý lịch
thế nào.»
Về cách thu nhận môn đệ, ông nói: «Kẻ
nào đến ta xin nhập môn, dâng lên ta một xâu thịt khô; ta chưa hề chê lễ
mọn mà từ chối dạy.»
Ông không hề thiên vị học trò, dù rằng học trò của ông có kẻ giàu người
nghèo. Ông khen ngợi môn đệ nào, chỉ vì tài năng và đức độ của người đó
mà thôi. Chẳng hạn ông khen một đệ tử tên là Trọng Do: «Mặc
áo rách áo cũ đứng chung với kẻ mặc áo lông mà không hổ thẹn, ấy là trò
Do vậy.»
Điều khá thú vị là vị môn đệ cơ hàn đó về sau trở nên quan chức cao cấp.
Bởi ông dạy học không chỉ vì để dạy, mà trái lại, ông muốn chính tay môn
đệ ông sẽ hành sử và tranh đấu cho tôn chỉ của ông, cho nên ông đòi hỏi
rất nhiều về trí tuệ và nỗ lực của họ: «Kẻ nào
chẳng gắng sức để hiểu thông, thì ta chẳng giúp cho hiểu thông được. Kẻ
nào không cố gắng tỏ bày ý kiến, thì ta chẳng giúp cho phát triển được.
Kẻ nào biết một góc mà chẳng chịu tìm hiểu thêm ba góc kia thì ta chẳng
dạy cho.»
Bởi vì ông
dạy thứ dân
trở thành
quân tử, ngõ
hầu họ có
thể ra làm
quan, nên
ông rất chú
ý việc
truyền dạy
nghi lễ cho
họ. Nhưng
nghi lễ ấy
đã được sửa
đổi khác xa
với nghi lễ
truyền thống
xa xưa. Chữ
Lễ nguyên
nghĩa là «cúng
tế»
(sacrifice),
nó còn ám
chỉ mọi nghi
lễ của việc
cúng tế nữa.
Như vậy nó
bao hàm các
buổi lễ lạc
và nghi lễ,
mà các lễ
nghi này vốn
dĩ là phép
giao tiếp
của giới vua
chúa và quan
lại.
Khổng Tử bắt đầu từ chữ Lễ. Nếu kẻ cai trị đã biết trang nghiêm cúng tế
tổ tiên của họ thì tại sao họ không chú tâm đến triều chính y như vậy?
Nếu quan lại mỗi ngày biết thi lễ và thủ lễ với nhau thì tại sao họ
không quan tâm thi lễ và thủ lễ với quần chúng, mà đám dân đen này vốn
dĩ là xương sống của quốc gia? Cho nên có lần ông dạy môn đệ là Trọng
Cung rằng: «Bước ra khỏi nhà, ta phải
thủ lễ dường như sắp gặp khách quý. Khi bảo dân thi hành công vụ, ta
phải sốt sắng dường như thừa hành cuộc cúng tế lớn. Những gì mình không
muốn người khác làm cho mình, thì mình chớ thi hành cho người. Có như
vậy, dân trong nước không ai oán mình mà người thân trong gia đình cũng
không oán mình nữa.»
Đức hạnh như
vậy dĩ nhiên
tương phản
với thói
luông tuồng,
phóng túng
của giới quý
tộc.
Lễ chính là
những qui
tắc được
minh định.
Trong những
kinh điển
Nho giáo
người ta sẽ
tìm được
những chỉ
dẫn tỉ mỉ để
biết cư xử
sao cho hợp
Lễ. Thậm chí
khi cầm một
vật gì,
người ta còn
được dạy là
phải đặt
ngón tay như
thế nào nữa.
Thế nhưng
chính Khổng
Tử lại quan
niệm khác
hẳn về Lễ.
Điều quan
trọng của Lễ
là ở tinh
thần và
ở tấm
lòng.
Ông khinh
miệt những
hình thức xa
hoa lộng lẫy
mà thiếu
vắng lòng
thành: «Lễ
cần ở tiết
kiệm hơn là
xa hoa. Tang
lễ cần có
lòng đau xót
người chết
hơn là lòe
loẹt phô
trương.»
Toàn bộ hệ
thống tư
tưởng và đạo
đức của ông
được dựng
xây trên mối
suy tư về
bản chất
nhân sinh.
Một mặt, ông
không cho
rằng mỗi cá
nhân là một
hiện thể có
tính siêu
hình (a kind
of
metaphysical
entity), tức
là một xã
hội hoàn
toàn có
trước cá
nhân đến nỗi
một cá nhân
nếu muốn
được gọi là
tồn tại
(exist) thì
phải bị cuốn
hút hoàn
toàn trong
xã hội đó.
Trái lại,
theo ông,
con người là
những sinh
vật xã hội
thiết yếu
(essentially
social
beings). Con
người phải
là con người
gắn liền với
xã hội. Mặt
khác, vì xã
hội chẳng
qua là sự
tương tác
giao tiếp
giữa con
người, nên
xã hội phải
là cái xã
hội do con
người hình
thành. Vì
vậy, theo
Khổng Tử,
lương tâm
của cá nhân
ngăn cấm anh
ta rút lui
khỏi xã hội
hay đầu hàng
sự phán xét
đạo đức của
anh ta về
nó. Và cũng
sai lầm nữa,
nếu hắn trở
thành một ẩn
sĩ hoặc một
kẻ xu phụ
đám đông.
Lễ là quan niệm cực kỳ quan trọng trong hệ thống giáo dục của Khổng Tử.
Các bác sĩ điều trị về tâm bệnh (psychiatrist) ngày nay của Tây phương
cho rằng nền giáo dục Tây phương chú trọng rèn luyện trí tuệ (Trí dục)
cho học sinh ở mức độ cao nhưng lại bỏ qua việc huấn luyện và uốn nắn
tình cảm của học sinh (Đức dục). Vì thế, đôi khi khó mà tạo ra được một
cá nhân khéo thích ứng xã hội với tư cách là một phần tử hữu dụng và
hạnh phúc trong xã hội. Trái lại, đường lối giáo dục của Khổng Tử không
chú trọng trí dục bằng việc huấn luyện cho môn đệ đạt được sự quân bình
về tình cảm, mà sự quân bình này là kết quả của việc học Lễ. Sự học của
bậc quân tử phải khép mình vào Lễ, nhờ nương vào Lễ mà không bị cám dỗ
làm điều bội nghịch: «Bậc quân
tử học rộng văn chương và khép mình vào Lễ, như vậy sẽ không phạm điều
trái đạo lý.»
Một quan
niệm cực kỳ
quan trọng
triết lý của
ông là Đạo.
Đạo nguyên
nghĩa là
«con đường».
Trước thời
kỳ của Khổng
Tử từ ngữ
«Đạo» thường
được dùng
với nghĩa là
«con đường»
hoặc «phẩm
hạnh», như
vậy có thể
là tốt hoặc
xấu. Sau
thời đại của
Khổng Tử, từ
ngữ «Đạo»
được dùng
như là một
quan niệm
huyền học (a
mystical
concept) về
nguyên lý vũ
trụ hoặc vạn
hữu. Quan
niệm này
được phái
Đạo gia
(Taoists) sử
dụng triệt
để (ngay
danh xưng
của họ cũng
nói lên điều
này rồi).
Trong Luận
Ngữ, ta thấy
Khổng Tử đề
cập nhiều
lần về Đạo,
nhưng với
lối giải
thích hơi
khác. Theo
nhận xét của
tôi, chúng
ta cần thấy
rằng: đối
với Khổng
Tử, Đạo
không phải
là cái gì
huyền bí. Đó
là con Đường
(với chữ Đ
viết hoa)
tối thượng,
trên hết mọi
con đường mà
con người
cần tuân
theo. Cứu
cánh của nó
là sự hạnh
phúc cho
nhân loại,
cái hạnh
phúc đích
thực của con
người ngay
khi họ còn
sống tại thế
gian. Nếu Lễ
được hiểu là
những qui
định đạo đức
và nghi lễ,
thì Đạo bao
gồm cả những
qui tắc về
đạo đức của
từng cá nhân
và khuôn mẫu
chính trị,
mà những
khuôn mẫu
này sẽ tạo
được phúc
lợi
(well-being)
cũng như sự
tự hiện thực
hoá bản thân
(self-realization)
cho từng cá
nhân đó.
Nếu bảo rằng
Đạo không có
tính cách
huyền bí,
thì điều này
không có
nghĩa là
không được
nhiệt thành
xem trọng.
Khổng Tử nói
«Sáng mà
nghe Đạo,
chiều chết
cũng cam.»
Ông nghe
được Đạo và
không hối
tiếc sẽ
chết, không
có nghĩa là
ông ta sẽ
lên thiên
đàng sau khi
biết Đạo.
Bởi vì Khổng
Tử từ khước
luận bàn về
sinh tử, ông
không nói về
cuộc sống
sau khi chết
sẽ ra sao.
Dường như
Khổng Tử coi
trọng chất
(the
qualitative)
hơn là lượng
(the
quantitative).
Đời người
không phải
tính bằng
những năm
tháng mà họ
đã hiện hữu
trên thế
gian này, mà
bằng cái
phẩm chất
được thể
hiện mà
thôi. Một
khi con
người biết
Đạo rồi, tức
là anh ta
biết cái
ngôi vị cao
nhất của
kiếp người.
Và hễ giác
ngộ – biết
Đạo và nhập
Đạo – rồi,
đó là quá
đủ, nếu có
chết cũng
cam lòng.
Nhưng Đạo (theo Khổng Tử) khác hẳn Đạo có tính huyền bí theo quan niệm
của Đạo giáo về sau. Ông nói: «Chỉ con
người mới có thể phát huy cho Đạo được lớn mạnh sáng rỡ; chứ ngược lại
thì không.»
Mười ba thế
kỷ sau khi
Khổng Tử
mất, vị đại
nho Hàn Dũ
(đời
Đường) đã
phân biệt
rất kỹ sự
khác biệt
giữa Đạo của
Khổng Tử và
Đạo theo
quan điểm
Đạo giáo về
sau. Trong
bài «Nguyên
Đạo (bàn
về nguồn gốc
của Đạo),
Hàn Dũ viết:
«Bác Ái
(yêu khắp
mọi người)
gọi là
Nhân thi
hành ra cho
đúng thì gọi
là Nghĩa.
Do theo đó
mà làm thì
gọi là Đạo.
Lòng mình
đầy đủ không
trông đợi
bên ngoài
thì gọi là
Đức.
[...] Điều
mà Lão Tử
gọi là Đạo
khác với cái
Đạo Khổng Tử
nói, điều mà
ông gọi là
Đức
thì khác với
cái Đức
[mà nhà nho]
chúng ta
gọi. [...]
Đạo Đức theo
Lão Tử là
vứt bỏ
Nhân Nghĩa
vậy.»
Theo
Hàn Dũ, cái
Đạo lý tưởng
ấy đã truyền
thừa từ
Nghiêu,
Thuấn mãi
đến Chu Công
và rồi đến
Khổng Tử,
Mạnh Tử. Cái
Đạo ấy không
phải là cái
Đạo bất biến
và cố định,
mà là cái
Đạo uyển
chuyển thay
đổi theo cá
nhân và hoàn
cảnh.
Khổng Tử xem
Đạo là uyển
chuyển như
vậy nên ông
không buộc
môn đệ phải
trung thành
mù quáng với
vua chúa.
Một vị đại
thần thì
phụng sự
vua, nhưng
việc phụng
sự này xuất
phát từ Đạo,
chứ không
phải vì bản
thân nhà
vua. Nếu vị
đại thần
không thể
khuyên bảo
vua theo Đạo
lý, thì vị
ấy nên từ
quan: «Người
được gọi là
đại thần thì
lấy Đạo mà
phụng sự
vua. Nếu
không được
như vậy, thì
hãy rút lui
từ quan.»
Theo Khổng
Tử, lòng
Trung quân
(trung thành
với vua)
không thể
hiểu một
cách thiển
cận và máy
móc. Khi môn
đệ là Tử
Cống nói với
ông rằng:
Quản Trọng
không đáng
gọi là
nhân bởi
vì khi công
tử Củ bị
Hoàn Công
giết mà Quản
Trọng là bầy
tôi của công
tử Củ lại
không chết
theo, ấy vậy
lại còn làm
Tể Tướng
theo giúp Tề
Hoàn Công
nữa. Khổng
Tử trả lời:
«Quản Trọng
theo giúp Tề
Hoàn Công
nên nghiệp
bá, nhờ vậy
mà thiên hạ
từ loạn đổi
sang trị.
Nếu không có
Quản Trọng
thì chúng ta
phải gióc
tóc và vắt
vạt áo bên
trái như bọn
man di. Lẽ
nào vì tấm
lòng trung
quân nhỏ hẹp
tầm thường
mà đi treo
cổ bên lạch
suối sao?»
Khổng Tử đòi
hỏi nhiều về
sự nhiệt
thành nơi
môn đệ, sự
xả thân vì
Đạo: «Thấy
món lợi bèn
nhớ điều
nghĩa (mà
chẳng dám
phạm). Thấy
thế nguy bèn
hy sinh
không tiếc
mạng. Bình
sanh khi
giao ước
điều gì thì
dẫu bao lâu
cũng không
quên.»
Hoặc: «Trong
khi cúng tổ
tiên, giữ
lòng thành
kính; trong
cơn tang
chế, xét
tưởng sự đau
thương.»
Hằng bao thế
kỷ qua trong
giới nho sĩ
có biết bao
người diệt
trừ bạo
chúa. Và
cũng có
không ít
người bỏ
mạng vì dám
can gián vua
dối gạt vua.
Nếu vua sai
trái, phải
can gián,
không sợ
mích lòng.
Như trường
hợp Hàn Dũ,
vì can gián
vua Đường
khi thấy vua
quá sùng
thượng đạo
Phật (đến
nỗi xem mớ
xương cốt
thượng tọa
là xá lợi)
mà ông bị
trừng phạt.
Tuy ông
không bị
giết vì tội
khi quân
(ông dám gọi
đó là mớ
xương khô
thúi)
nhờ các quan
can thiệp,
nhưng ông
phải chịu
cảnh lưu đày
chốn duyên
hải hoang vu
phía nam.
Nơi chốn lưu
đày, ông đã
tận tụy phát
triển và cải
thiện đời
sống lầm
than của
nhân dân,
ông vẫn yên
tâm rằng
mình chiến
đấu đúng
đắn, vì làm
như vậy là
hợp với lẽ
Đạo cũng như
bao nhiêu
nho sĩ đã
từng làm qua
bao thời
gian và
không gian.
Khổng Tử
không đề cập
đến những
vấn đề siêu
hình, đến
nỗi môn đệ
thở than:
«Văn chương
của Thầy thì
ta nghe đã
nhiều. Còn
bản tánh con
người và Đạo
Trời thì
chẳng nghe
thầy dạy.»
Môn đệ hỏi
về quỉ thần
và sự chết,
Khổng Tử
đáp: «Đạo
thờ người
còn chưa
biết, sao
biết được
đạo thờ quỉ
thần. Sự
sống còn
chưa biết,
sao biết
được sự
chết?»
Khổng Tử
tránh né
những câu
hỏi đại loại
như trên là
vì không
muốn môn đệ
bận tâm về
vấn đề siêu
hình hóc
búa. Thật
ra, ông đề
cập về Trời
rất nhiều
lần. Ông tự
nhận có sứ
mạng nắm giữ
cái Tư Văn
斯文
(nền văn
chương ấy)
mà Trời đã
từng trao
cho Văn
Vương: «Nếu
Trời muốn để
mất nền văn
chương ấy,
thì sau khi
Văn Vương
mất, ngài
đâu giao phó
cho ta. Bởi
Trời chưa để
mất nền văn
chương ấy,
nên người
đất Khuông
sao hại được
ta?»
Ông than
rằng: «Đời
chẳng ai
biết ta!
Biết chăng,
chỉ có Trời
mà thôi!»
Trời là chi,
theo Khổng
Tử? Ông cho
rằng Trời
không phải
là một hữu
thể mang
hình dáng
giống như
con người
chúng ta.
Qua cách
diễn đạt của
Khổng Tử nói
về Trời, ta
nhận thấy từ
ngữ này biểu
đạt một
năng lực đạo
đức
(moral
force) trong
vũ trụ mà
sức mạnh này
được quan
niệm khá mơ
hồ. Khổng Tử
nhấn mạnh
đến sự nỗ
lực của từng
cá nhân, sau
đó mới biết
mệnh Trời là
gì.
Tuy nhiên
đáng chán
thay, sự nỗ
lực của
người thiện
dường như
chẳng có kết
quả là bao,
bởi vì những
kẻ ác vẫn
còn phong
lưu phè
phỡn. Nhưng
cái đức tin
vào Trời
khiến ông
vững lòng
rằng dù thế
nào và bất
cứ đâu, vẫn
có một uy
lực thiêng
liêng trợ
giúp những
kẻ cô độc
đấu tranh
cho lẽ phải.
Khổng Tử kết
án tôn giáo,
cái tôn giáo
truyền thống
thuở ấy.
Theo ông,
cái mà người
ta gọi là
tôn giáo
chẳng qua là
cuộc đổi
chác núp
bóng sự hiến
tế. Người ta
cúng quá
nhiều lễ vật
cho tổ tiên
và quỉ thần
chẳng qua là
trông cậy
vào sự độ
trì của
người khuất
mặt. Khổng
Tử có tin
tưởng rằng
người đã
chết có thể
độ trì người
sống không?
Chúng ta
không rõ
điều ấy,
dường như
ông không
tin như vậy.
Chúng ra cần
lưu tâm
rằng, giới
thống trị
đều có hàm ý
tôn giáo vào
chức năng
lèo lái quốc
gia của họ.
Vua thì được
gọi là
Thiên Tử
(con Trời).
Giới quí tộc
thì cho rằng
nhờ phúc ấm
tổ tiên mà
họ có địa vị
ăn trên ngồi
trốc trong
xã hội. Tổ
tiên cao quý
của họ ở
trên trời
đầy quyền
lực và độ
trì cho con
cháu. Quan
niệm này đã
bảo vệ cái
đặc quyền
đặc lợi cố
hữu của giới
quý tộc.
Khổng Tử
không tấn
công quan
niệm lâu đời
này, ông
không phê
phán gì nó,
mà chỉ khẳng
định rằng
yếu tố quyết
định ngôi
vua chính là
tài đức và
sự giáo dục
chứ không
phải là
thành phần
xuất thân.
Ông từng
khen một môn
đệ có đủ tài
đức để làm
vua, dù rằng
người này
không thuộc
giòng dõi
hoàng tộc:
«Trò Ung
(tức Trọng
Cung) có thể
ngồi quay về
hướng Nam
(tức có thể
làm vua
được).»
[
Khổng Tử phê
phán tôn
giáo, nhưng
ông không
đưa quan
niệm này vào
học thuyết
của ông.
Thái độ của
ông dường
như tương
đồng với
thái độ của
các nhà khoa
học hiện
đại. Có lẽ
chẳng nhà
khoa học nào
cam đoan
rằng người
ta có thể
chứng minh
sự hiện hữu
của Thượng
Đế bằng
những kỹ
thuật khoa
học. Ngay
những nhà
Thần học
cũng thừa
nhận như
thế. Ngược
lại, người
ta cũng
không thể
dùng phương
pháp và kỹ
thuật khoa
học để chứng
minh rằng
không có
Thượng Đế.
Đối với
tuyệt đối
thể ấy, khoa
học gia chỉ
có thể quan
sát rồi quan
sát, sau đó
lập định
những nguyên
tắc thể hiện
xác suất ưu
trội hơn,
Khổng Tử
cũng làm
tương tự đối
với chân lý
tối thượng
(tức Thượng
Đế) ấy,
nghĩa là ông
không tuyên
bố cái chân
lý tối
thượng ấy
hiện hữu, mà
ông chỉ dò
dẫm đến chân
lý bằng
phương pháp
quan sát và
phân tích.
Ông nói:
«Nên nghe
cho nhiều.
Điều gì chưa
rõ thì hãy
tồn nghi,
chớ có nói
ra. Còn điều
gì mình đã
biết thì hãy
nói dè dặt.»
Ông chẳng
nói gì về sự
«hoát
nhiên đại
ngộ» (sự
giác ngộ
chớp nhoáng)
như một sự
thấu đạt
chân lý.
Trái lại, sự
tư lự truy
cầu chân lý
cũng là vô
ích: «Trước
đây ta mảng
lo trầm tư
mặc tưởng,
ngày quên ăn
đêm quên
ngủ. Xét ra
việc ấy là
vô ích,
chẳng bằng
chăm học còn
hơn.»
Thế đã rõ,
mặc dù người
đời tôn ông
là thánh
nhân, là
«Khuôn
mẫu cho vạn
đời sau bắt
chước»
(Vạn thế sư
biểu
萬
世
師
表
), nhưng ông
tỏ ra thiếu
quả quyết về
khả năng
toàn trí
(omniscience)
và toàn chân
(infallibility)
của chính
ông với bản
thể tuyệt
đối của vũ
trụ. Ông chỉ
nỗ lực thiết
lập một cơ
cấu ý tưởng
khá vững
chắc để làm
cơ sở xây
dựng hạnh
phúc và đem
lại tự do
cho nhân
loại. Cái cơ
sở ấy không
phải là
những giáo
điều thần
bí, cũng
không phải
là niềm hy
vọng có tính
tôn giáo, mà
đó là nền
tảng xây
dựng con
người và xã
hội.
Vậy bản tính
con người và
bản tính xã
hội là gì?
Ông không
trả lời vội
câu hỏi này.
Ông không
cho rằng «nhân
sinh bản
tính thiện»
(như Mạnh Tử
sau này đã
nói) và cũng
không bảo
rằng
«nhân sinh
bản tính ác»
(như Tuân Tử
sau này đã
nói). Ông
quan sát cụ
thể hơn,
nhận xét
quan trọng
nhất chính
là: mọi
người đều
bình đẳng
như nhau,
còn thiện
hay ác
thì không
khẳng định
được. Bởi lẽ
ông thường
thấy có khi
những kẻ con
dòng cháu
dõi, những
kẻ tự nhận
là cao sang,
lại cư xử
như loài cầm
thú, trong
khi những kẻ
trong nghịch
cảnh lại có
tư cách hết
sức đáng tôn
trọng.
Dù con người
có khác nhau
thế nào,
nhưng nguyện
vọng chung
của họ vẫn
là đạt
được hạnh
phúc.
Quần chúng
đói khát,
thống khổ vì
chinh chiến,
vì bị bức
hại dưới tay
giới quý
tộc. Cho nên
cứu cánh đã
rõ: Phải
mưu cầu hạnh
phúc cho
nhân sinh.
Khổng Tử vì
thế mà quan
niệm về một
chế độ tốt
đẹp như sau:
«Người cầm
quyền phải
vì hạnh phúc
của dân
khiến kẻ
trong nước
vui dạ, còn
những kẻ
phương xa
phấn khởi mà
đến ở.»
Bởi vì hạnh
phúc là điều
tốt đẹp của
con người,
mà con người
vốn dĩ là
sinh vật xã
hội, cho nên
có một
nguyên tắc
hỗ tương
giữa con
người với
nhau trong
xã hội. Nếu
mỗi người
đều sống vì
hạnh phúc
của mọi
người thì xã
hội là một
cõi hạnh
phúc vậy.
Cái nguyên
tắc hỗ tương
này, ông nói
như sau:
«Điều gì
mình không
muốn người
ta làm cho
mình, thì
mình chớ làm
cho người.»
Ông nói rõ
thêm: «Người
có lòng nhân
hễ muốn tự
lập thì cũng
lo thành lập
cho người,
hễ muốn
thông đạt
thì cũng lo
làm cho
người thông
đạt, hễ xử
với mình thế
nào thì cũng
xử với người
xung quanh
thế ấy.»
Tuy nhiên,
Khổng Tử
không quá
ngây thơ khi
nghĩ rằng
chỉ có mấy
điều đó sẽ
giải quyết
được vấn đề
hạnh phúc
nhân sinh.
Tất cả mọi
người đều mơ
ước có hạnh
phúc. Hầu
hết chúng ta
ai cũng mong
muốn những
kẻ xung
quanh ta
cũng được
hạnh phúc
nữa. Ấy vậy
mà thực tế
chúng ta lại
cư xử thiếu
thân ái,
chúng ta khư
khư bảo vệ
hạnh phúc
riêng tư dù
rằng điều đó
có thể
phương hại
đến hạnh
phúc người
khác. Muốn
chỉnh lý
điều này,
cần phải
giác ngộ
quần chúng,
và xã hội
hóa họ. Vì
vậy mà Khổng
Tử chủ
trương phải
giáo dục
quần chúng.
Giáo dục
quần chúng
để họ trở
thành những
công dân có
ý thức chính
là nền tảng
thiết yếu
của quốc
gia. Nếu
không giáo
dục họ mà
chỉ dùng
hình phạt
răn đe cưỡng
bức, thì đó
là hạ sách:
«Nếu nhà cầm
quyền chuyên
dùng pháp
chế và hình
phạt để trị
dân thì dân
sợ mà không
phạm pháp đó
thôi, chứ
thật lòng họ
không biết
xấu hổ (do ý
thức đạo
đức). Vậy để
trị dân, nhà
cầm quyền
phải dùng
đức hạnh và
lễ tiết. Như
vậy, dân
không những
biết hổ thẹn
(không dám
phạm pháp)
mà còn được
cảm hóa bởi
đức độ của
nhà cầm
quyền, và
rồi dân sẽ
trở nên tốt
lành.»
Nếu người ta
đeo đuổi lý
tưởng này,
hóa ra chính
quyền sẽ vô
ích chăng?
Khổng Tử
không cực
đoan như
vậy. Ông
nhận thấy
rằng cần
phải có
chính quyền
tốt. Nhưng
tại sao
chính quyền
tồi tệ? Bởi
lẽ theo
Khổng Tử,
những kẻ
thống trị
chẳng qua là
do cha
truyền con
nối, nào
phải làm vua
là do học
vấn và tài
đức đâu.
Từ những lời
nói rải rác
của Khổng Tử
về chính
trị, triết
lý về chính
trị của ông
có thể tóm
tắt như sau:
Chính quyền
phải chăm lo
phúc lợi cho
nhân dân.
Muốn vậy,
người cai
trị phải là
người tài
đức trong
nước và được
tuyển chọn
đơn thuần
căn cứ vào
đạo đức và
trí tuệ của
họ thôi, chứ
không phải
căn cứ vào
thành phần
xuất thân,
gia sản, hay
địa vị xã
hội. Như vậy
cần phải có
một nền giáo
dục thích
hợp. Giáo
dục phải phổ
cập mọi tầng
lớp nhân
dân, để cho
những nhân
tài có thể
tham gia
việc nước.
Ông không
đòi hỏi nhà
vua (do cha
truyền con
nối) phải
phế ngôi.
Ông chỉ cố
thuyết phục
vua nên ngự
trị hơn là
cai trị, và
hãy giao
quyền hành
thực thụ cho
các quan
lại: «Một
lời nói dua
nịnh của họ
có thể làm
mất nước,
một lời nói
đầy đạo lý
của họ có
thể làm hưng
thịnh đất
nước.»
Cái trọng
trách đó
chính là khi
vua vô đạo,
càn quấy,
quan phải có
lời can
gián. Nếu vì
sợ chết hay
vì tư lợi mà
a dua theo
thói càn
quấy của
vua, đó là
hiểm họa mất
nước vậy.
Học thuyết
của Khổng Tử
đã thất bại,
bởi lẽ xưa
nay vua chúa
thường chỉ
định quần
thần. Cho
nên phương
pháp tuyển
cử do Khổng
Tử đề xướng
khó mà thực
hiện được.
Tại Trung
Quốc ngày
xưa, bầu cử
và tuyển
chọn là điều
kỳ quặc
không nghe
ai nói bao
giờ; hơn
nữa, người
dân thuở ấy
thất học và
không có ý
thức chính
trị. Tất cả
những gì
Khổng Tử làm
được là tác
động vào
thanh niên,
giáo dục họ
để mai sau
có thể tham
chính. Nhờ
đó họ có thể
tạo áp lực
công luận để
đặt nhân tài
đất nước vào
những địa vị
lãnh đạo
đúng chỗ.
Ở tuổi
khoảng 50,
Khổng Tử còn
phải bôn ba
từ nước này
sang nước
khác, của
phía Bắc
Trung Quốc
để tìm minh
vương biết
áp dụng học
thuyết của
ông. Tiếc
thay các vua
chúa chỉ
biết trọng
bá đạo hơn
là vương
đạo. Ông bèn
quay về cố
hương (nước
Lỗ) để dạy
học và mất
năm 479 tcn,
hưởng thọ 73
tuổi.
●
LÊ ANH
MINH
lược dịch
Nguồn:
«Confucius
and the
Struggle for
Human
Happiness»,
in trong:
H.G. Creel,
Chinese
Thought from
Confucius to
Mao Tsê-Tung
(Tư Tưởng
Trung Quốc
từ Khổng Tử
đến Mao
Trạch Đông),
A
Mentor Book,
New York,
1964, p.
29-44.
Những trích
dẫn (dịch
Anh ngữ) của
H.G.Creel về
lời nói của
Khổng Tử
được người
dịch phụ
đính nguyên
văn chữ Hán
theo: Tứ
Thư (Four
Books)
của James
Legge
(HongKong,
1962),
Tứ Thư Tường
Giải
四
書
詳
解
của Chiêm
Bình
詹
平
(nxb
Chánh Ngôn,
Đài Loan,
1964), và
Luận Ngữ
dịch chú
論
語
譯
注
của
Dương Bá
Tuấn
楊
伯
峻
(nxb
Trung
Hoa Thư Cục,
Bắc Kinh,
1998).
CHÚ THÍCH
|