Những bài cùng tác
giả
Những bài cùng đề tài
I/ HỌC THUYẾT CỦA SIGMUND FREUD
Những
vụ tội phạm tầy trời xẩy ra liên tiếp trong thời
gian gần đây, với sự gia tăng cả về tần suất lẫn mức
độ tàn bạo, là những tiếng chuông báo động tình
trạng suy đồi đạo đức và băng hoại lương tri trong
xã hội. Đặc biệt, sự xuất hiện của những tội phạm
cực kỳ bất nhân nhưng có gương mặt sáng sủa trí thức
như Nguyễn Đức Nghĩa, có tuổi đời non choẹt như Lê
Văn Luyện, có nghề nghiệp tử tế như cô giáo Nguyễn
Thị Thuận, …buộc chúng ta phải xem xét lại vấn đề từ
gốc rễ:
Bản
tính con người là thiện hay ác?
Hơn
2500 năm trước, Khổng tử đã trả lời rành mạch: “Nhân
chi sơ tính bản thiện” – Con người sinh ra vốn có
bản tính thiện.
Nhưng
hơn hai trăm năm sau, Tuân tử lại nêu lên học thuyết
về “tính ác”, khẳng định bản chất con người là ác,
vì ác nên mới cần phải giáo hoá.
Trên
thực tế, học thuyết của Khổng tử đã thắng thế tại
Đông phương. Trong mỗi người Việt Nam chúng ta, ít
hay nhiều đều đã chịu ảnh hưởng của Khổng giáo (Nho
giáo). Tuy nhiên, học thuyết của Sigmund Freud trong
thế kỷ 20 về cái Eros và Thanatos lại phù hợp với tư
tưởng của Tuân tử. Thậm chí trên thế giới ngày nay,
đặc biệt tại Mỹ, nhiều dự án nghiên cứu tội phạm học
chủ trương tìm kiếm gien tội phạm, tức là đang vô
tình tìm cách xác minh luận điểm của Tuân tử bằng
thực nghiệm.
Vậy đâu là sự thật?
Học thuyết nào đúng?
Sống trong một nền
văn hoá pha trộn ảnh hưởng của Nho giáo truyền thống
với các trào lưu tư tưởng Tây phương hiện đại, nhiều
người trong chúng ta dễ rơi vào tình trạng do dự
nước đôi. Nhưng Francois Julien, một triết gia Pháp
hiện đại, trong cuốn “Xác lập cơ sở cho đạo đức”,
đề nghị phải có một câu trả lời dứt khoát.
Loạt bài “Luận về
bản tính thiện/ác” là một cuộc lội ngược dòng lịch
sử từ Sigmund Freud tới Tuân tử, Khổng tử, suy ngẫm
những kiến giải sâu sắc của cổ nhân kết hợp với thực
tiễn xã hội ngày nay để từ đó đi tới một câu trả lời
dứt khoát về bản tính con người.
Bản năng vô thức Eros và Thanatos
Sigmund Freud
(1856-1939) là một trong những nhà khoa học được
liệt kê trong cuốn “On Giants’ Shoulders” (Đứng trên
vai những người khổng lồ) của Melvyn Bragg, bên cạnh
những tên tuổi vĩ đại khác như Archimedes, Galileo
Galilei, Isaac Newton, Henri Poincaré, Albert
Einstein.
Công lao chủ yếu của
Freud là khám phá ra vô thức (unconsciousness) như
tầng tư duy nền tảng định hướng mọi hành vi của con
người.
Khám phá này được
coi như một cuộc cách mạng trong nhận thức về bản
chất của hành vi, bởi trước đó nền văn minh có xu
hướng đề cao ý thức như phần tư duy chủ yếu của con
người.
Con người luôn tin
rằng mình hơn hẳn loài vật ở chỗ có ý thức. Ý thức
là tầng tư duy vượt lên trên bản năng, kiềm chế bản
năng. Loài vật hành động thuần tuý theo bản năng. Vì
thế ý thức phải là tư duy đặc trưng của con người,
chỉ loài người mới có. Ý thức là đặc ân của Thượng
đế ban phát cho loài người.
Nhưng Freud kéo loài
người về vị trí khiêm tốn hơn: tư duy chủ yếu quyết
định hành vi thực ra không phải là ý thức, mà là vô
thức.
Vô thức là gì? Đó là
trạng thái tư duy dẫn tới những lời nói và việc làm
mà không biết rõ mình đang nói gì, làm gì. Nói cách
khác, đó là tình trạng tư duy theo bản năng, không
có sự can thiệp của lý trí, hoặc lý trí quá yếu,
không thể chế ngự hành vi.
Ngủ mê là một biểu
hiện rõ nhất của vô thức. Có những người ngủ mê đang
giải một bài toán rắc rối, tranh luận hung hăng, lập
luận lộn xộn, vừa logic vừa phi logic. Có những giấc
mơ kỳ lạ như giấc mơ của Mendeleev: nhờ ngủ mê mà
khám phá ra Bảng nguyên tố tuần hoàn.
Mặc dù đến nay người
ta chưa biết bản chất của vô thức là gì – một ẩn số
vĩ đại của Tự Nhiên – nhưng sự tồn tại của vô thức
là điều không ai còn tranh cãi. Freud khẳng định sự
hiện hữu của vô thức, phân biệt nó một cách rành
mạch với ý thức mà bao lâu trước đó người ta vẫn còn
lẫn lộn. Ông nói: “Tinh thần, bất kể bản chất nó có
thể là cái gì, bản thân nó là vô thức”.
Muốn tìm hiểu vô thức, hãy tìm hiểu các giấc mơ.
“Giấc mơ thường sâu nhất khi nó điên rồ nhất”, Freud
nói.
Tuy nhiên vô thức
không chỉ hoạt động trong giấc mơ, mà hoạt động ngay
cả khi ta tỉnh thức. Nói một cách bóng bẩy, nếu coi
vô thức là “tư duy trong mơ” thì cuộc đời quả thật
là một giấc mơ, một ảo mộng, một ảo ảnh, một kiếp
phù du, một kiếp tạm bợ, … bởi vì theo Freud, vô
thức choán hầu hết tư duy của con người. Vô tình, tư
tưởng về vô thức của Freud đã giải thích thuyết vô
minh của Phật giáo – con người chủ yếu sống theo bản
năng nên nói chung là vô minh. Theo Phật giáo, ý
nghĩa của kiếp sống là tu luyện để thoát khỏi vô
minh (giác ngộ).
Một
người suốt ngày chỉ biết tất bật chạy chợ làm ăn là
một người tư duy chủ yếu bằng vô thức. Kiếm được
nhiều tiền thì hỉ hả, không kiếm được tiền thì buồn
lo, ấy là vô minh. Tuy nhiên, ngay cả những “bậc chữ
nghĩa đầy mình”, bề ngoài ta tưởng họ tư duy chủ yếu
bằng ý thức, nhưng thực ra phần lớn cũng hành động
theo vô thức.
Chẳng
hạn, một nhà khoa học tham gia vào việc sản xuất bom
hạt nhân. Ông ta là một người có học, thừa trí tuệ
để giải quyết những bài toán khoa học và kỹ thuật
phức tạp, nhưng có thể hoàn toàn vô thức về ý nghĩa
của công việc mình đang làm. Những khái niệm về đạo
đức vốn thuộc về ý thức, nhưng không đủ mạnh để ngăn
trở ông ta tham gia vào một công việc mang tính chất
chống nhân loại. Khi ấy, cái vô thức hướng dẫn ông
ta lao vào làm việc say mê. Sự hướng dẫn này có thể
xuất phát từ những bản năng rất thô sơ – bản năng
sinh tồn (kiếm tiền), bản năng bầy đàn (người khác
làm thì mình cũng làm), bản năng phục tùng trong bầy
đàn (làm theo sự chỉ huy của cấp trên), hay thậm chí
cao cấp hơn là bản năng thoả mãn trí tò mò (bản thân
trí tò mò vẫn chỉ là bản năng. Nếu nó dẫn tới một
hành vi có lợi thì sẽ được gọi là khát vọng sáng
tạo. Ngược lại thì không đáng được gọi như thế). Hãy
suy ngẫm về trường hợp Werner Heisenberg,
cha đẻ của Nguyên lý Bất định nổi tiếng trong Cơ học
lượng tử, từng là Giám đốc chương trình chế tạo bom
nguyên tử của Đức quốc xã trong Thế chiến II. Có vẻ
như nghịch lý khi gán cho một nhà bác học xuất chúng
như Heisenberg cái “tội” vô thức hoặc vô minh. Nhưng
nếu không kết tội như thế thì chẳng lẽ nói rằng
Heisenberg cam tâm phục vụ Hitler sản xuất bom
nguyên tử là một hành động xuất phát từ ý thức hay
sao? Điều đáng tiếc là cho đến nay giới học thuật
khoa bảng vẫn né tránh việc nhắc đến sai lầm của
Heisenberg. Có lẽ vì truyền thống trọng vọng những
người tài giỏi uyên bác đã ngăn cản họ phê phán
Heisenberg. Nếu vậy thì bản thân thói sùng bái này
cũng là vô thức và vô minh.
Tất
nhiên không phải nhà bác học nào cũng như
Heisenberg. Albert Einstein là một tâm hồn nhân bản
sâu sắc khi ông lên tiếng mạnh mẽ chống đối vũ khí
hạt nhân. Nhưng có bao nhiêu nhà khoa học có tinh
thần nhân bản mạnh mẽ như Einstein? Có bao nhiêu nhà
khoa học có ý thức rõ ràng về công việc mình đang
làm? Nếu tất cả các nhà khoa học đều có ý thức mạnh
mẽ về lương tri thì tại sao thế giới lại hiện hữu
một kho vũ khí hạt nhân khổng lồ đủ sức xoá sạch 6
lần bản đồ thế giới? Tại sao có vũ khí sinh học, hoá
học? Tại sao có không biết bao nhiêu phương tiện huỷ
diệt khác?
Vào
thời của Freud, thế giới thô sơ hơn hiện nay rất
nhiều, nhưng bản chất con người chẳng khác gì hôm
nay. Freud nhìn thấu bản chất ấy và nhận ra hai xu
hướng bản năng đối lập mà ông gọi là Eros và
Thanatos:
-
Eros là một từ
gốc Hy-Lạp,
Ἔρως,
được Freud sử dụng để biểu thị cái “libido” hoặc bản
năng sống hướng tới thoả mãn các ham muốn dục vọng
và sự sống còn. Ham ăn, ham uống, ham sắc dục, ham
của cải vật chất, ham tiền bạc, ham danh lợi, … là
những thứ ham muốn nằm trong cái Eros nói chung.
Những ham muốn này là tự nhiên, xuất phát từ bản
năng sinh tồn. Đối lập với bản năng sinh tồn là bản
năng Thanatos.
-
Thanatos cũng là
một từ gốc Hy-Lạp, Θάνατος, dịch ra tiếng Anh là
“death wish”. Freud sử dụng thuật ngữ này để chỉ
trạng thái “muốn huỷ hoại” – một trạng thái tâm lý
tiêu cực như muốn đập phá, huỷ hoại mọi thứ bất chấp
cái chết để giải quyết những bế tắc, căng thẳng
trong cuộc sống. Biểu lộ thấp nhất của cái Thanatos
là thói tự ái, nóng giận, nổi khùng mà ai cũng có
thể có. Rất nhiều đổ vỡ trong hôn nhân hay trong
quan hệ giữa người với người nói chung xuất phát từ
những cơn tự ái bất chấp. Đó là lúc bản năng
Thanatos trỗi dậy, không thể kiểm soát. Sự ghen tức,
đố kị dẫn tới hãm hại lẫn nhau là biểu hiện cao hơn
của Thanatos. Thù oán, giận dữ đến mức giết hại đồng
loại là biểu hiện tột cùng của Thanatos.
Cả hai
bản năng nói trên không chỉ tồn tại trong từng cá
thể, mà có thể tồn tại ngay cả trong một cộng đồng
xã hội, tạo nên một xu thế sống trong cộng đồng đó.
Những vụ tự tử tập thể là một bằng chứng. Chủ nghĩa
Hồi giáo cực đoan, bề ngoài được che đậy bởi mục
tiêu tôn giáo, nhưng thực chất cũng là một biểu hiện
của cái Thanatos lên tới cực điểm. Có thể chỉ ra
hàng đống ví dụ khác để thấy vai trò của Thanatos
tác động tiêu cực đến xã hội loài người như thế nào.
Tất
nhiên bản năng vô thức bị kiềm chế bởi lý trí – ý
thức làm cho con người hơn hẳn con vật. Nhưng khả
năng kiềm chế của lý trí lớn đến đâu? Lý trí có
thể chiến thắng bản năng Eros và Thanatos hay không?
Đây chính là câu hỏi khó nhất và cũng là quan trọng
nhất khi nhận định về tương lai của nền văn minh.
Nếu lý trí thắng, nền văn minh sẽ tiến lên. Nếu bản
năng thắng, nền văn minh sẽ sụp đổ.
Thực tế
cho thấy tuỳ theo từng trường hợp, từng hoàn cảnh cụ
thể, từng cá nhân mỗi con người hoặc từng xã hội,
khả năng và mức độ kiểm soát của lý trí đối với bản
năng Eros và Thanatos là khác nhau.
Những cá
nhân như Nguyễn Đức Nghĩa và Lê Văn Luyện có lẽ
thuộc loại thuần tuý bản năng. Trước khi thực hiện
hành vi man rợ, chúng tính toán kế hoạch rất tỉ mỉ.
Những kế hoạch này càng quỷ quái ranh ma bao nhiêu
càng chứng tỏ cái bản năng Eros và Thanatos lớn bấy
nhiêu.
Có những
xã hội cũng hành động điên rồ như những cá nhân tội
phạm. Chủ nghĩa quốc xã Đức là cái gì nếu không phải
là một tập thể hành động theo cái Eros (tranh giành
quyền lợi) và Thanatos (tiêu diệt người Do Thái, lập
nên những trại tập trung, lò thiêu người, …). Những
mồ chôn tập thể của Khơ-Me đỏ những năm 1970 hay của
Gaddafi mới được phát hiện trong Tháng 9/2011 vừa
qua là cái gì nếu không phải là kết quả của một nền
chính trị bị chi phối bởi những con quỷ Eros và
Thanatos?
Đôi khi
những con quỷ ấy bị nguyền rủa như một thứ “bản năng
dã thú” hay “bản năng súc vật”. Sự nguyền rủa này có
phần oan uổng cho loài vật, vì thú dữ chỉ dữ khi
chúng đói hoặc bị tấn công. Khi chúng được ăn no,
chúng trở nên hiền lành đến mức có thể sai bảo. Đó
là bí quyết của các môn xiếc động vật. Nói cách
khác, bản năng của động vật là có giới hạn, và
giới hạn này do Tự Nhiên quy định, đó chính là luật
cân bằng sinh thái.
Chỉ
có con người mới phá vỡ luật cân bằng sinh thái,
đơn giản vì cái Eros và Thanatos ở con người không
có giới hạn, đúng như ngạn ngữ Việt Nam đã nói:
“Lòng tham không đáy!”. Thật vậy, cái Eros của con
người vượt xa con vật. Đã có 1 tỷ đô-la lại muốn có
10 tỷ, bỏ ngoài tai lời tâm sự của Warren Buffet:
“Khi tôi đã có 1 tỷ, mọi đồng tiền kiếm thêm đều vô
nghĩa”. Trong hơn 6 tỷ người trên trái đất, có bao
nhiêu người thấm thía ý kiến của Honoré de Balzac
trong “Tấn trò đời”: “Đằng sau những tài sản kếch xù
đều là máu và nước mắt”? Bao nhiêu người lắng nghe
Lão tử: “Hoạ mạc đại ư bất tri túc; cữu mạc đại ư
dục đắc. Cố tri túc chi túc, thường túc hĩ” (Không
cái hoạ nào lớn hơn là không biết tri túc; không sai
lầm nào lớn hơn là tham lam. Cho nên kẻ biết cái đủ
là đủ thì không bị nhục và bao giờ cũng thấy đủ)?
Vì thế
không ngạc nhiên khi thấy Sigmund Freud, ngay từ năm
1930, trong tác phẩm “Civilization and Its
Discontents”
(Nền văn minh và sự bất mãn của nó), đã sớm có một
cái nhìn đầy bi quan về mối quan hệ xung đột giữa
nền văn minh với chính chủ thể sáng tạo ra nền văn
minh đó: Nền văn minh muốn tiến lên để đem lại hạnh
phúc cho con người, nhưng luôn luôn bị chệch hướng
và thậm chí bị huỷ hoại bởi cái Eros và Thanatos.
Freud
đáng được thông cảm, bởi ông đã chứng kiến cuộc Thế
chiến I. Ở một mức nào đó, cảm nhận của ông về tương
lai của nền văn minh nhuốm vẻ tiên tri – chưa bao
giờ xã hội loài người lâm vào tình trạng mất cân đối
nghiêm trọng như hiện nay: mất cân bằng sinh thái;
chiến tranh khu vực; khủng bố; suy đồi đạo đức;
khủng hoảng tội ác; đám mây hạt nhân treo lơ lửng
trên bầu trời; bất công xã hội lên đến mức vô đạo
(90% của cải vật chất tập trung vào 5% dân số thế
giới, bất chấp ngót 1,5 tỷ người đang sống nghèo đói
và bệnh tật); v.v.
Bình
luận về vấn đề này,
học giả
David Peat viết:
“Lý
trí, cái vốn được coi là nền tảng chắc chắn của một
xã hội, thực ra chỉ là bề nổi của một đại dương vô
thức mênh mông – một tầng tâm lý nằm sâu bên dưới,
ẩn giấu những khát vọng điên cuồng và những cơn bốc
đồng thôi thúc. Sức mạnh của cái vô thức này thường
xuyên đe doạ nổ tung trong cuộc sống tỉnh thức của
chúng ta … Theo Freud, tình trạng căng thẳng này là
không thể giải quyết được, do đó không bao giờ có
thể có một xã hội thật sự lý tưởng, cũng như không
bao giờ có một hạnh phúc và sự hài hoà thuần khiết
của con người. Có lẽ đây là lý do căn bản để sự cùng
khốn, bất công xã hội, và sự bất bình đẳng chính trị
châm ngòi cho sự bùng nổ bạo lực và những căng thẳng
xã hội. Tuy nhiên nguồn gốc sâu xa của những căng
thẳng đó chính là cái Thanatos – trạng thái muốn huỷ
hoại được phóng chiếu lên các quốc gia, các nhóm sắc
tộc, và các cá nhân. Vì cái Eros và Thanatos không
thể hoà giải được với nhau nên tội lỗi của con người
và sự thiếu vắng của một hạnh phúc trọn vẹn là điều
khó tránh. Tất cả mọi hình thái của nền văn minh, từ
nền tảng cốt lõi của chúng, đã là một sự đối kháng
đối với xu thế bản năng và khát vọng căn bản nhất
của chúng ta”.
Đáng
tiếc là Freud có một số quan điểm thái quá khi bàn
đến bản năng dục vọng, vì thế số người chống đối ông
không ít (bao gồm cả tác giả bài viết này). Cách
nhìn bi quan của ông về con người và tương lai của
nền văn minh cũng khiến một số người kết tội ông là
hạ thấp gía trị của con người, thiên về cái xấu của
con người thay vì đề cao giá trị của ý thức.
Tuy
nhiên, sẽ có ý nghĩa tích cực nếu ta coi ý kiến của
Freud như những lời cảnh tỉnh. Chẳng hạn, ông nói:
“Cái tôi không phải là ông chủ trong căn nhà của
chính nó” (The
ego is not master in its own house), đại ý ông muốn
nói: thay vì làm chủ được chính mình, con người chỉ
là những tên nô lệ của bản năng mà thôi. Nhận định
này có thể đúng với người này, sai với người khác.
Nhưng người nào càng tự phụ cho rằng ý thức của mình
mạnh hơn bản năng, người ấy càng có nguy cơ rơi vào
cạm bẫy của bản năng nhiều hơn.
Cảm nhận
bi quan của Freud về tương lai của nền văn minh có
thể là sai, và mong rằng nó sẽ sai, nhưng đó là
tiếng chuông cảnh báo để tất cả chúng ta phải tỉnh
thức!
Ngày
01 tháng 10 năm 2011
Xuất bản lần đầu bằng tiếng Đức dưới tiêu đề
“Das Unbehagen in der Kultur” (Sự bất ổn
trong nền văn hoá), được xem là một trong
những công trình quan trọng nhất và được phổ
biến rộng rãi nhất của Freud.
|