Luận về bản tính thiện, ác

Vietsciences- Phạm Việt Hưng            01/01/2012
 

Những bài cùng tác giả

Những bài cùng đề tài

 

 III

 

Trong thời buổi ngày nay, khi khoa học di truyền đạt được những thành tựu tưởng như những phép lạ, người ta có xu hướng giải thích mọi tính cách bản năng của con người bằng nguồn gốc gene. Trong lĩnh vực tội phạm học, nhiều nhà khoa học cũng muốn giải thích nguyên nhân cội rễ của tội phạm bằng một loại gene được gọi là “gene tội phạm” (crime gene). Xu hướng này xuất phát từ niềm tin cho rằng bản tính của con người là ác, như học thuyết của Tuân tử[1] hoặc của Sigmund Freud[2] đã khẳng định. 

Theo tờ The New York Times ngày 19/06/2011, đã có ít nhất 100 công trình nghiên cứu chỉ ra vai trò của gene trong các vụ tội phạm. Điều này cho thấy đã đến lúc phải trả lời dứt khoát câu hỏi:

“Gene tội phạm có thực sự tồn tại hay không?”.

Câu hỏi này đã trở thành nội dung chính của hội nghị tội phạm học do Học viện Tư Pháp Quốc gia Mỹ (National Institute of Justice) tổ chức tại Arlington, Virginia, vào ngày 22/06/2011 vừa qua.

Nhưng trớ trêu thay, trong khi các bằng chứng đưa ra chưa đủ sức thuyết phục thì nỗi ám ảnh về gene tội phạm đã làm nẩy sinh hàng loạt vấn đề phức tạp. Trước hết là những rắc rối trong tố tụng hình sự, gây ra bởi cái được gọi là “Biện hộ DNA”.

 

1* Biện hộ DNA:

“Biện hộ DNA” là kiểu biện hộ của các luật sư đòi giảm nhẹ tội cho thân chủ của họ với lý do “tội phạm xuất phát từ di truyền” – một kiểu phạm tội do bệnh lý, tương tự như phạm tội do tâm thần. Mặc dù chưa có bằng chứng đầy đủ về sự tồn tại của gene tội phạm, nhưng hiện nay kiểu biện hộ này đã được các luật sư sử dụng, và thậm chí có nơi đã được toà án chấp thuận. Chiều hướng này có thể dẫn tới những hậu quả khó lường trong tương lai, làm cho vấn đề ngăn chặn tội phạm vốn đã phức tạp lại càng phức tạp thêm. Tình hình này đã được phản ánh trong bài báo “Crime is genetic”[3] (Tội phạm do di truyền) trên tạp chí EU-Times ngày 08/01/2010, với nội dung được tóm lược như sau:

Nhiều bằng chứng cho thấy tội phạm có thể là “cái ác bẩm sinh”, được lập trình ngay từ khi sinh ra và mang tính di truyền, dẫn tới các hành động bạo lực và hành vi phạm tội khác. Khái niệm về một “gene tội phạm”, và lời giải thích “gene của tôi khiến tôi làm điều đó” đã được nhiều nhà nghiên cứu chấp thuận. Tình hình này tạo ra những thách thức mới trong truy tố hình sự. Năm 1907, Sir Francis Galton lần đầu tiên đưa ra lý thuyết về “sự di truyền khuynh hướng phạm tội”. Kể từ đó, các nghiên cứu tinh vi ngày càng khẳng định một cơ sở di truyền cho một số hành động tội phạm. Nhà nghiên cứu Joseph McInerney tại Quỹ Giáo dục và Tư vấn Di truyền học xác nhận rằng “di truyền học và sinh học phân tử đã cung cấp một số hiểu biết đáng kể soi rọi vào bên trong các hành vi liên quan với rối loạn di truyền”. Gần đây, ngành tư pháp Ý đã giảm án cho một kẻ bị kết tội giết người, dựa trên luận cứ cho rằng gene của hắn đã dẫn hắn đến chỗ phạm phải tội. Nhà khoa học Irving Gottesman tại Đại học Virginia cho rằng: “Khả năng trở thành một tên tội phạm không như nhau từ lúc mới sinh ra. Thông tin ban đầu cho thấy phần lớn hành vi tội phạm có thể đã được thừa kế một cách không thể cưỡng lại được”. Caitlin Jones tại Viện Công nghệ Rochester nhận định: “Những cá nhân với những gene này có thể nhận thấy sở trường của mình trong việc tham gia vào các hoạt động tội phạm. Có một thành phần di truyền trong hành vi tội phạm”. Càng ngày các luật sư bênh vực cho bị cáo càng đòi hỏi các thẩm phán phải thừa nhận bằng chứng – cái gọi là “biện hộ DNA” – cho thấy khách hàng của họ đã bị dẫn dắt bởi gene hướng tới các hành vi bạo lực hoặc các hành vi phạm tội khác. Có rất nhiều nghiên cứu liên hệ hành vi hình sự với một số gene di truyền. Một nghiên cứu năm 2008 tại Đại học Hebrew ở Israel đã xác định gene AVPR1 (argenine vasopresser receptor 1) như là một nguyên nhân gây ra hành vi “tàn nhẫn”. Nghiên cứu trong năm 2009 bởi Rose McDermott tại Đại học Brown đã phát hiện ra một “gene côn đồ”chịu trách nhiệm với tính cách cực kỳ hung hãn sẵn sàng gây hấn để đáp trả những hành động khiêu khích. Năm 1995, một nhà nghiên cứu người Hà Lan đã chỉ ra rằng nam giới trong một gia đình có các thành viên liên tục phạm tội có một gene đột biến được gọi là MAOA (gene monoamine oxidase-A bị biến đổi). Gần đây, nghiên cứu của Kevin Beaver khẳng định rằng con trai có gene đột biến MAOA có nhiều khả năng tham gia các băng nhóm tội phạm. Năm ngoái, Quang Guo và các đồng nghiệp cho thấy một gene biến thể của MAOA điều khiển hành động phá phách bạo lực. Nghiên cứu tại Viện Nghiên cứu Civic cho thấy MAOA là một gene “không kiềm chế”, và các đột biến làm cho nhiều người có khả năng phạm tội nhiều hơn. Theo Debrah Denno tại Trường Luật Fordham, “nhiều kẻ phạm tội giết người cũng có ... người thân đang bị giam giữ”. Bà ta giải thích rằng “việc biện hộ về gene di truyền” có thể cho thấy một người phạm tội có thể không phải chịu trách nhiệm về hành động của mình. Sarnoff Mednick tại Đại học California xác nhận rằng con nuôi có cha mẹ đẻ là tội phạm có nhiều khả năng trở thành tội phạm, mặc dù cha mẹ nuôi là những người luôn luôn tuân thủ luật pháp[4]. Nếu các phạm nhân phạm tội do được lập trình từ trước về mặt di tuyền, thì quan điểm cho rằng việc giam giữ có thể cải tạo được tội phạm sẽ không còn đúng nữa. Theo một phán quyết năm 2003 của Toà án tối cao New York, bằng chứng di truyền dẫn tới tội phạm làm cho tình hình xấu hơn vì sẽ đẻ ra “những mối nguy trong tương lai”. Vấn đề thách đố, như nhà triết học Don Brock đã chỉ ra, là nếu gene của một cá nhân là căn nguyên dẫn tới hành vi, và nếu gene là không thể thay đổi, và tác động của chúng cũng không thể thay đổi, thì việc đòi hỏi tội phạm phải chịu trách nhiệm đối với những hành động do hắn gây ra có còn hợp lý nữa hay không?

 

 

         Phải nói rằng phán quyết của Toà án tối cao New York năm 2003 là sáng suốt: thay vì tạo ra niềm lạc quan về một tương lai tốt đẹp hơn, vấn đề gene tội phạm lại đẻ ra một loạt nguy cơ mới.

 

         2* Những nguy cơ nẩy sinh từ gene tội phạm:

         ● Không dễ kiểm soát gene tội phạm, nếu nó tồn tại.

Nếu có “gene tội phạm”, có gì để đảm bảo rằng khoa học sẽ hoàn toàn kiểm soát được nó? Khám phá ra gene là một chuyện; kiểm soát được gene lại là chuyện hoàn toàn khác. Một bài báo[5] mới đây cho biết: 98% DNA của chúng ta là những mẩu… “junk” – những phần DNA trước đây ta tưởng là vô nghĩa (những mẩu “đầu thừa đuôi thẹo” đáng vứt đi), nhưng dưới ánh sáng của những khám phá mới nhất, hoá ra chúng đóng vai trò rất quan trọng. Tuy nhiên, vai trò cụ thể của chúng là gì thì cho đến nay hầu như khoa học vẫn chưa biết. Có nghĩa là những gì đã biết về gene nói chung vẫn chỉ là một con số rất khiêm tốn: dưới 2% của chiếc thang xoắn DNA. Hơn thế nữa, sinh học di truyền cũng mới vỡ nhẽ ra rằng gene không tác động một cách đơn độc, mà chúng phối hợp với nhau theo những tổ hợp (combination) cực kỳ phức tạp, đồng thời được kích hoạt theo những cơ chế bật/tắt (thức/ngủ) rất bí ẩn. Nếu coi đặc tính của con người là hàm, gene là biến thì mối quan hệ giữa đặc tính với gene không phải là quan hệ 1-1 như trong toán học. Hàm đặc tính không phải là một hàm đơn trị một biến, mà là một hàm đa trị đa biến: ứng với một tập hợp các giá trị của các biến, có thể có nhiều giá trị khác nhau của hàm, bởi vì các gene có chế độ bật/tắt không sao lường trước được. Chưa ai dám toán học hoá mối quan hệ này, và có thể không bao giờ toán học hoá nổi mối quan hệ đó, nhưng ít nhất đến nay đã có thể biết được rằng không phải cứ mỗi gene tương ứng với một đặc tính duy nhất. Từ đó suy ra rằng việc kiểm soát gene không đơn giản như ta tưởng – niềm tin cho rằng có thể kiểm soát được “gene tội phạm”, nếu quả thật có gene đó, là một sự chủ quan ngây thơ.

         ● Nguy cơ phân biệt đối xử đối với “tội phạm bẩm sinh”:

Hãy nhớ lại chính sách đối xử tàn nhẫn của chủ nghĩa quốc xã Đức những năm 1930 đối với những người ốm yếu bệnh tật, đặc biệt những người có khuyết tật bẩm sinh, những người mắc bệnh tâm thần, … Họ bị nhà nước quốc xã tìm mọi cách để loại trừ ra khỏi xã hội Đức, nhằm đảm bảo sao cho dân tộc Đức trong tương lai bao gồm toàn những người khoẻ mạnh. Hơn ai hết, chủ nghĩa quốc xã là một xu hướng chính trị đi tiên phong trong việc áp dụng một cách máy móc Học thuyết Darwin vào xã hội loài người. Nhưng chính khoa học đã làm kẻ dọn đường: Học thuyết Darwin trong sinh học được cải biên thành Học thuyết Darwin xã hội (Social Darwinism). Lịch sử đã phán xét chủ nghĩa quốc xã, nhưng dường như rất ít khi phán xét Học thuyết Darwin xã hội, và càng né tránh việc phán xét những thiếu sót của Học thuyết Darwin, mặc dù ngay từ đầu thế kỷ 20, Lý Tôn Ngô ở Trung Hoa đã cực lực phê phán học thuyết này quá thiên lệch về đấu tranh sinh tồn mà bỏ qua một thực tế là sinh vật cũng đồng thời cộng sinh để tồn tại[6]. Thời đại ngày nay khó có thể lặp lại một chủ nghĩa quái gở như chủ nghĩa quốc xã, nhưng cũng khó có thể đảm bảo cho những em bé có “gene tội phạm” không bị xã hội hắt hủi và đối xử tàn nhẫn, nếu quả thật có gene đó.

● Nguy cơ gene tội phạm bị lợi dụng cho mục đích xấu.

Có điều gì đảm bảo “gene tội phạm” không bị kẻ xấu lợi dụng để biến người thiện thành ác, kẻ ác càng ác hơn? Trong những năm qua và hiện nay, trên thế giới đã và đang có nhiều công trình nghiên cứu khoa học rất phản đạo đức, bất chấp lời cảnh báo của Francois Rabelais rằng “Khoa học vô lương chỉ là sự hư nát của linh hồn”. Công nghệ tế bào gốc (stemcell technology), sinh sản vô tính (cloning), v.v. là những khu vực đang diễn ra nhiều nghiên cứu mờ ám nhất. Những công ty tế bào gốc tìm đủ mọi cách để có càng nhiều tế bào gốc càng tốt, vì đó là mặt hàng thiết yếu phục vụ y học hiện đại. Từ đó đẻ ra những cuộc săn lùng bào thai người, cho ra đời những ngân hàng bào thai chỉ để lấy tế bào gốc, thậm chí nhân bản vô tính người, bất chấp sự phản đối của dư luận, và vô đạo đức hơn nữa, nhân bản vô tính người thông qua trứng của động vật, miễn là để có bào thai người, v.v. Nếu tình trạng tha hoá đạo đức trong nghiên cứu khoa học không bị chặn đứng thì không có gì chắc chắn để đảm bảo rằng “gene tội phạm” sẽ không trở thành một loại vũ khí vi trùng đáng sợ nhất trong tương lai, nếu quả thật nó tồn tại.

Bất chấp những nguy cơ đe doạ xã hội nói trên, nhiều tổ chức nghiên cứu tội phạm học dưới góc độ sinh-học-xã-hội (bio-social criminology) vẫn tiêu hàng chục triệu USD cho việc tìm kiếm “gene tội phạm”.

Thật vậy, ngay từ năm 1993, Bộ Tư pháp Mỹ, Viện sức khoẻ quốc gia Mỹ và hàng loạt trường đại học ở Mỹ đã hợp tác với nhau để thực hiện một dự án mang tên “Nghiên cứu cách ứng xử của những trẻ em có khuynh hướng bạo lực”. Mục tiêu của dự án này là thông qua những trẻ em có khuynh hướng bạo lực – những em bị coi là có khả năng trở thành tội phạm trong tương lai (!) – sẽ phát hiện ra những đặc điểm sinh học bẩm sinh, tức đặc điểm gene, từ đó sẽ khoanh vùng những gene được coi là có khả năng có liên quan đến hành vi tội phạm. Việc khoanh vùng này sẽ thu hẹp dần đến khi nào có thể chỉ mặt đặt tên gene nào là “gene tội phạm”. Chỉ trong 3 năm đầu tiên, dự án đã tiêu tốn 42 triệu USD, bất chấp sự phản đối la ó của quần chúng. Dự án dự tính kéo dài 10 năm, tức là đã kết thúc vào năm 2003. Tiếc thay (đúng hơn phải nói là may mắn thay), dự án tiêu tốn một số tiền khổng lồ ấy không đem lại một kết quả nào thuyết phục. 

Chẳng riêng trẻ em, người lớn cũng có thể là đối tượng nghiên cứu: tù nhân trong các trại giam. Cục điều tra liên bang Mỹ FBI đã tiến hành một dự án nghiên cứu “nhân tướng học” của 16.000 tù nhân trong hơn 60 nhà tù thuộc 12 tiểu bang, tiêu tốn rất nhiều tiền, nhưng cũng không đi đến kết luận nào thuyết phục. Năm 1950, Edmund Dukane ở Anh và Michel Fugain ở Pháp cũng đã từng thực hiện những cuộc lùng sục khắp các hang cùng ngõ hẻm ở London và Paris để lập ra những hồ sơ những gia đình có “truyền thống” bạo lực, hòng tìm ra những đặc điểm sinh học chung, từ đó chỉ ra dấu vết tội phạm ẩn náu trong cơ chế di truyền. Nhưng kết quả là những nghiên cứu này chỉ để lại một ấn tượng xấu trong dư luận xã hội về tinh thần kỳ thị giai cấp, kỳ thị chủng tộc rất tệ hại, đơn giản vì thành phần tội phạm đa số rơi vào người nghèo và các sắc dân đến những vùng nghèo khổ trên thế giới.

Vậy đã đến lúc phải khẳng định:

Việc thừa nhận học thuyết của Tuân tử - Hàn Phi về tính ác, hoặc thừa nhận học thuyết của Sigmund Freud về Eros và Thanatos, không có nghĩa là thừa nhận gene tội phạm. Chương trình tìm kiếm gene tội phạm là một sai lầm lớn của khoa học, xuất phát từ sai lầm trong nhận thức triết học.

 

3* Sai lầm về nhận thức:

Xét cho cùng thì niềm tin vào sự tồn tại của gene tội phạm xuất phát từ chỗ lẫn lộn khái niệm vật chất với khái niệm tinh thần – hai phạm trù cơ bản của triết học nhận thức.

Tinh thần là gì?

Câu hỏi này đến nay vẫn là một ẩn số vô cùng lớn. Mọi cố gắng giải thích bản chất của tinh thần vẫn luôn luôn vấp phải nghịch lý:

-Nếu tinh thần là sản phẩm hoạt động của bộ não thì nó phải là vật chất; nhưng thực tế cho thấy tinh thần không tuân thủ bất kỳ nguyên lý tương tác vật chất nào, vì thế nó không thể là vật chất.

-Nếu cố tình áp đặt bản chất vật chất cho tinh thần, thì chắc chắn đó phải là một dạng vật chất không thể giải thích được bằng những định luật của thế giới vật chất thông thường. Dù gọi tên dạng vật chất đó là gì, chẳng hạn “năng lượng tinh thần”, “ngoại cảm”, v.v. nhưng chắc chắn nó không tuân thủ những giải thích của khoa học, đơn giản vì khoa học chỉ là một ngôn ngữ mô tả thế giới vật chất thông thường như ta thấy. Ngôn ngữ đó sẽ trở nên vô nghĩa, thậm chí méo mó sai lệch, khi áp dụng cho một thế giới mà nó không thích hợp, tương tự như việc cố gắng dùng ngôn ngữ của thế giới xác định (thế giới vật lý thông thường) để mô tả thế giới bất định (thế giới hạ nguyên tử hoặc hạ hạ nguyên tử). Nhà bác học trứ danh Niels Bohr đã mô tả sự trớ trêu này bằng một câu ngắn gọn: “Tất cả chúng ta đều bị treo lơ lửng trong ngôn ngữ” (We are all suspended in language).

Do đó, ý tưởng dùng gene (một cấu trúc vật chất) để giải thích tội phạm (một hiện tượng tinh thần) trước hết chứng tỏ một nhận thức sai lầm về mặt triết học – lẫn lộn khái niệm vật chất với tinh thần.

Sinh học di truyền, dù đã và đang tạo ra những thành tựu vượt sức tưởng tượng, xét cho cùng vẫn chỉ là những quy luật tương tác sinh hoá của DNA, do đó chỉ có thể giải thích được những đặc điểm thuộc về thể chất sinh hoá của con người, không thể giải thích được những đặc điểm thuộc về tinh thần. Một chất hoá học nào đó có thể kích thích để làm cho một tình yêu nồng nàn hơn hay nguội lạnh hơn, nhưng yêu cái gì, ghét cái gì lại thuộc  phạm trù ý thức và cảm xúc, nơi khoa học không bao giờ có thể với tới.

Ngay cả những hiện tượng tinh thần được rất nhiều người tin là do gene quyết định, như năng khiếu âm nhạc, năng khiếu toán học, v.v. cũng gặp phải những nghịch lý không thể giải thích. Chẳng hạn, tại sao hậu duệ của những dòng họ lớn về âm nhạc như Bach, hay Strauss, đến nay không hề xuất hiện những thiên tài như cha ông thủa xưa. Con cháu của những thiên tài toán học như Archimedes, Karl Gauss, Henri Poincaré, v.v. là ai?

Đành rằng có thể có một yếu tố thể chất nào đó ảnh hưởng tới độ nhanh nhậy hoặc trì độn của con người. Đó là lý do đẻ ra cái gọi là IQ (Intelligence Quotient) – chỉ số thông minh.  

Thực ra IQ không thể hiện chính xác cái mà nó muốn đo – những câu hỏi dùng để đo IQ chỉ thể hiện một phần nào mức độ nhậy bén của phản xạ hoặc mức độ tích luỹ thông tin, thay vì một trí thông minh thực sự.

Trong tâm lý học, trí thông minh là khả năng thấu hiểu, hoặc khả năng nhận thức và nắm bắt được nghĩa lý[7]. Như thế thì khái niệm thông minh bao hàm một ý nghĩa rộng lớn hơn và cao quý hơn rất nhiều so với cái gọi là thông minh trong phép đo IQ.

Thực tế, một người rất sâu sắc có thể có chỉ số IQ không cao, và ngược lại, một người có chỉ số IQ cao có thể chẳng làm nên tích sự gì, thậm chí còn có thể làm những việc hoàn toàn phản thông minh. Vì thế, cái được gọi là IQ nên được sửa lại là RQ (Reactivity Quotient), tức chỉ số ứng phó, hoặc SQ (Smart Quotient), tức chỉ số tinh ranh, thì có lẽ sẽ hợp lý hơn.

Đến đây, giả sử mọi người đều thừa nhận RQ (hoặc SQ) là những “đại lượng” có thể đo được (mặc dù các phép đo vô cùng phiến diện), và do đó giả sử đến một ngày nào đó khoa học sẽ khám phá ra gene RQ (hoặc SQ). Nhưng không tồn tại một chiếc cầu nối logic nào từ gene RQ (hay SQ) tới một trí thông minh thực sự. Một người tinh ranh có thể phạm những sai lầm nghiêm trọng trong đời, hoặc một người có thể rất tinh ranh về tiền bạc nhưng hoàn toàn ngây thơ về ý nghĩa cuộc sống.

Hoàn toàn tương tự, giả sử có một gene nào đó quyết định những tính cách bị coi là “có xu hướng dẫn tới tội phạm”[8], nhưng sẽ không tồn tại một chiếc cầu logic nối loại gene đó tới hành vi tội phạm[9].

 

4* Kết:

Tóm lại, khái niệm “gene tội phạm” là một nhầm lẫn lớn của khoa học! Nhầm lẫn này xuất phát từ tinh thần sùng bái khoa học, coi khoa học như chúa tể của nhận thức và có thể giải thích được mọi hiện tượng. Tham vọng giải thích mọi hiện tượng bằng khoa học vật chất, xét cho cùng, chỉ là một biểu hiện của tư duy cơ giới máy móc, xuất phát từ những ấn tượng có sẵn, rồi cố khoác cho lý thuyết của mình chiếc áo khoa học.

Steve Jones, giáo sư di truyền học tại Đại học London, nói: “Hãy nhìn vào nước Úc. Nếu tồn tại gene tội phạm, thì máu của người Úc ngày nay sẽ chứa đầy gene này, vì chúng được truyền từ một số rất đông các tội phạm trong số các cha ông của họ[10]. Nhưng, mặc dù mới đây xẩy ra bi kịch ở Tasmania, Úc vẫn là một xã hội đặc biệt an bình và trật tự”.

 

 

Người Việt Nam từ xa xưa đã nói: “Cha mẹ sinh con, Trời sinh tính”. Có nghĩa là “tính” không thể giải thích bằng được di truyền. Tội phạm là một vấn đề xã hội. Chỉ có thể chống tội phạm hữu hiệu bằng cách tạo ra một môi trường xã hội lành mạnh, đúng như Steve Jones nhấn mạnh: “Một từ ngữ bị hiểu sai nhiều nhất trong di truyền học là chữ ‘for’ (dành cho), như trong câu ‘gene dành cho một cái gì đó’. Chẳng có một gene dành cho bất cứ cái gì cả. Một gene chỉ là một chất hoá học mà bạn có thể nhỏ vào một ống nghiệm. Các gene chỉ biểu lộ tác động của chúng theo những tổ hợp riêng biệt, và quan trọng nhất là trong những môi trường riêng biệt. Đó là yếu tố cơ bản. Một khi được đặt vào trong một môi trường xã hội thích hợp thì gene mới làm công việc của nó. Nhưng trong khi bạn không thể dễ dàng thay đổi gene, bạn có thể thay đổi xã hội vào ngày mai”. 

        

 Ngày 01 tháng 12 năm 2011


 

[1] Xem “Luận về bản tính thiện ác - Từ Tuân tử tới Hàn Phi”, Châu Khê, Khoa học và Tổ quốc Tháng 11/2011, và trên mạng: http://vietsciences.free.fr/ , http://viethungpham.wordpress.com/

[2] Xem “Luận về bản tính thiện ác - Học thuyết của Sigmund Freud”, Châu Khê, Khoa học và Tổ quốc Tháng 10/2011, và trên mạng: http://vietsciences.free.fr/ , http://viethungpham.wordpress.com/

[4] Ý nói di truyền quyết định xu hướng phạm tội, thay vì môi trường giáo dục.

[6] Xem “Hậu Hắc Học”, Lý Tôn Ngô, NXB Văn hoá – Thông tin, 1989, phần nói về Đác-uyn.

[8] Một kiểu thuật ngữ rất nguy hiểm nhưng đã được các nhà tội phạm học sử dụng chính thức.

[9] Tin báo chí trong tháng 10/2011: Một cựu tổng thống Israel vừa bị kết án 6 năm tù vì tội hãm hiếp. Có lẽ không ai nghĩ ông có gene tội phạm.

[10] Úc nổi tiếng là nơi đày ải tội phạm của nước Anh trong các thế kỷ 17, 18, 19.

 

Xin giới thiệu tràng nhà của tác giả   http://phamviethung.vnweblogs.com/ 

 

©  http://vietsciences.org http://vietsciences.free.fr- Phạm Việt Hưng