Những bài cùng tác
giả
Những bài cùng đề tài
III
Trong thời buổi
ngày nay, khi khoa học di truyền đạt được những
thành tựu tưởng như những phép lạ, người ta có xu
hướng giải thích mọi tính cách bản năng của con
người bằng nguồn gốc gene. Trong lĩnh vực tội phạm
học, nhiều nhà khoa học cũng muốn giải thích nguyên
nhân cội rễ của tội phạm bằng một loại gene được gọi
là “gene tội phạm” (crime gene). Xu hướng này xuất
phát từ niềm tin cho rằng bản tính của con người là
ác, như học thuyết của Tuân tử
hoặc của Sigmund Freud
đã khẳng định.
Theo tờ The New
York Times ngày 19/06/2011, đã có ít nhất 100 công
trình nghiên cứu chỉ ra vai trò của gene trong các
vụ tội phạm. Điều này cho thấy đã đến lúc phải trả
lời dứt khoát câu hỏi:
“Gene tội phạm có
thực sự tồn tại hay không?”.
Câu hỏi này đã trở
thành nội dung chính của hội nghị tội phạm học do
Học viện Tư Pháp Quốc gia Mỹ (National Institute of
Justice) tổ chức tại Arlington, Virginia, vào ngày
22/06/2011 vừa qua.
Nhưng trớ trêu
thay, trong khi các bằng chứng đưa ra chưa đủ sức
thuyết phục thì nỗi ám ảnh về gene tội phạm đã làm
nẩy sinh hàng loạt vấn đề phức tạp. Trước hết là
những rắc rối trong tố tụng hình sự, gây ra bởi cái
được gọi là “Biện hộ DNA”.
1* Biện hộ DNA:
“Biện hộ DNA” là
kiểu biện hộ của các luật sư đòi giảm nhẹ tội cho
thân chủ của họ với lý do “tội phạm xuất phát từ di
truyền” – một kiểu phạm tội do bệnh lý, tương tự như
phạm tội do tâm thần. Mặc dù chưa có bằng chứng đầy
đủ về sự tồn tại của gene tội phạm, nhưng hiện nay
kiểu biện hộ này đã được các luật sư sử dụng, và
thậm chí có nơi đã được toà án chấp thuận. Chiều
hướng này có thể dẫn tới những hậu quả khó lường
trong tương lai, làm cho vấn đề ngăn chặn tội phạm
vốn đã phức tạp lại càng phức tạp thêm. Tình hình
này đã được phản ánh trong bài báo “Crime is
genetic”
(Tội phạm do di truyền) trên tạp chí
EU-Times ngày
08/01/2010, với nội dung được tóm lược như sau:
Nhiều bằng
chứng cho thấy tội phạm có thể là “cái ác bẩm sinh”,
được lập trình ngay từ khi sinh ra và mang tính di
truyền, dẫn tới các hành động bạo lực và hành vi
phạm tội khác. Khái niệm về một “gene tội phạm”, và
lời giải thích “gene của tôi khiến tôi làm điều đó”
đã được nhiều nhà nghiên cứu chấp thuận. Tình hình
này tạo ra những thách thức mới trong truy tố hình
sự. Năm 1907, Sir Francis Galton lần đầu tiên đưa ra
lý thuyết về “sự di truyền khuynh hướng phạm tội”.
Kể từ đó, các nghiên cứu tinh vi ngày càng khẳng
định một cơ sở di truyền cho một số hành động tội
phạm. Nhà nghiên cứu Joseph McInerney tại Quỹ Giáo
dục và Tư vấn Di truyền học xác nhận rằng “di truyền
học và sinh học phân tử đã cung cấp một số hiểu biết
đáng kể soi rọi vào bên trong các hành vi liên quan
với rối loạn di truyền”. Gần đây, ngành tư pháp Ý đã
giảm án cho một kẻ bị kết tội giết người, dựa trên
luận cứ cho rằng gene của hắn đã dẫn hắn đến chỗ
phạm phải tội. Nhà khoa học Irving Gottesman tại Đại
học Virginia cho rằng: “Khả năng trở thành một tên
tội phạm không như nhau từ lúc mới sinh ra. Thông
tin ban đầu cho thấy phần lớn hành vi tội phạm có
thể đã được thừa kế một cách không thể cưỡng lại
được”. Caitlin Jones tại Viện Công nghệ Rochester
nhận định: “Những cá nhân với những gene này có thể
nhận thấy sở trường của mình trong việc tham gia vào
các hoạt động tội phạm. Có một thành phần di truyền
trong hành vi tội phạm”. Càng ngày các luật sư bênh
vực cho bị cáo càng đòi hỏi các thẩm phán phải thừa
nhận bằng chứng – cái gọi là “biện hộ DNA” – cho
thấy khách hàng của họ đã bị dẫn dắt bởi gene hướng
tới các hành vi bạo lực hoặc các hành vi phạm tội
khác. Có rất nhiều nghiên cứu liên hệ hành vi hình
sự với một số gene di truyền. Một nghiên cứu năm
2008 tại Đại học Hebrew ở Israel đã xác định gene
AVPR1 (argenine vasopresser receptor 1) như là một
nguyên nhân gây ra hành vi “tàn nhẫn”. Nghiên cứu
trong năm 2009 bởi Rose McDermott tại Đại học Brown
đã phát hiện ra một “gene côn đồ”chịu trách nhiệm
với tính cách cực kỳ hung hãn sẵn sàng gây hấn để
đáp trả những hành động khiêu khích. Năm 1995, một
nhà nghiên cứu người Hà Lan đã chỉ ra rằng nam giới
trong một gia đình có các thành viên liên tục phạm
tội có một gene đột biến được gọi là MAOA (gene
monoamine oxidase-A bị biến đổi). Gần đây, nghiên
cứu của Kevin Beaver khẳng định rằng con trai có
gene đột biến MAOA có nhiều khả năng tham gia các
băng nhóm tội phạm. Năm ngoái, Quang Guo và các đồng
nghiệp cho thấy một gene biến thể của MAOA điều
khiển hành động phá phách bạo lực. Nghiên cứu tại
Viện Nghiên cứu Civic cho thấy MAOA là một gene
“không kiềm chế”, và các đột biến làm cho nhiều
người có khả năng phạm tội nhiều hơn. Theo Debrah
Denno tại Trường Luật Fordham, “nhiều kẻ phạm tội
giết người cũng có ... người thân đang bị giam giữ”.
Bà ta giải thích rằng “việc biện hộ về gene di
truyền” có thể cho thấy một người phạm tội có thể
không phải chịu trách nhiệm về hành động của mình.
Sarnoff Mednick tại Đại học California xác nhận rằng
con nuôi có cha mẹ đẻ là tội phạm có nhiều khả năng
trở thành tội phạm, mặc dù cha mẹ nuôi là những
người luôn luôn tuân thủ luật pháp.
Nếu các phạm nhân phạm tội do được lập trình từ
trước về mặt di tuyền, thì quan điểm cho rằng việc
giam giữ có thể cải tạo được tội phạm sẽ không còn
đúng nữa. Theo một phán quyết năm 2003 của Toà án
tối cao New York, bằng chứng di truyền dẫn tới tội
phạm làm cho tình hình xấu hơn vì sẽ đẻ ra “những
mối nguy trong tương lai”. Vấn đề thách đố, như nhà
triết học Don Brock đã chỉ ra, là nếu gene của một
cá nhân là căn nguyên dẫn tới hành vi, và nếu gene
là không thể thay đổi, và tác động của chúng cũng
không thể thay đổi, thì việc đòi hỏi tội phạm phải
chịu trách nhiệm đối với những hành động do hắn gây
ra có còn hợp lý nữa hay không?
Phải nói
rằng phán quyết của Toà án tối cao New York năm 2003
là sáng suốt: thay vì tạo ra niềm lạc quan về một
tương lai tốt đẹp hơn, vấn đề gene tội phạm lại đẻ
ra một loạt nguy cơ mới.
2* Những
nguy cơ nẩy sinh từ gene tội phạm:
● Không
dễ kiểm soát gene tội phạm, nếu nó tồn tại.
Nếu có “gene tội
phạm”, có gì để đảm bảo rằng khoa học sẽ hoàn toàn
kiểm soát được nó? Khám phá ra gene là một chuyện;
kiểm soát được gene lại là chuyện hoàn toàn khác.
Một bài báo
mới đây cho biết: 98% DNA của chúng ta là những mẩu…
“junk” – những phần DNA trước đây ta tưởng là vô
nghĩa (những mẩu “đầu thừa đuôi thẹo” đáng vứt đi),
nhưng dưới ánh sáng của những khám phá mới nhất, hoá
ra chúng đóng vai trò rất quan trọng. Tuy nhiên, vai
trò cụ thể của chúng là gì thì cho đến nay hầu như
khoa học vẫn chưa biết. Có nghĩa là những gì đã biết
về gene nói chung vẫn chỉ là một con số rất khiêm
tốn: dưới 2% của chiếc thang xoắn DNA. Hơn thế nữa,
sinh học di truyền cũng mới vỡ nhẽ ra rằng gene
không tác động một cách đơn độc, mà chúng phối hợp
với nhau theo những tổ hợp (combination) cực kỳ phức
tạp, đồng thời được kích hoạt theo những cơ chế
bật/tắt (thức/ngủ) rất bí ẩn. Nếu coi đặc tính của
con người là hàm, gene là biến thì mối quan hệ giữa
đặc tính với gene không phải là quan hệ 1-1 như
trong toán học. Hàm đặc tính không phải là một hàm
đơn trị một biến, mà là một hàm đa trị đa biến: ứng
với một tập hợp các giá trị của các biến, có thể có
nhiều giá trị khác nhau của hàm, bởi vì các gene có
chế độ bật/tắt không sao lường trước được. Chưa ai
dám toán học hoá mối quan hệ này, và có thể không
bao giờ toán học hoá nổi mối quan hệ đó, nhưng ít
nhất đến nay đã có thể biết được rằng không phải cứ
mỗi gene tương ứng với một đặc tính duy nhất. Từ đó
suy ra rằng việc kiểm soát gene không đơn giản như
ta tưởng – niềm tin cho rằng có thể kiểm soát được
“gene tội phạm”, nếu quả thật có gene đó, là một sự
chủ quan ngây thơ.
● Nguy cơ
phân biệt đối xử đối với “tội phạm bẩm sinh”:
Hãy nhớ lại chính
sách đối xử tàn nhẫn của chủ nghĩa quốc xã Đức những
năm 1930 đối với những người ốm yếu bệnh tật, đặc
biệt những người có khuyết tật bẩm sinh, những người
mắc bệnh tâm thần, … Họ bị nhà nước quốc xã tìm mọi
cách để loại trừ ra khỏi xã hội Đức, nhằm đảm bảo
sao cho dân tộc Đức trong tương lai bao gồm toàn
những người khoẻ mạnh. Hơn ai hết, chủ nghĩa quốc xã
là một xu hướng chính trị đi tiên phong trong việc
áp dụng một cách máy móc Học thuyết Darwin vào xã
hội loài người. Nhưng chính khoa học đã làm kẻ dọn
đường: Học thuyết Darwin trong sinh học được cải
biên thành Học thuyết Darwin xã hội (Social
Darwinism). Lịch sử đã phán xét chủ nghĩa quốc xã,
nhưng dường như rất ít khi phán xét Học thuyết
Darwin xã hội, và càng né tránh việc phán xét những
thiếu sót của Học thuyết Darwin, mặc dù ngay từ đầu
thế kỷ 20, Lý Tôn Ngô ở Trung Hoa đã cực lực phê
phán học thuyết này quá thiên lệch về đấu tranh sinh
tồn mà bỏ qua một thực tế là sinh vật cũng đồng thời
cộng sinh để tồn tại.
Thời đại ngày nay khó có thể lặp lại một chủ nghĩa
quái gở như chủ nghĩa quốc xã, nhưng cũng khó có thể
đảm bảo cho những em bé có “gene tội phạm” không bị
xã hội hắt hủi và đối xử tàn nhẫn, nếu quả thật có
gene đó.
● Nguy cơ gene tội
phạm bị lợi dụng cho mục đích xấu.
Có điều gì đảm bảo
“gene tội phạm” không bị kẻ xấu lợi dụng để biến
người thiện thành ác, kẻ ác càng ác hơn? Trong những
năm qua và hiện nay, trên thế giới đã và đang có
nhiều công trình nghiên cứu khoa học rất phản đạo
đức, bất chấp lời cảnh báo của Francois Rabelais
rằng “Khoa học vô lương chỉ là sự hư nát của linh
hồn”. Công nghệ tế bào gốc (stemcell
technology), sinh sản vô tính (cloning), v.v. là
những khu vực đang diễn ra nhiều nghiên cứu mờ ám
nhất. Những công ty tế bào gốc tìm đủ mọi cách để có
càng nhiều tế bào gốc càng tốt, vì đó là mặt hàng
thiết yếu phục vụ y học hiện đại. Từ đó đẻ ra những
cuộc săn lùng bào thai người, cho ra đời những ngân
hàng bào thai chỉ để lấy tế bào gốc, thậm chí nhân
bản vô tính người, bất chấp sự phản đối của dư luận,
và vô đạo đức hơn nữa, nhân bản vô tính người thông
qua trứng của động vật, miễn là để có bào thai
người, v.v. Nếu tình trạng tha hoá đạo đức trong
nghiên cứu khoa học không bị chặn đứng thì không có
gì chắc chắn để đảm bảo rằng “gene tội phạm” sẽ
không trở thành một loại vũ khí vi trùng đáng sợ
nhất trong tương lai, nếu quả thật nó tồn tại.
Bất chấp những
nguy cơ đe doạ xã hội nói trên, nhiều tổ chức nghiên
cứu tội phạm học dưới góc độ sinh-học-xã-hội
(bio-social criminology) vẫn tiêu hàng chục triệu
USD cho việc tìm kiếm “gene tội phạm”.
Thật vậy, ngay từ
năm 1993, Bộ Tư pháp Mỹ, Viện sức khoẻ quốc gia Mỹ
và hàng loạt trường đại học ở Mỹ đã hợp tác với nhau
để thực hiện một dự án mang tên “Nghiên cứu cách ứng
xử của những trẻ em có khuynh hướng bạo lực”. Mục
tiêu của dự án này là thông qua những trẻ em có
khuynh hướng bạo lực – những em bị coi là có khả
năng trở thành tội phạm trong tương lai (!) – sẽ
phát hiện ra những đặc điểm sinh học bẩm sinh, tức
đặc điểm gene, từ đó sẽ khoanh vùng những gene được
coi là có khả năng có liên quan đến hành vi tội
phạm. Việc khoanh vùng này sẽ thu hẹp dần đến khi
nào có thể chỉ mặt đặt tên gene nào là “gene tội
phạm”. Chỉ trong 3 năm đầu tiên, dự án đã tiêu tốn
42 triệu USD, bất chấp sự phản đối la ó của quần
chúng. Dự án dự tính kéo dài 10 năm, tức là đã kết
thúc vào năm 2003. Tiếc thay (đúng hơn phải nói là
may mắn thay), dự án tiêu tốn một số tiền khổng lồ
ấy không đem lại một kết quả nào thuyết phục.
Chẳng riêng trẻ
em, người lớn cũng có thể là đối tượng nghiên cứu:
tù nhân trong các trại giam. Cục điều tra liên bang
Mỹ FBI đã tiến hành một dự án nghiên cứu “nhân tướng
học” của 16.000 tù nhân trong hơn 60 nhà tù thuộc 12
tiểu bang, tiêu tốn rất nhiều tiền, nhưng cũng không
đi đến kết luận nào thuyết phục. Năm 1950, Edmund
Dukane ở Anh và Michel Fugain ở Pháp cũng đã từng
thực hiện những cuộc lùng sục khắp các hang cùng ngõ
hẻm ở London và Paris để lập ra những hồ sơ những
gia đình có “truyền thống” bạo lực, hòng tìm ra
những đặc điểm sinh học chung, từ đó chỉ ra dấu vết
tội phạm ẩn náu trong cơ chế di truyền. Nhưng kết
quả là những nghiên cứu này chỉ để lại một ấn tượng
xấu trong dư luận xã hội về tinh thần kỳ thị giai
cấp, kỳ thị chủng tộc rất tệ hại, đơn giản vì thành
phần tội phạm đa số rơi vào người nghèo và các sắc
dân đến những vùng nghèo khổ trên thế giới.
Vậy đã đến lúc
phải khẳng định:
Việc thừa nhận học
thuyết của Tuân tử - Hàn Phi về tính ác, hoặc thừa
nhận học thuyết của Sigmund Freud về Eros và
Thanatos, không có nghĩa là thừa nhận gene tội phạm.
Chương trình tìm kiếm gene tội phạm là một sai lầm
lớn của khoa học, xuất phát từ sai lầm trong nhận
thức triết học.
3* Sai lầm về
nhận thức:
Xét cho cùng thì
niềm tin vào sự tồn tại của gene tội phạm xuất phát
từ chỗ lẫn lộn khái niệm vật chất với khái niệm tinh
thần – hai phạm trù cơ bản của triết học nhận thức.
Tinh thần là gì?
Câu hỏi này đến
nay vẫn là một ẩn số vô cùng lớn. Mọi cố gắng giải
thích bản chất của tinh thần vẫn luôn luôn vấp phải
nghịch lý:
-Nếu tinh thần là
sản phẩm hoạt động của bộ não thì nó phải là vật
chất; nhưng thực tế cho thấy tinh thần không tuân
thủ bất kỳ nguyên lý tương tác vật chất nào, vì
thế nó không thể là vật chất.
-Nếu cố tình áp
đặt bản chất vật chất cho tinh thần, thì chắc chắn
đó phải là một dạng vật chất không thể giải thích
được bằng những định luật của thế giới vật chất
thông thường. Dù gọi tên dạng vật chất đó là gì,
chẳng hạn “năng lượng tinh thần”, “ngoại cảm”, v.v.
nhưng chắc chắn nó không tuân thủ những giải thích
của khoa học, đơn giản vì khoa học chỉ là một ngôn
ngữ mô tả thế giới vật chất thông thường như ta
thấy. Ngôn ngữ đó sẽ trở nên vô nghĩa, thậm chí méo
mó sai lệch, khi áp dụng cho một thế giới mà nó
không thích hợp, tương tự như việc cố gắng dùng ngôn
ngữ của thế giới xác định (thế giới vật lý thông
thường) để mô tả thế giới bất định (thế giới hạ
nguyên tử hoặc hạ hạ nguyên tử). Nhà bác học trứ
danh Niels Bohr đã mô tả sự trớ trêu này bằng một
câu ngắn gọn: “Tất cả chúng ta đều bị treo lơ
lửng trong ngôn ngữ” (We are all suspended in
language).
Do đó, ý tưởng
dùng gene (một cấu trúc vật chất) để giải thích tội
phạm (một hiện tượng tinh thần) trước hết chứng tỏ
một nhận thức sai lầm về mặt triết học – lẫn lộn
khái niệm vật chất với tinh thần.
Sinh học di
truyền, dù đã và đang tạo ra những thành tựu vượt
sức tưởng tượng, xét cho cùng vẫn chỉ là những quy
luật tương tác sinh hoá của DNA, do đó chỉ có thể
giải thích được những đặc điểm thuộc về thể chất
sinh hoá của con người, không thể giải thích được
những đặc điểm thuộc về tinh thần. Một chất hoá học
nào đó có thể kích thích để làm cho một tình yêu
nồng nàn hơn hay nguội lạnh hơn, nhưng yêu cái gì,
ghét cái gì lại thuộc phạm trù ý thức và cảm xúc,
nơi khoa học không bao giờ có thể với tới.
Ngay cả những hiện
tượng tinh thần được rất nhiều người tin là do gene
quyết định, như năng khiếu âm nhạc, năng khiếu toán
học, v.v. cũng gặp phải những nghịch lý không thể
giải thích. Chẳng hạn, tại sao hậu duệ của những
dòng họ lớn về âm nhạc như Bach, hay Strauss, đến
nay không hề xuất hiện những thiên tài như cha ông
thủa xưa. Con cháu của những thiên tài toán học như
Archimedes, Karl Gauss, Henri Poincaré, v.v. là ai?
Đành rằng có thể
có một yếu tố thể chất nào đó ảnh hưởng tới độ nhanh
nhậy hoặc trì độn của con người. Đó là lý do đẻ ra
cái gọi là IQ (Intelligence Quotient) – chỉ số thông
minh.
Thực ra IQ không
thể hiện chính xác cái mà nó muốn đo – những câu hỏi
dùng để đo IQ chỉ thể hiện một phần nào mức độ nhậy
bén của phản xạ hoặc mức độ tích luỹ thông tin, thay
vì một trí thông minh thực sự.
Trong tâm lý học,
trí thông minh là khả năng thấu hiểu, hoặc khả năng
nhận thức và nắm bắt được nghĩa lý.
Như thế thì khái niệm thông minh bao hàm một ý nghĩa
rộng lớn hơn và cao quý hơn rất nhiều so với cái gọi
là thông minh trong phép đo IQ.
Thực tế, một người
rất sâu sắc có thể có chỉ số IQ không cao, và ngược
lại, một người có chỉ số IQ cao có thể chẳng làm nên
tích sự gì, thậm chí còn có thể làm những việc hoàn
toàn phản thông minh. Vì thế, cái được gọi là IQ nên
được sửa lại là RQ (Reactivity Quotient), tức chỉ số
ứng phó, hoặc SQ (Smart Quotient), tức chỉ số tinh
ranh, thì có lẽ sẽ hợp lý hơn.
Đến đây, giả sử
mọi người đều thừa nhận RQ (hoặc SQ) là những “đại
lượng” có thể đo được (mặc dù các phép đo vô cùng
phiến diện), và do đó giả sử đến một ngày nào đó
khoa học sẽ khám phá ra gene RQ (hoặc SQ). Nhưng
không tồn tại một chiếc cầu nối logic nào từ gene RQ
(hay SQ) tới một trí thông minh thực sự. Một người
tinh ranh có thể phạm những sai lầm nghiêm trọng
trong đời, hoặc một người có thể rất tinh ranh về
tiền bạc nhưng hoàn toàn ngây thơ về ý nghĩa cuộc
sống.
Hoàn toàn tương
tự, giả sử có một gene nào đó quyết định những tính
cách bị coi là “có xu hướng dẫn tới tội phạm”,
nhưng sẽ không tồn tại một chiếc cầu logic nối loại
gene đó tới hành vi tội phạm.
4* Kết:
Tóm lại, khái niệm
“gene tội phạm” là một nhầm lẫn lớn của khoa học!
Nhầm lẫn này xuất phát từ tinh thần sùng bái khoa
học, coi khoa học như chúa tể của nhận thức và có
thể giải thích được mọi hiện tượng. Tham vọng giải
thích mọi hiện tượng bằng khoa học vật chất, xét cho
cùng, chỉ là một biểu hiện của tư duy cơ giới máy
móc, xuất phát từ những ấn tượng có sẵn, rồi cố
khoác cho lý thuyết của mình chiếc áo khoa học.
Steve Jones, giáo
sư di truyền học tại Đại học London, nói: “Hãy
nhìn vào nước Úc. Nếu tồn tại gene tội phạm, thì máu
của người Úc ngày nay sẽ chứa đầy gene này, vì chúng
được truyền từ một số rất đông các tội phạm trong số
các cha ông của họ.
Nhưng, mặc dù mới đây xẩy ra bi kịch ở Tasmania, Úc
vẫn là một xã hội đặc biệt an bình và trật tự”.
Người Việt Nam từ
xa xưa đã nói: “Cha mẹ sinh con, Trời sinh tính”.
Có nghĩa là “tính” không thể giải thích bằng được di
truyền. Tội phạm là một vấn đề xã hội. Chỉ có thể
chống tội phạm hữu hiệu bằng cách tạo ra một môi
trường xã hội lành mạnh, đúng như Steve Jones
nhấn mạnh: “Một từ ngữ bị hiểu sai nhiều nhất
trong di truyền học là chữ ‘for’ (dành cho), như
trong câu ‘gene dành cho một cái gì đó’. Chẳng có
một gene dành cho bất cứ cái gì cả. Một gene chỉ là
một chất hoá học mà bạn có thể nhỏ vào một ống
nghiệm. Các gene chỉ biểu lộ tác động của chúng theo
những tổ hợp riêng biệt, và quan trọng nhất là trong
những môi trường riêng biệt. Đó là yếu tố cơ bản.
Một khi được đặt vào trong một môi trường xã hội
thích hợp thì gene mới làm công việc của nó. Nhưng
trong khi bạn không thể dễ dàng thay đổi gene, bạn
có thể thay đổi xã hội vào ngày mai”.
Ngày 01 tháng
12 năm 2011
Xin giới thiệu tràng nhà của tác giả
http://phamviethung.vnweblogs.com/
|