Ứng dụng các Nguyên Lý Phật giáo vào Nghiên Cứu và Phát Triển trong Khoa Học - Bài I

Vietsciences- Làng Đậu-Võ Quang Nhân             31/07/2010 

 

Những bài cùng tác giả

Các bạn thân mến,

Đạo Phật đã hình thành và phát triển hơn 2500 năm, cho đến nay, tôn giáo này đã đang được sự chú ý nghiên cứu ứng dụng của các nhà khoa học. Một trong những lý do căn bản là vì đạo Phật đã có những nguyên lý phù hợp với lập luận và với nhiều tôn chỉ khoa học.  Nếu chỉ đứng phía bên ngoài, do số lượng kinh luận khổng lồ, chỉ riêng một Phật tử tu học cả đời cũng không hết, huống chi một người thường nếu không bỏ nhiều thì giờ tìm hiểu thì khó lòng rút ra hết được ý nghĩa thực dụng từ các nguyên lý đó. Tuy nhiên, với nỗ lực kiên trì người làm khoa học có thể tìm thấy nhiều điểm lý thú trong đó kể cả việc vận dụng các nguyên lý của Phật giáo trong cộng tác nghiên cứu và phát triển.

Trong phạm vi bài viết này, LĐ xin chia sẻ với các bạn một vài kinh nghiệm rất nhỏ đã được thực nghiệm thành công trong các lãnh vực thuần túy khoa học (tưởng chừng không đính dáng gì đến Phật giáo)  cũng như nêu lại một vài ý tưởng về "khoa học Phật học". Nhiều ý tưởng liên quan đến Phật học và khoa học nêu ra trong bài viết này được trích ly từ các bài giảng về Phật học của đức Đạt-lai Lạt-ma.

Lưu ý:  Các bài viết có liên quan đến Phật giáo do tác giả Làng Đậu khởi đăng trên Internet cho phép người đọc được tự do in lại hay phổ biến nguyên văn mà không có sự cắt xén để tránh gây ngộ nhận hiểu sai khi câu văn đã bị đưa khỏi ngữ cảnh.  Chân thành cảm tạ.

Quán Chiếu Từ các Lời Dạy của Đức Thích-ca Mâu-ni:

1. Dẫn nhập

Có lẽ cách tiếp cận trực tiếp nhất  là vào đề với lời dạy của đức Phật: 

"Này các tỳ-kheo! Cũng như người khôn ngoan chỉ chấp nhận vàng sau khi đã thử nghiệm bằng cách nung nóng, cắt gọt, và nén dập nó, những lời của ta cũng vậy, chỉ được chấp nhận sau khi đã kiểm tra chúng, chứ không phải do sự tôn kính (đối với ta).1

Như vậy, rõ ràng có một sự tương đồng giữa việc học tập hay nghiên cứu khoa học và việc tu học trong Phật giáo:  Thái độ đúng đắn trước tiên nên có ở đây phải bắt đầu từ sự rà soát, kiểm tra lại mức hợp lý của các nhận định -- không phải tiếp nhận nó với một tư thế "tín tâm hoàn toàn".  Như vậy, "giáo điều" không phải là điều được tiếp nhận trong Phật giáo.

Mọi lý thuyết khoa học ngày nay từ toán học cho đến tâm lý học và y học, đều phải dựa trên những nền tảng rất cơ bản hợp lý được nhiều người chấp nhận rộng rãi. Cũng vậy, việc giảng dạy của nguyên lý quan trọng nhất mà đức Phật truyền lại đó là nguyên lý "Tứ Diệu Đế"2 cũng dựa trên những tiền đề cơ bản đó là luật vô thường và thuyết duyên khởi.

Một cách rất sơ lược, thì luật vô thường cho rằng vạn vật (kể cả thế giới tâm lý và vật chất) đều chuyển biến không ngừng nghĩ hễ có sinh thì có diệt. Điều này thì rõ ràng không ai có thể chối cãi trong thế giới vật lý từ vi mô cho đến vĩ mô. Nó được mặc nhiên thừa nhận trong mọi lý thuyết khoa học.

Tiếp đến là thuyết duyên khởi.

Nội dung đơn giản đầu tiên trong thuyết duyên khởi (pratītyasamutpāda) là:  sự có mặt của tất cả mọi sự việc và hiện tượng trong vũ trụ đều đều chỉ là kết quả của sự tương tác và hợp thành giữa nhiều nguyên do (nhân) và điều kiện (duyên).  Ở đây, cho đến nay tiền đề này vẫn nghiễm nhiên được chấp nhận và sử dụng rộng rãi trong mọi ngành khoa học. 

Hệ quả, trực tiếp của nội dung trên là việc phủ nhận các hiện tượng hay sự việc tự nó tồn tại, hay tự nó sinh ra hay được tạo thành một cách độc lập hay cô lập hoàn toàn mà không phụ thuộc vào các nguyên nhân hay điều kiện khác. Như vậy điều này gián tiếp phủ nhận sự tồn tại của một đấng sáng thế có mặt mà không có nguyên do.

Hệ quả thứ nhì thấy được từ kết luận trên là dòng sinh diệt liên tục (continuum) của mọi sự vật hiện tượng đều không thể có sự khởi đầu và không thể có sự kết thúc. Như vậy nếu, một lý thuyết nào đó cho rằng có đúng một sự khởi đầu (như là sự khởi đầu của vũ trụ) thì chắc chắn thuyết đó mâu thuẫn với Phật học.  Vậy thì ta sẽ so sánh sánh thế nào với một với lý thuyết cho rằng toàn thể vũ trụ khởi sinh từ một vụ nổ lớn ?  Tức là cái có sinh diệt bắt đầu từ  ... không có gì hết ở thời điểm gốc 0.  Tuy nhiên, đến nay chưa ai có thể kiểm định được "thời điểm tự khởi" của của vũ trụ theo các lý thuyết kiểu này. Ngược lại, nếu chấp nhận có thể có nhiều hơn một vụ nổ lớn (tức là có thời điểm trước khi vũ trụ này hình thành) như nhiều lý thuyết vật lý hiện nay đang phát triển thì tình hình khác hẳn, điều này sẽ không còn có mâu thuẫn với Phật giáo.3

Mô hình cấu trúc vũ trụ theo lý thuyết M với 11 chiều (trái) và Mô hình vũ trụ bong bóng (phải). Mỗi vũ trụ được mô tả tựa như một "bong bóng" trong bể nước sôi.  Nhiều vũ trụ có thể đồng thời hình thành, một số bị sụp đổ, số khác trương nở và hình thành các tinh hà, ngôi sao ... như vũ trụ mà ta đang có (Ảnh: Đại học Cambridge).8  Các mô hình này không mâu thuẫn với Phật giáo.

Một bước tiếp, khi  áp dụng lập luận của thuyết duyên khởi và luật vô thường ở mức độ vi tế của vật chất thì mọi sự vật và hiện tượng thay đổi liên tục trong từng đơn vị nhỏ nhất của thời gian.  Điều này, cho đến nay không hề mâu thuẫn gì với lý thuyết vật lý ở mức vi mô. Tiếp đó, theo định nghĩa về tính không của đại sư Long Thọ:4

Sự vật nào có nguồn gốc phụ thuộc, tôi gọi là không

Với định nghĩa về tính không này cùng với tính chất thay đổi liên tục của vật chất trong mức vi tế trong từng thời điểm cho  thấy rằng người ta không thể xác định được "đối tượng tĩnh thực sự" của nhận thức (hay còn gọi là sự thiếu vắng của đối tượng nhận thức).  Sự thiếu vắng này rất tương tự với "nguyên lý bất định" đã được phát biểu bởi nhà vật lý Werner K. Heisenberg (1901-1976 -- Nobel Vật lý 1932, người được xem là một trong những cha đẻ của Vật lý Lượng tử) .

Như vậy với vài điểm cứu xét trên, ta có thể thấy rằng cùng với các lập luận chặt chẽ và thiền định mà Phật giáo "tìm ra" được nhiều đặc tính của thế giới vật chất mà không cần đến các dụng cụ đo đạc.  Đây cũng chỉ chỉ là những kết luận rất "bề mặt" có thể xem như là các "ứng dụng" sơ khởi từ các giáo Pháp của đạo Phật.

Xét  sâu hơn một tí về mặt lập luận, đức Phật còn đưa ra nhiều nguyên lý khác.  Để minh hoạ, xin trình ra đây vài nguyên lý lớn và xem nó như là công cụ hay phương pháp để tìm hiểu phán đoán sự việc (Ở đây là giáo Pháp)

2. Nguyên lý "Tứ Pháp Y":

Nhằm giúp một hành giả có thể tu học giáo Pháp được đúng đắn không bị che mờ hay lầm lẫn bởi cách dụng văn hay lời giảng, người viết văn hay bởi ý nghĩa từ câu viết, bài viết hay phát biểu. Đức Phật đã đưa ra 4 hướng dẫn liên hệ nhau gọi là "Tứ Pháp Y" có thể tìm thấy trong Kinh Duy Ma Cật và Kinh Đại Bát Niết Bàn bao gồm

Chúng ta hoàn toàn có thể mượn các nguyên lý trên vào trong việc học hỏi và nghiên cứu khoa học.  Qua đó, người đọc và phân tích một cách khách quan về một tài liệu, bài giảng, hay một lý thuyết để thấy được đâu là ý tưởng đúng đắn đâu là nhận định từ do cá nhân người viết và những lập luận đó đúng hay sai trong những điều kiện gì, môi trường nào

3. Bốn Nguyên lý trong lập luận:

Ngoài ra, các công cụ lập luận thường thấy trong Phật giáo được dùng để chứng minh và phản bác cũng tìm thấy trong khoa học (nhất là khoa toán logic).  Đa số các lập luận được dùng trong Phật học là để nhận chân các lời giảng, các biện minh, các luận điểm đâu là lý lẽ tuyệt đối đâu là tương đối và đâu ... không phải là Phật giáo.  Đa số các lập luận dùng hai phương pháp cơ bản là Biện Minh Suy Diễn (trong đó, Tam Đoạn luận rất thường được dùng) và Biện Minh Phản Chứng (mà thường thấy nhất là lối Quy Mậu biện chứng). 5  Ngoài ra, đôi khi các lập luận khoa học còn "nghiễm nhiên" sử dụng các phương pháp khác mà Phật giáo đã nêu rất rõ trong các nguyên lý của mình.

Trong chủ đề này,  xin chỉ nêu lại 4 nguyên lý của lập luận có thể áp dụng:

Theo nhận định của đức Đạt-lai Lạt-ma thì:

"Tôi thấy  rằng, cách nghiên cứu theo khoa học [đặc biệt là khoa học tự nhiên] phần lớn dựa vào ba cách chứng minh: (1) chứng minh bằng cách chú ý đến thể tính mà qua đó, những đặc tính cơ bản của đối tượng được nghiên cứu; (2) chứng minh qua sự chú ý đến thành tựu công năng, đặc biệt là nghiên cứu xem đối tượng có thể mang đến hiệu quả nào với những đặc tính cơ bản sẵn có; và (3) chứng minh bằng cách chú ý đến những mối quan hệ duyên khởi và ở đây, những nhân tố hình thành đối tượng được tìm hiểu. Chúng được xem như những phương pháp nghiên cứu cơ bản của khoa học. Và nếu như vậy thì tất cả sáu phương pháp nghiên cứu được nêu ra đã dung hàm được cả hai, nghiên cứu khoa học cũng như nghiên cứu tâm đạo" 6

4. Tri thức -- Tri thức dựa vào sự xác nhận -- Lòng tin trong Phật học và trong Khoa học

Như có nhắc trong phần 3.  Một cách phân chia trong Phật giáo về nhận thức thành ba loại dựa trên mức độ "khả kiến" của đối tượng là

5. Vượt khỏi lí luận -- Thực Nghiệm Khoa học --Thực nghiệm chứng ngộ

Trong khoa học, nếu như chỉ cần có một bằng chứng thực nghiệm (có tính vật chất khách quan) xác đáng cho thấy tính không khế hợp của một lý thuyết thì lập tức lý thuyết đó có thể bị xem như đào thải, hay ít nhất không còn được xem là chính xác đầy đủ. Như vậy, đối với khoa học thì thực nghiệm là một phương tiện kiểm nghiệm lại sự đúng đắn của lý thuyết.  Phật giáo, về phiá mình, việc tự thân hành giả chứng ngộ và trực tiếp đạt tới những tri kiến chân thật (tuệ giác) là mục tiêu tối hậu. Và do đó, một khi hành giả đã tự mình đủ khả năng xác quyết được các nhận thức (tri kiến) chân thực thì tất cả mọi giáo pháp được tu học trước đó đều có thể bỏ qua hay xem là thứ yếu.  Lý luận giáo pháp chỉ là phương tiện để hành giả đạt tới chứng nghiệm tối hậu từ thực nghiệm.9  Như vậy vai trò của thực nghiệm (có tính tâm lý chủ thể) trong Phật học xét ra có ý nghĩa sâu và rộng hơn cả trong khoa học.

Việc trình bày lại những điều rất cơ bản trên không phải để thuyết phục người đọc tin theo Phật giáo mà là để có một cái nhìn khách quan xem đức Phật đã xây dựng hệ thống giáo lý Phật giáo có dựa trên những điều mà chính Ngài đã chỉ dạy một cách nhất quán cho các đệ tử và có một nền tảng suy luận vững chắc hay không để từ đó rút ra được các "ứng dụng" cho riêng mình. Ngoài ra, trong lúc giáo hoá, đức Phật còn phải tùy theo căn cơ điều kiện của người nghe để đưa ra các lời thuyết thích hợp và do đó có thể tạo ra tình trạng các lời giảng trở nên khó hiểu hay trong một số trường hợp gần như mâu thuẫn.  Điều này đưọc giải thích từ tính thực dụng của giáo Pháp.  Một lý thuyết quá cao siêu không phù hợp với một cá nhân thì dù có cố gắng chỉ giáo thì cũng hoàn toàn không có ích lợi.10  Bàn thêm về việc này sẽ vượt quá nội dung bài viết.

6. Các Thí Dụ Vận Dụng Nguyên Lý Phụ Thuộc vào Nghiên Cứu Thiết Kế:

Phần tiếp theo sẽ là hai thí dụ cho ứng dụng thực tiễn. Hai ứng dụng này  sử dụng đến đặc tính phụ thuộc nhau trong nguyên lý Duyên Khởi do tác giả bài viết thử nghiệm và đề xuất.

1.  Giảm nhiệt cho ngôi nhà:

Ở các tiểu bang miền Nam Hoa kì như là Texas, Arizona, hay New Mexico  vào mùa hè từ tháng 5 đến tháng 10 nhiệt độ ban ngày trở nên rất nóng, có khi lên đến 110°F.  Nhiều ngôi nhà thông thường ở đây có nhà xe và gác xép đính liền với nhà chính (thường thì gác xép sẽ ít khi được tận dụng mà chỉ để như 1 khoảng "đệm" không khí) .  Nhà xe và gác xép vào ban ngày thường có nhiệt độ nóng hơn nhiệt độ bên ngoài nhiều  có khi cao hơn từ 15 - 30°F.  Điều này ảnh hưởng khá lớn đến việc điều hoà không khí (tiêu tốn điện năng) bên trong ngôi nhà (tuỳ theo chất lượng của vật liệu cách nhiệt giữa các bức tường và trần nhà với các gian phòng).

Câu hỏi đặt ra là tại sao?

Phân tích lý do:  Nhà xe là nơi gần như cô lập với gian nhà bên trong và không khí bên ngoài (chỉ thông khí khi có người mở các cửa -- cũng chính lúc mở cửa như vầy thì nhiệt từ nhà xe lại tràn vào bên trong nhà).  Mặt khác, gác xép tuy có một số các ống thông khói (nhằm chống gió bão)  nhưng vì không có sự thông thoáng nên không khí trong gian này cũng không được lưu chuyển và do đó, tương tự như nhà xe, gác xép trở nên nóng hơn rất nhiều.

Do các bề mặt tiếp xúc lớn giữa gác xép và nhà xe với nhà chính (ngăn bởi bức tường và trần nhà) và do nhiệt độ ở hai nơi này cao hơn nhiều nên chắc chắn ảnh hưởng tới việc tiêu thụ điện năng cho máy điều hoà không khí bên trong nhà. 

Hình 1: Sự cô lập tạo nên nhiệt độ cao bất thường cho nhà xe và gác xép

Như vậy, nếu đứng trên quan điểm phụ thuộc thì các gian phòng, cấu trúc cả ngôi nhà phụ thuộc vào nhau.  Nhìn rộng hơn nữa môi trường không khí bên ngoài và bên trên nóc nhà cũng tạo duyên cho nhiệt độ bên trong ngôi nhà.  Như vậy, nếu cố gắng áp dụng nguyên lý phụ thuộc này sẽ có thể giải quyết được vấn đề.

Nguyên do chính là sự cô lập không gian của cả nhà xe lẫn gác xép.  Nếu "hạ"  được nhiệt độ hai nơi này xuống ngang bằng hay gần ngang bằng với nhiệt độ không khí lưu chuyển bên ngoài cũng đã là một bước lớn.  Như vậy làm thế nào để "bẽ gãy" sự cô lập giữa hai không gian (gác xép và nhà xe) cũng như giữa hai không gian này với không khí lưu chuyển bên ngoài thì mọi việc sẽ coi như được giải quyết

Phân tích đơn giản trên đưa đến lời giải đáp cũng tương đối đơn giản như hiệu quả.  1 thử nghiệm nhỏ được tiến hành như sau:

Mở cao cửa nhà xe lên chừng 30 cm, mở hẳn cửa nối từ gác xép xuống nhà xe (qua 1 cái thang).  Kết quả thật bất ngờ: Do sự chênh lệch vận tốc không khí giữa các ống thông gió trên nóc nhà và không khí bên ngoài của nhà xe, 1 luồng không khí mát hơn nhiều đã đẩy từ nhà xe thông ngược trở lên gác xép và đi khỏi các ống thông gió.  Chỉ trong 10 phút nhiệt độ của cả nhà xe lẫn gác xép giảm xuống rất nhiều gần như tương đương với nhiệt độ bên ngoài.

Như vậy để giải quyết thì đề án khắc phục đơn giản nhất là:  Trổ ra các "cửa thông gió" nhỏ giữa đặt trên cửa lớn của nhà xe và bên ngoài đồng thời mở thêm cửa thông gió từ nhà xe lên gác xép.  Các cửa này là loại cửa kéo có thể đóng kín lại khi cần thiết. (xem hình 2).

HÌnh 2: Nguyên lý phụ thuộc được áp dụng để giảm trừ nhiệt độ cao giả tạo

 2.  Nguyên lý "Mật Khẩu Động"

Trở lại một bài viết trước đây có tựa đề "Tương Tự Hoá và Cưỡng Bức Tương tự Hoá" , người viết bài này đã cung ứng một thí dụ thay cho kết luận. Xin trích dẫn lại như sau:

Trong những năm cuối cuả thập niên 90, khi Internet trở nên phổ biến thì các hiện tượng tiêu cực lợi dụng chỗ hở cuả Internet và các Hệ Điều hành đã xảy ra:  Đó là việc ăn cắp tên và mật khẩu cuả các thành viên trong một hệ thống mạng hay e-mail. Ngoài ra, hiện tượng ăn cắp mật khẩu giữa những người làm chung một công sở cũng có thể xảy ra (nhìn trộm nguời ta login và nhớ mật khẩu để ăn cắp các nghiên cứu chẳng hạn)

Nghiên cứu đối tượng: Hệ thống Login (còn gọi là hệ thống đăng nhập:
- Đọc user account (tên đăng nhập)
- Đọc password (mật khẩu) và mã hoá password
- So sánh password đã mã hoá với mã sẵn có cuả người log-in nếu đúng thì cho phép xử dụng các dịch vụ -- Sai thì loại bỏ

2. Xác định vấn đề:

Hackers có thể dùng một hệ thống bao gồm nhiều computer làm việc chung với nhau tấn công vào một hệ thống password bằng cách ... "mò mẫm" (bạn đọc có thể tìm hiểu thêm các tài liệu viết về phương cách "ăn cắp" password trên mạng )  -- Tức là, các computer sẽ kiến tạo vô cùng nhanh một loạt các mật khẩu bằng cách tăng tiệm biến các giá trị cuả mật khẩu rồi thử đăng nhập vào cho tới khi "mò ra" được cái mật khẩu đúng ... (Qúa trình này sẽ không bao giờ làm nổi ... nếu bạn làm bằng tay; tiếc thay, với vận tốc nhiều tỉ phép tính trong 1 giây thì một hệ thống máy (còn gọi là supper computer system) sẽ bẽ gãy hầu như bất kì một mật khẩu thông thường nào nếu được chạy và thử liên tục trong 7-10 ngày)

Mật khẩu cũng có thể bị "đọc" và đem đi chỗ khác đăng nhập.

3. Phân tích cội rễ cuả vấn đề:

Trên đây chỉ là 4 điểm yếu quan trọng

Trong các phân tích trên,  thì điểm cốt lõi để tìm ra phương hướng giải quyết là nhìn nhận sự việc trong quan điểm của nguyên lý phụ thuộc.  Lý do mà mật khẩu có thể bị "tái dụng" là vì nó được thiết kế như là một đối tượng độc lập, cô lập trong khoảng thời gian đủ lớn. Nếu Mật khẩu "vượt khỏi" sự ràng buộc về đặc tính tĩnh, độc lập thì sẽ chống được hacker dể dàng và hữu hiệu hơn rất nhiều. Với cách nhìn này thì người thiết kế có thể có nhiều hướng giải quyết. (Thay vào đó, hãy xem password là một thưc thể (entity) phụ thuộc vào các yếu tố khác như thời gian, không gian, các đặc tính địa phương của máy, ... do đó, khi các yếu tó đó thay đổi thì giác trị của password cũng liên đới bị thay đổi):

  1. Trước đây Microsoft  (MS) có đưa ra một hướng giải quyết là ...dùng hình vẽ hai chiều. Tức là người login sẽ "vẽ hình" thay vì dùng 1 dãy kí tự (string). Theo cách này thì MS chỉ thay đổi đặc tính cố hữu 1 chiều của mật khẩu sang thành 2 chiều.  Và dĩ nhiên đã "mở rộng" không gian tĩnh của mật khẩu. Người thiết kế (MS) chắc chắc đã phải tìm ra sự mối tương quan chặt chẽ 1-1 giữa "hình mật khẩu" dự trữ trong trong máy chủ và hình thực sự mà người truy nhập vẽ ra. Tức là về mặt này họ đã mở rộng từ cô lập sang 1 sự phụ thuộc nào đó.  "Hình vẽ mật khẩu"  tuy  tạo ra chiều hướng rộng rãi hơn, các hệ thống "siêu máy tính" khó lòng "mò ra", nhưng một khi nó bị "nhìn lén" thì vẫn không loại trừ được khả năng bị hacker phá vỡ. 
    Tương tự, gần đây nhiều trang WEB đòi hỏi khi truy nhập hay tạo tài khoản mới đều phải gõ thêm vào các hàng chữ ngắn đọc được từ một hình hai chiều đã bị "bóp méo" hay  bị "nhiễu loạn".  Ý tưởng chính của việc làm này là tăng thêm một mức độ biến động của mật khẩu (thay vì chỉ có mật khẩu thì giờ có  thêm : một dạng của OCR program (Optical Character Recognition program).  Việc làm này "an toàn" cho đến khi nào người ta chưa thiết kế được các chương trình "đọc" và "hiểu" nổi các kí tự trong hình cũng như trong trường hợp hacker chưa "đọc" được giá trị của mật khẩu. Ngược lại nếu như 1 "đồng nghiệp" xấu "vô tình hay cố ý" đọc được giá trị mật khẩu này thì ... coi như biện pháp dùng hình .... không còn hiệu lực vì người đó cũng có thể đọc chữ trên hình để truy nhập.

  2. Phương pháp đề xuất trong bài viết "Tương Tự Hoá và Cưỡng Bức Tương tự Hoá" có thể được nhìn ở 1 góc tự do đa chiều hơn (nhiều chiều hơn với ý thức chiều không - thời gian và ngay cả những chiều trừu tượng khác).  Tức là, thay vì để password chỉ phụ thuộc vào các cấp độ không gian thì cần tạo dựng 1 cơ sở cho password có thể "biến động" theo các chiều khác, chẳng hạn như chiều thời gian và các đặc tính điạ phương như là một chiều khác nữa.
    Như vậy, việc giải quyết về hình thức có thể như sau:

  3. Vấn đề thực sự mà người thiết kế cần thấy được ở đây là : làm sao có sự "hiểu ý" giữa "máy tính" và "người nhập mật khẩu".  Như vậy,  "ngôn ngữ" (hay đúng hơn là các kĩ thuật tạo dựng mật khẩu phải thoả mãn điều kiện mà máy tính có thể "hiểu" và "áp dụng" được). Ở đây, cách thức đơn giản nhất là cài lên máy tính các thuật toán hữu hạn và chấp nhận được một độ "sai biệt" hay "sai số" nào đó (người thiết kế kiểu password của Microsoft hẳn nhiên "hiểu" rõ làm sao máy của ông ta chấp nhận được cái hình vẽ mới từ bên ngoài không bao giờ giống hệt mà chỉ cố ý "lưu giữ" hay trích ly ra những "yếu tố"  cần và đủ.)  Dẫu sao, cho đến nay, sự "thông minh" nhất của máy vẫn chỉ là "thi hành những gì người ta lập trình cho nó".  Có nhiều cách thức, 1 cách hay là biểu thị các chiều phụ thuộc của mật khẩu sang dạng các hàm số toán học.  Và mỗi khi thay đổi mật khẩu, người chủ mật khẩu buộc phải cung ứng những "hàm số" mà mình sẽ cài lên máy tính, người đó phải nhớ các hàm đó để sau này khi truy nhập thì tự mình tính được giá trị tức thời của mật khẩu.  Dĩ nhiên, ở đây các thuật toán được giả thiết cho phép chấp nhận một lượng "sai số" vưà phải nào đó.

  4. Trở lại, đề xuất trước đây như là thí dụ xin chỉ phân tích cho rõ ý : 
    Để cho mật khẩu có thêm chiều "thời gian" thì cách dể nhất là nó được "biến động" theo một hàm số của thời gian (và do đó cả máy lẫn người đều có thể "nhớ " được. Như vậy, người thiết kế có thể chỉ cần giới hạn lại các dạng hàm số nào cho phép chứ không thể bất kì hàm nào cũng được.  Có nhiều dạng hàm như thế ở đây chỉ nêu đơn giản. Thí dụ: Ngoài chiều mật khẩu thông thường (dạng string), giờ người login phải nhập thêm giá trị hàm số đa thức của chỉ số giờ trong ngày (0-23) (như là 2 * T + 3, T là thời gian tính theo giờ 0-23 chẳng hạn).  Như vậy giá trị mật khẩu của người truy  nhập chỉ tồn tại tối đa 1 giờ đồng hồ sau đó người đó trong dịp truy nhập khác phải tính toán lại giá trị này. Người hacker dẫu có bằng cách nào đó "xem lén" được giá trị lúc truy nhập thì sau khoảng thời gian tối đa 1 giờ, giá trị mật khẩu đó không thể dùng login được nữa vì hacker không biết "hàm số" mà người chủ đã sử dụng làm hàm gì ? Thời gian hiệu lực này có rút xuống thành từng phút nếu thay đổi miền xác định từ 0-23 giờ thành chỉ số phút 0-59 chẳng hạn. với cách này thì hầu như 100% loại được việc "đọc lén" password.
    Để cho mật khẩu có thêm chiều "đặc tính điạ phương" thì tương tự trên, các giá trị như là "trữ lượng chỗ trống MB của một ổ dĩa" hay "độ phân giải của màn hình" mà máy được truy nhập đang hoạt dụng.  Ở đây, ta thấy rõ, đôi khi máy phải cung cấp vài thông tin như thế "về cá nhân mình" -- tức là các đặc điểm sơ lược của máy tính để người truy nhập dựa trên đó thay vào các giá trị biến số, tính thành các giá trị theo hàm số mà truy nhập. Tương tự trên, các hàm số nên được giới hạn trong khả năng của máy và bảo đảm được độ lớn của miền giá tri (tránh hàm hằng).  Đặc tính "địa phương" này nếu chọn khéo (chẳng hạn như chỉ có các máy của hãng XYZ mới có "tên" là "MyCompany_N" (N là số máy)  thì "hàm" số này sẽ chỉ chấp nhận các string có tên máy trong miền xác định"MyCompany_N"  và do đó nếu là hacker không biết được cơ sở mà giá trị hàm điạ phương đã đã dựa lên  thì không thể nào truy nhập hay phá thủng được.
    Hai thí dụ trên chỉ là hai chiều, người thiết kế có thể đặt ra những chiều trườu tượng khác...

Các bạn thân mến,

Giáo Pháp Phật giáo thực sự có thể được nhìn từ một viễn kiến khoa học và nếu như chúng ta khảo sát nó bằng tâm tư rộng mở thì tin chắc rằng ít nhất người nghiên cứu sẽ tìm được nhiều khiá cạnh để học hỏi ứng dụng, chẳng hạn như các nghiên cứu về tâm lý học Phật giáo đã cung cấp cho nền y học hiện đại rất nhiều ứng dụng đặc biệt là trong ngành thần kinh học và vật lý trị liệu. Xa hơn nữa, có khi nhờ vào thực nghiệm Phật giáo mà cá nhân biết đâu có thể khám phá được một chân trời xa rộng cho hạnh phúc con người trong khi khoa học lý thuyết lẫn thực nghiệm cho đến nay chưa bao giờ đạt tới.

Namo Buddhaya, Dharmaya, Sanghaya.
Namo Buddhaya, Dharmaya, Sanghaya.
Namo Buddhaya, Dharmaya, Sanghaya.


Bài viết này khởi lên do tâm nguyện chia sẻ hiểu biết về Phật giáo ứng dụng cho người đọc hữu duyên, chắc chắn vẫn còn nhiều thiếu sót. Người viết, xin cảm tạ và hoan hỉ đón nhận mọi chỉ giáo và hướng dẫn về các sai sót. Tất cả công đức nhận được xin hồi hướng về mọi chúng sinh hữu tình. Mọi ý kiến xin liên lạc về vo_quang_nhan@yahoo.com


Chú thích::

  1. Câu này được trích từ bản sớ giải Vimalaprabhā về Kālacakra, mặc dù nó cũng thấy xuất hiện trong Kinh tạng Pali. Phần tiếng Sanskrit được trích dẫn trong Tattvasaṃgraha, do D. Shastri biên tập (Vārāṇasī: Bauddhabharari, 1968), k. 3587

  2. Nguyên lý "Tứ Điệu Đế" thực ra là cách tiếp cận để một chúng sinh tự mình giải thoát khỏi đau khổ. Qua đó, đức Phật phân tích về Sự khổ (khổ), Các Nguyên Nhân của sự khổ (tập) để từ đó qua lập luận cho thấy khả năng loại trừ khổ đau (diệt) qua các phương tiện để rèn luyện tâm thức (đạo). Để có thêm các giảng giải chi tiết xin xem thêm tác phẩm "The Four Noble Truths" của đức Đạt-lai Lạt-ma.  224 pages. Publisher: Thorsons (June 25, 1998). ISBN-10: 0722535503. Tác phẩm này đã được dịch sang Việt ngữ. 

  3. Lý thuyết tìm cách thống nhất giải thích các lý thuyết vật lý hiện nay gọi là lý thuyết dây (string theory). Phát triển xa hơn của lý thuyết này là thuyết M (M-theory) mà hậu quả cuả nó là sự tồn tại của nhiều vụ nổ lớn hình thành vô vàn các vũ trụ khác nhau (Parallel Universe). (xem thêm http://www.bbc.co.uk/science/horizon/2001/parallelunitrans.shtml hay http://superstringtheory.com/). Về phía Phật giáo thì có kinh sách dạy rằng hiện lúc nào cũng có vô số thế giới đang ở một trong các giai đọan hình thành (thành), tồn tại (trụ), hủy diệt (hoại) và biến mất (không)

  4. Long Thọ sống vào khoảng thế kỉ thứ 1, 2. là một trong những Phật tử có công lớn trong việc phát triển giáo lý về tính Không. (Xem thêm: http://vi.wikipedia.org/wiki/Long_Th%E1%BB%A5 hay http://en.wikipedia.org/wiki/Nagarjuna)\.

  5. Quy Mậu biện Chứng là lối chứng minh phản chứng mà trong đó người phản biện chỉ dùng lập luận của chính đối phương cùng với các duy diễn hợp lý để dẫn đến các kết quả mâu thuẫn.  Do đó, lập luận và kết luận của đối phương là không đúng.

  6. Trích từ chương 1 trong cuốn "The Dalai Lama at Harvard" Publisher: Snow Lion Publications (March 25, 1989). ISBN-10: 0937938718.  Đoạn dịch lấy từ  bản của Chân Nguyên trong http://www.daouyen.com/Datlai-Latma/Index.htm

  7. Bản thân sai sót này của học thuyết Newton cũng vi phạm nguyên lý duyên khởi của Phật giáo cho rằng mọi sự vật và hiện tượng đều phụ thuộc nhau ở một góc độ nào đó.

  8. Hình ảnh lấy từ trang Plus Magazine của University of Cambridge. Xem giấy phép "Term of Use"

  9. Trong Kinh Kim Cang đức Phật nêu rõ:

     "Nhữ đẳng Tỳ-kheo tri ngã thuyết pháp như phiệt dụ giả, pháp thượng ưng xả, hà huống phi pháp"
    Lời dịch của Thích Huệ Hưng : ‘Tỳ kheo các ông, phải biết pháp cuả ta nói, chỉ như chiếc bè, ‘pháp’ còn phải bỏ, huống hồ ‘phi-pháp’.

  10. Xem thêm nhiều chi tiết quan trọng trong quyển "Tứ Diệu Đế" đã được dịch sang Việt ngữ; trong phần mở đầu của sách này đức Đạt-lai Lạt-ma có viết:

    "Một giáo pháp có thể là rất thâm diệu, nhưng nếu không phù hợp với một người nào đó, thì sự giảng giải giáo pháp đó phỏng có ích gì cho người ấy? Trong ý nghĩa này, Phật pháp tựa như một liều thuốc. Giá trị chính của liều thuốc là ở chỗ nó chữa được bệnh chứ không ở nơi số tiền bỏ ra mua nó. Chẳng hạn, một loại thuốc có thể là rất quý và đắt tiền, nhưng nếu nó không thích hợp với người bệnh thì chẳng có ích gì cả.

  11. Trong 1 dịp "tình cờ", hệ thống điều hoà nhiệt độ của ngôi nhà mà người viết bài cư ngụ bị trục trặc đòi hỏi phải phải trèo lên gác xép để bảo trì và sửa chữa.  Đây cũng là dịp khiến cho người viết "chịu nóng" quá mức và nghĩ đến cách giải quyết này. 

Tài liệu tham khảo:

Đăng lần đầu 01/12/2007

 

           © http://vietsciences.free.fr  http://vietsciences.org  Võ Quang Nhân