Những bài cùng tác giả
Tâm như hư không vô sở
hữu (theo cách nói của Long Thọ Bồ Tát) hay Phật tánh, hay Giác tánh, hay
Thượng Đế (vô ngã), hay là Trời (nói theo Nho giáo), mới chính là bản chất
đích thực của con người và cũng là của vạn vật, Thiền còn gọi nó là bổn lai
diện mục, vốn vô sinh vô diệt, sẵn có trước khi cha mẹ chưa sinh ra ta.
Theo Phật giáo (PG), chỗ tận cùng bản chất con người
là Phật tánh. Phật là người giác ngộ, Phật tánh là tánh giác ngộ hay giác
tánh. Giác tánh là tánh biết bất nhị, bất nhị là không phải hai cũng không
phải là một. Bất nhị là không có người biết (năng tri) cũng không có cái
được biết (sở tri). Để hiểu rõ về tánh bất nhị, xin hãy xem lại hiện tượng
rối lượng tử (entanglement). Thiên nhiên có thể tạo ra đồng thời hai hay
nhiều hạt photon, chúng có thể ở tại những vị trí cách xa nhau, khi một hạt
bị tác động, tức thời các hạt khác cũng bị tác động y hệt, không mất chút
thời gian nào, bất kể khoảng cách là bao xa. Hiện tượng này bộc lộ nhiều
tính chất mà chúng ta khó tưởng tượng nổi :
1.
Tính bất nhị, nghĩa là không có số lượng, hay số lượng chỉ là tưởng tượng
chứ không có thật. Ta nói chỉ có một photon hay có nhiều photon đều không
đúng. Thật tế là không thể xác định được. Vì vậy trong Kinh nói “Phàm cái gì
có thể nói ra (hay xác định) đều không có nghĩa thật”. Cũng vì vậy, Đức Phật
sau 49 năm đi thuyết pháp, giảng không biết bao nhiêu bộ kinh, trước khi
nhập diệt, đã tuyên bố : “ Ta chưa hề nói một chữ nào”.
2.
Tính không thật của không gian. Khoảng cách không gian là không có thật, chỉ
có trong tâm thức mà thôi. Chính vì vậy, hạt photon đã không mất chút thời
gian nào để truyền tín hiệu sang hạt khác, hay không hề có việc truyền tín
hiệu đi, nếu có thì thật là phi lý, vì chẳng lẽ tín hiệu truyền đi với tốc
độ gấp hàng triệu lần tốc độ ánh sáng ?
3.
Tính không thật của thời gian. Thời gian cũng chỉ là sản phẩm của tâm thức
chứ không có thật. Bởi vì thời gian là một chiều kích gắn liền với không
gian, nên không gian không thật thì thời gian cũng không thật. Thuyết tương
đối của Einstein cũng nói rằng thời gian có thể co dãn. Câu chuyện nghịch lý
về hai anh em song sinh của Langevin minh thị ý nghĩa thời gian có thể co
dãn, thời gian khác nhau ở hai hệ qui chiếu khác nhau. Thiền sử Trung Hoa có
kể 2 câu chuyện thực nghiệm về thời gian không thật. Nhà sư Huệ Trì
慧持 là em ruột của Tổ
Tịnh Độ tông Huệ Viễn (慧遠
334~416 ) sống vào đời Tấn ở Trung Quốc.
4.
Khi Huệ Viễn tổ chức một thời pháp Niệm Phật ở Lư
Sơn thuộc tỉnh Giang Tây thì Huệ Trì từ giã anh, đi vân du ở Tứ Xuyên, thấy
có một bọng cây lớn, ông vào ngồi nhập định, hoàn toàn không biết về tất cả
mọi việc xảy ra. Cửa bọng cây lâu ngày khép lại, ông cũng không hay. Đến khi
cây bị sét đánh, bọng cây bị vỡ, ông té ra ngoài, cũng không hay biết. Trẻ
mục đồng nhìn thấy ông, chúng gọi người đến, ông vẫn còn nhập định. Người ta
đưa ông đến kinh đô, tại đây có các thiền sư, họ làm cho ông xuất định. Ông
nói rõ tên họ và xác định mình là em ruột của Huệ Viễn, một người nổi tiếng,
và hỏi thăm ông anh ra sao. Mọi người vô cùng kinh ngạc vì Huệ Viễn đã tịch
hơn 700 năm rồi. Họ hỏi ông nhập định bao lâu. Ông nói mới có một lát thôi
mà. Như vậy đối với Huệ Trì thời gian hơn 700 năm là không có.
Câu chuyện thứ hai là về Hư Vân
虚云lão
hòa thượng (1840-1959) của thời hiện đại.
Ông cùng các vị đồng tu ở trên núi Chung Nam
终南山,
gần Trường An, quanh năm phủ tuyết, mỗi người ở một cái cốc cách xa nhau,
thức ăn chỉ đào những củ khoai rất cứng trên núi, người thường ăn không nổi.
Một hôm, ông bỏ củ khoai vào nồi nấu rồi ngồi nhập định lúc nào chẳng hay.
Lúc đó vào dịp Tết, những người bạn đồng tu ở xung quanh thấy lâu không gặp,
bèn rủ nhau đến thăm, thấy ông đang nhập định, liền búng lỗ tai khiến ông
xuất định và hỏi ông nhập định bao lâu rồi. Ông đáp: “Mới hồi nảy, chắc nồi
khoai đã chín rồi”. Nhưng khi mở nắp nồi thấy mốc đã lên cao, chứng tỏ nửa
tháng đã trôi qua. Như vậy đối với Hư Vân thời gian nửa tháng là không có.
Hai câu chuyện trên chứng tỏ thời gian là sản phẩm
của tâm thức chứ không phải thật. Các thiền sư nhập định sâu tận tiềm thức,
tâm thức ngừng hoạt động thì thời gian cũng ngừng. Nếu Câu chuyện nghịch lý
của Langevin chỉ là tưởng tượng dựa trên cơ sở khoa học, thì hai câu chuyện
trên là thực nghiệm người thật việc thật. Hư Vân sống cùng thời đại với
chúng ta và thọ tới 120 tuổi.
Giác tánh vô hình, vô tướng, không hạn lượng, mới
đích thực là bản chất của con người cũng như của vạn vật. Giác tánh có những
tính chất như thấy, nghe, ngửi, nếm, tiếp xúc và suy tưởng. Những tính chất
này bất biến, vô sinh, vô diệt, và do đó vô thủy, vô chung. Chính giác tánh
hướng dẫn cho vật chất cấu thành lục căn tức 6 cơ quan nhận thức của sinh
vật và con người, là : mắt, tai, mũi, lưỡi, thân thể và bộ não. Lục căn tiếp
xúc với lục trần, là : sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; sinh ra lục thức là
6 loại nhận thức nói trên, trong đó tư duy là một loại nhận thức cao cấp
rất phát triển ở con người.
Theo PG, thì thế giới vạn vật chỉ là ảo giác chứ
không có thật. Thuyết thập nhị nhân duyên của PG, nói vạn vật có nguồn gốc
là vô minh. Vô minh là lầm lạc vì không thấy rõ, không hiểu rõ, bị mê mờ. Mà
vật lý lượng tử ngày nay cũng không nói khác. Quark, electron chỉ là những
hạt ảo, chúng không tồn tại khi bị cô lập, chúng chỉ tồn tại trong quan hệ
tương tác với nhau và phải được cảm nhận bằng ý thức, trực tiếp qua các giác
quan hoặc gián tiếp qua các thiết bị.
Niels Bohr (1885-1962, nhà vật lý người Đan Mạch,
giải Nobel vật lý 1922) nói “Isolated material particles are abstractions”
(1) (Hạt vật chất cơ bản cô lập là những sự vật trừu tượng- tức không phải
vật thật).
Von Neumann (1903-1957 nhà toán học người Mỹ gốc
Hungary, có nhiều đóng góp cho vật lý lượng tử và khoa học máy tính) phát
biểu : “Nothing would be real unless consciousness exists, that all real
things are constituents of consciousness - which is a complete reversal of
materialism” (2) (Không có cái gì là thật trừ phi ý thức hiện hữu, tất cả
vật thật đều cấu thành từ ý thức- điều này hoàn toàn trái ngược với chủ
nghĩa duy vật).
Eugene Wigner (1902-1995 nhà vật lý và toán học
người Hungary, giải Nobel vật lý năm 1963) viết : “The very study of the
external world led to the conclusion that the content of the consciousness
is an ultimate reality. Particles only exist when observed, and so the
reality of particles entails that consciousness is a fundamental element of
reality” (3) (Càng nghiên cứu thế giới bên ngoài, càng dẫn tới kết luận rằng
nội dung của ý thức là thực tại tối hậu. Hạt chỉ hiện hữu khi được quan sát,
và như thế thực tại của hạt bắt buộc rằng ý thức là yếu tố cơ bản của thực
tại).
Vì tính chất đồng bộ của lục căn, lục trần, lục thức
(18 cảnh giới) nên ta tưởng vật chất là có thật, chứ thật ra vật chất chỉ là
cảm giác, là thông tin chứ không phải thật.
Khoa học chỉ dựa trên tư duy lô gích của bộ não
thuộc bán cầu trái, hay dù cảm nhận trực giác bằng bán cầu phải thì nhận
thức cũng đã bị cơ chế ảo hóa của 18 cảnh giới làm cho lầm lạc, không bao
giờ thấy được bản chất. Ví dụ ta thấy và cảm nhận vật chất, màu sắc,
nước..., đó chỉ là tâm thức tổng hợp từ 6 giác quan, nhà khoa học ắt hẳn
biết rõ là chúng không có thật, bản chất của chúng là gì thì cũng không xác
định được, quark, electron cũng không hẳn là có thật.
Tóm lại quark, electron tạo ra những cấu trúc ảo, đó
là nguyên tử của các nguyên tố, là phân tử vô cơ và hữu cơ, là chất sống như
acid amin, protein, glucid, lipid, protid, DNA...là sơn hà đại địa, nhà cửa,
xe cộ, mặt trời, hành tinh, thiên hà, vũ trụ. Một loại cấu trúc ảo khác là
lục căn trong đó xuất sắc nhất là bộ não người. Lục căn là cấu trúc tuyệt
vời của giác tánh, nó là cơ chế phát sinh ra nhất niệm vô minh, nhất niệm vô
minh nối tiếp nhau liên tục tạo thành dòng nhận thức, suy nghĩ, tư tưởng, hệ
tư tưởng, văn hóa, văn minh của nhân loại. Đối tượng của nhất niệm vô minh
cũng là những cấu trúc ảo khác của vật chất và cả phi vật chất. Những cấu
trúc ảo của vật chất này, nhà triết học Immanuel Kant (1724-1804) gọi là vật
tự thể (Das Ding an Sich) bất khả tri. Cái khả tri qua nhận thức của lục căn
thì đã bị ảo hóa không còn đúng thực tế nữa. PG gọi cấu trúc ảo của vật chất
và phi vật chất là vô thủy vô minh. Thiền gọi vô thủy vô minh là thoại đầu.
Vô thủy vô minh và nhất niệm vô minh là hai chìa khóa của cơ chế ảo hóa làm
phát sinh vũ trụ vạn vật. Bản chất của vạn vật hay bản chất của con người là
giác tánh. PG còn gọi nó là tánh Không của vạn hữu, hay còn gọi là Tâm. Kinh
Phật nói “Nhất thiết duy tâm sở tạo” (Tất cả đều do tâm tạo) là nghĩa như
vậy. Tham thiền hay tham thoại đầu là tự mình chứng được, ngộ được vô thủy
vô minh và nhất niệm vô minh đích thực là bản chất của vũ trụ vạn vật, chúng
không là gì cả mà cũng là tất cả. Khi làm chủ được rồi thì tự nhiên vận dụng
được thần thông, sinh tử tự do, hay làm chủ được sinh tử, thoát khỏi luân
hồi sinh tử, tùy ý sinh hay tử ở bất cứ đâu, bất cứ cảnh giới nào, dù cách
xa địa cầu bao nhiêu tỉ quang niên cũng không thành vấn đề, vì tất cả mọi
cảnh giới đều là duy tâm sở tạo. Lịch sử Thiền tông Trung Hoa ghi nhận có
hơn 5000 người chứng được như vậy, Thiền gọi là kiến tánh. Nổi bật trong số
đó là các vị Tổ Sư Thiền. Bên Ấn Độ sau Đức Phật, có 28 vị Tổ Sư, Sơ Tổ Ca
Diếp, Nhị Tổ A Nan...Tổ 14 là Long Thọ Bồ Tát, Tổ thứ 28 là Bồ Đề Đạt Ma bắt
đầu sang Trung Quốc truyền Đạo Thiền, làm Sơ Tổ tại TQ. Truyền cho nhị Tổ
Huệ Khả, tam Tổ Tăng Xán, tứ Tổ Đạo Tín, ngũ Tổ Hoằng Nhẫn, lục Tổ Huệ Năng.
Sau Huệ Năng, số người kiến tánh nhiều không kể xiết như Vĩnh Gia Huyền
Giác, Huỳnh Bá Hy Vận, Lâm Tế Nghĩa Huyền, Đức Sơn Tuyên Giám, Nam Nhạc Hoài
Nhượng, Pháp Nhãn Văn Ích...Thời hiện đại thì có Hư Vân Hòa thượng, Lai Quả
Thiền sư, Nguyệt Khê Thiền sư...Đời Minh có Hám Sơn, Đơn Điền (hai vị này
còn để lại nhục thân bất hoại, cùng với nhục thân của Huệ Năng, được thờ tại
chùa Nam Hoa gần thị trấn Thiều Quan, cách Quảng Châu khoảng 200km về phía
bắc). Hàng cư sĩ tại gia cũng có người kiến tánh, bên Ấn Độ có cư sĩ Duy Ma
Cật, bên Trung Quốc có cả gia đình Bàng Uẩn gồm 4 người, nhà thơ Hoàng Đình
Kiên...Người nữ cũng có kiến tánh, như vợ và con gái của Bàng Uẩn, bà già
bán thức ăn điểm tâm, người đã giúp cho Đức Sơn Tuyên Giám kiến tánh...
Kết luận : Tâm như hư không vô sở hữu
(theo cách nói của Long Thọ Bồ Tát) hay Phật tánh, hay Giác tánh, hay Thượng
Đế (vô ngã), hay là Trời (nói theo Nho giáo), mới chính là bản chất đích
thực của con người và cũng là của vạn vật, Thiền còn gọi nó là bổn lai diện
mục, vốn vô sinh vô diệt, sẵn có trước khi cha mẹ chưa sinh ra ta.
“Tôi tư duy, vậy tôi tồn tại” (Descartes) hay “Tôi
cảm thụ, vậy tôi tồn tại” (Louis Lavelle) chỉ là sự tồn tại của cái ta giả
do vô minh kiến lập. “Tôi tư duy, vậy tôi không tồn tại” (Jean Paul Sartre)
là không thừa nhận cái ta giả, cái ta giả chỉ là vọng tưởng do vô minh kiến
lập, không phải thật. Nhưng Sartre không thân chứng được cái ta thật, tức
bản chất đích thực của con người là gì, nên không thể tự giải thoát được.
Trong L’Être et le Néant (Thực thể và Hư vô, 1943) tác phẩm triết học chính
của ông, có nhiều sai lầm. Một trong các sai lầm căn bản của ông là cho rằng
L'être est. L'être est en soi. L'être est ce qu'il est.
(Thực-thể là. Thực-thể tự-tại. Thực-thể là cái gì nó là.) Nói thế tức là cho
rằng vật chất tự nó tồn tại độc lập ngoài tâm thức, điều mà các nhà khoa học
hàng đầu thế giới hiện nay đã chỉ ra là không đúng. Phật pháp nói thực thể
(vật chất chẳng hạn) cũng không phải là thực thể. Hư vô cũng không phải là
hư vô. Cái gì có thể nghĩ, có thể nói đều không có nghĩa thật. Cả chủ nghĩa
hiện sinh và chủ nghĩa hư vô đều là biên kiến (lệch một bên) không phải
trung đạo, và đều là bệnh.
Trân trọng kính chào
La Thiếu Bình
(1), (2), (3) trích trong “Religion and the quantum
world” của Giáo sư Keith Ward phát biểu tại Gresham College ngày
09/03/2005.
|