Từ sự kiện ngày 11.9 tại New York của nước Mỹ cách đây 7
năm, cuộc chiến chống khủng bố xem chừng chưa gặt hái được bao nhiêu
thành tựu, thế giới chưa một ngày im tiếng bom. Hàng ngày qua màn
hình tivi, những cuộc đánh bom tự sát diễn ra liên miên ở Iraq, ở
Afghanistan, ở Ấn Độ và nhiều nơi khác. Không ngày nào là không bắt
gặp những ánh mắt điên cuồng phẫn nộ trước tội ác, những đôi mắt
tuyệt vọng trước thân xác người thân, máu loang lổ trên hè phố, trên
bãi chợ, nơi thánh đường… Bạo lực đẫm máu kéo dài và chưa có dấu
hiệu dừng lại là do đâu? Có nhiều nguyên nhân, trong đó có sự
kỳ thị và xung đột tôn giáo, một nỗi đau của loài người. Nhìn
những cảnh đó rồi đối chiếu với cuộc sống nước mình càng ngẫm ra
được nhiều điều.
Tôn giáo, và rộng hơn thế, tín ngưỡng là một
hiện tượng người, một
biểu thị nhân bản,
một thực tế xã hội rộng lớn và sâu xa, kết tinh chẳng những tâm linh
và tình cảm, mà cả nhận thức lý trí của nhiều người. Tín ngưỡng hoặc
không tín ngưỡng là một quyền cơ bản của con người cần được thể chế
hoá và được thực sự tôn trọng. Hiểu thật đúng thì tôn giáo sẽ
là một sức mạnh xây dựng và một động lực tích cực của cá nhân và
cộng đồng. Thực tế đã cho thấy chính sách khoan dung tôn giáo là một
nhân tố quan trọng tạo nên sự đồng thuận và cố kết xã hội. Nếu làm
ngược lại, cái giá phải trả sẽ là sự phân rã và hỗn loạn của đời
sống xã hội rất khó hàn gắn. Những gì đang diễn ra ở nhiều nơi trên
thế giới cho thấy “chủ nghĩa” tôn giáo cực đoan, biệt phái, cực
quyền cùng với sự kỳ thị và xung đột tôn giáo là những nguyên nhân
gây mất ổn định, góp phần làm nẩy sinh ra nạn khủng bố và phá hoại
rất tàn khốc. Nỗi đau này của loài người dường như chưa có thuốc
chữa trị một khi mà tinh thần khoan dung tôn giáo chưa chiếm lĩnh vị
thế cần thiết trong tâm thế con người, và một bộ phận của loài người
vẫn còn bị đầu độc bởi những cực đoan, biệt phái, cực quyền cùng với
sự kỳ thị và xung đột tôn giáo.
Có thấy ra điều ấy mới càng thêm quý trọng ý nghĩa sâu xa
của
tinh thần thân
ái mà người công giáo được răn dạy và ra sức giữ gìn và phát
huy trong cuộc sống. Vì vậy, đón mùa Giáng sinh 2008, càng thấm thía
ý nghĩa “cách
đây một nghìn chín trăm bốn mươi năm trước, cũng ngày hôm nay, một
vị thánh nhân là đức Chúa Giêsu ra đời. Suốt đời ngài chỉ
hy sinh phấn đấu cho
tự do, cho dân chủ. Từ ngày Ngài giáng sinh đến nay đã gần 2000
năm, nhưng tinh thần thân ái của Ngài chẳng những không phai nhạt mà
tỏa ra đã khắp, thấm vào đã sâu”1,
đó là lời Chủ tịch Hồ chí Minh gửi các vị linh mục và đồng bào công
giáo Việt Nam nhân dịp lễ Noël bốn tháng sau ngày Tuyên bố Độc lập
2.9.1945. Tinh thần ấy, Người lại nói rõ sau đấy hai tuần, ngày
14.1.1946 : “Trong
Công giáo có câu “tam vị nhất thể”, nhà Phật có câu “vạn chúng nhất
tâm”, nên chúng ta phải hy sinh cho nhân loại và chúng sinh”2. Không hề có một bức tường ngăn cách nào của tinh thần thân
ái và lòng thương yêu con người của Đức Giêsu cũng như của Đức Phật
trong tâm thế của con người Việt Nam. Cho nên, cũng trên tinh thần
ấy, Người nhấn mạnh “Đồng
bào Phật giáo cả nước, từ Bắc đến Nam, đều cố gắng thực hiện lời
Phật dạy là : “Lợi lạc quần sinh, vô ngã vị tha” (đem lại lợi ích và vui sướng cho mọi người, quên mình vì
người khác) khi phát biểu tại Hội nghị đại biểu Phật giáo thống nhất
Việt Nam 28.9.19643.
Rõ ràng là, đồng bào cả nước, trước hết là bà con Công giáo
càng hiểu rõ tinh thần
thân ái ấy có ý nghĩa lớn đến nhường
nào trong cái thế giới đầy bất trắc và biến động của xung đột sắc
tộc và tôn giáo đang đầu độc bầu không khí của nhiều quốc gia. Chính
trong bối cảnh ấy, càng phải hiểu rõ và phát huy “tinh
thần bác ái”
cao cả của Đức Chúa Giêsu, của Đức Phật cũng như của những vị sáng
lập các tôn giáo khác, những “thiên tài tôn giáo của mọi thời đại”
theo cách gọi của A.Einstein, đã
hòa quyện làm một với
tinh thần nhân ái
của
chủ nghĩa nhân văn Việt
Nam . Vì thế, trong tâm thế của người Việt,
đạo và đời không hằn thành ranh giới, mà là hòa quyện thâm nhập vào
nhau thể hiện rõ trong nền văn hóa Việt Nam, trong đời sống, đặc
biệt là đời sống tinh thần của con người Việt Nam. Một truyển thống
thấm đượm chủ nghĩa nhân văn và tinh thần khoan dung tôn giáo.
Không khó khăn gì lắm để nhận ra nét văn hóa đẹp đẽ đó trong
cuộc sống hàng ngày của xã hội ta. Giữa cảnh sắc làng quê, bên cạnh
ngôi chùa làng quen thuộc ẩn mình kín đáo dưới vòm cây cổ thụ vẫn có
thể bắt gặp nét dáng của tháp nhà thờ ngoi lên giữa mảng trời xanh.
Và rồi, trong sự tĩnh lặng của ngôi làng quê ấy, có khi chợt rung
lên âm thanh hòa quyện tiếng chuông chùa và tiếng chuông nhà thờ. Ở
đấy, chung sống hòa hơp và gắn bó giữa những con người với những tín
ngưỡng tôn giáo không giống nhau, nhưng họ là hàng xóm, láng giềng
thân quen, tối lửa tắt đèn có nhau. Mà cũng không chỉ ở làng quê,
nơi đô thị sầm uất,
sự gần gũi, thân quen của những cá nhân hoặc cộng đồng có tôn giáo tín ngưỡng khác nhau, vẫn là nét phổ biến trong
đời sống Việt Nam. Biểu hiện sống động và dễ nhận ra nhất của điều
đó là Noel đã không chỉ còn là ngày lễ của bà con công giáo, mà trở
thành ngày vui của cả cộng đồng. Có lẽ với không ít người không theo
đạo Thiên Chúa, họ cởi mở hòa niềm vui trong ngày Noel mà không hiểu
và chắc cũng chẳng có nhu cầu tìm hiểu thế nào là “Giáng sinh”, còn
các cháu nhỏ thì hiểu “Ông già Noel” cũng là một “Ông Bụt” trong
truyện cổ tích. Điều này thoạt nghe cứ ngỡ đơn giản, nhưng ngẫm nghĩ
sâu, sẽ hiểu ra những điều có ý nghĩa rất lớn trong văn hóa của
người Việt Nam chúng ta.
Trong nỗi đau khủng khiếp của loài người về những
xung đột tôn giáo và sắc
tộc chưa hề có dấu hiệu dịu lại mà chỉ có khủng khiếp hơn, tàn
nhẫn hơn, mới thấy hết chiều sâu giá trị về
vẻ đẹp cao quý của tinh
thần khoan dung, hoà hợp tôn giáo
trong đời sống của dân tộc ta. Chính đó là một nhân tố quan trọng
góp phần tạo nên sưc mạnh vô địch của khối đại đoàn kết dân tộc, tạo
nên sự
đồng thuận xã hội, vừa là động lực của sự phát triển, vừa là sức hút các nhà đầu tư tìm
đến một môi trường yên bình, tin cậy.
Vì thế, lời nguyện cầu nhân lễ Giáng sinh “Vinh danh
Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho người thiện tâm”
không chi có sức dẫn dắt bà con giáo dân mà cũng tranh thủ được
“thiện tâm” của bà con hàng xóm, láng giềng với họ. Chúng ta đang
sống trong một thế giới mà nền chính trị vừa mang tính chất đa cực
vừa mang tính chất đa văn minh, đa văn hoá, vì thế, “ nếu các tôn
giáo bắt đầu làm cho nhau trở thành phong phú hơn thì chúng sẽ cấp
cho linh hồn điều mà thế giới đang tìm kiếm”4.
Phải chăng vì thế mà người công giáo Việt Nam rất dễ hiểu ý tưởng “gặp
Chúa trong cuộc sống dân tộc”. Trên tinh thần đó, chúng ta có
dịp suy nghĩ thêm về chủ nghĩa nhân văn Việt Nam gắn liền với
tinh thần khoan dung,
trong đó, nổi bật lên
tinh thần khoan dung tôn
giáo.
Đây không là một thủ pháp chính trị nhất thời. Đây là một
thuộc tính nổi trội trong chiều sâu văn hóa Việt Nam. Lật lại lịch
sử, cách đây hơn một ngàn năm, năm 907, cùng với việc thực hiện một
cuộc cải cách về nhiều mặt nhằm xây dựng một quốc gia độc lập, tự
chủ, thoát dần ảnh hưởng và sự khống chế của các thế lực thống trị
phương Bắc, Khúc Hạo đã nêu nổi bật : “Chính trị cốt chuộng khoan
dung, giản dị” khiến cho “nhân dân đều được yên vui”
trong cương lĩnh dựng nước. Tinh thần ấy xuyên suốt cả chiều dài
lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Đương nhiên, không
phải là không có một bộ phận những người cầm quyền, do chưa phân
biệt rõ những âm mưu và thủ đoạn lợi dụng tôn giáo để làm phương hại
đến lợi ích dân tộc, đã có những giải pháp không đúng, nên lúc này
lúc khác, chỗ này chỗ kia để xẩy ra những thái độ kỳ thị, bài xích,
nhưng đó chỉ là nhất thời.
Vượt lên những sai lầm nhất thời đó,
truyền thống khoan dung
tôn giáo trong
tâm thức người Việt
chính là nền tảng của sự hoà hợp giữa các tôn giáo trên đất nước ta
theo phương châm “hoà nhi bất đồng” . Tinh thần ấy thể hiện
sâu đậm trong đời sống xã hội. Bởi vậy, chúng ta dễ đồng cảm với
nhận định:“Nhu cầu tôn giáo, nhu cầu một hệ thống suy nghĩ, nhu
cầu phục vụ một sự nghiệp sẽ cấp cho sự tồn tại mỏng manh và bóng
chớp của chúng ta, ý nghĩa và giá trị, không đòi hỏi nhiều lập luận
phức tạp cho lắm”5. Ay thế nhưng, những năm cuối thế kỷ XX và thập niên đầu
của thế kỷ XXI, thế giới đang phải gánh chịu nỗi đau của những xung
đột và bạo lực đầu độc bầu không khí của “ngôi làng toàn cầu”
ngày càng chât chội, nhưng cũng ngày càng gần gũi hơn với các cộng
đồng người đang sống trên đó. Kỳ thị và xung đột tôn giáo là một
trong những nguyên nhân sâu xa đẩy tới nhưng xung đột đẫm máu chưa
có hướng ra.
Giữa thế kỷ XX, A.Malraux đã tiên đoán rằng : “Vấn
đề then chốt của cuối thế kỷ này sẽ là vấn đề tôn giáo được
diễn ra dưới một dạng khác hẳn với sự hiểu biết của chúng ta”. Đến năm 1990, tác giả của“Các
xu thế lớn năm 2000” với tham vọng “chuẩn bị cho thế giới sắp đến”, đã cho rằng
: “Sự hồi sinh
của của tôn giáo vào thiên niên kỷ thứ ba” là một xu thế tất yếu của thế kỷ XXI. Các tác giả của cuốn sách gây
chấn động dư luận lúc bấy giờ đã đưa ra dự báo : “Buổi
bình minh của giai đoạn lịch sử mới này, sự trở về với đức tin này
là dấu hiệu cho thấy rằng chúng ta đã được chuẩn bị để tiếp nhân cả
hai mặt của bản chất con người…Nhân
loại không từ bỏ khoa học, nhưng qua cuộc hồi sinh tôn giáo này,
chúng ta đang tái khẳng định yếu tố tâm linh trong cuộc tìm kiếm
quân bình hơn hiện nay để làm tốt đẹp hơn cuộc sống của chúng ta”.
Những dự báo ấy có triển vọng đúng đến đâu, liệu đã có điểm
nào được chứng minh trong cuộc sống hiện thực chưa, cần đối chiếu
với những gì đang xảy ra trong thập niên đầu của thế kỷ XXI này để
tìm lời giải đáp. Nhưng cho dù chứng minh được hay không, thì bằng
vào thực tế của đời sống hàng ngày, chúng ta ngày càng thấy rõ
tâm linh
và
sự
đáp ứng, sự thỏa mãn đời sống tâm linh trong những cộng đồng chúng ta
đang sống là một đòi hỏi chính đáng. Đành rằng vấn đề
tự do tôn giáo và tín
ngưỡng là một đòi hỏi bức xúc và không kém phần phức tạp, nhưng đó
lại
là một quyền cơ bản của
con người cần được thể chế hoá và được thực sự tôn trọng . Phải trên tầm cao của tư
tưởng Hồ Chí Minh về
tinh thần khoan dung và
đoàn kết tôn giáo
mới có thể thực hiện được đòi hỏi đó. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng
chỉ ra những yếu kém trong việc thực hiện chính sách tôn giáo do “ta
chưa có phương pháp thích hợp để vận động đồng bào tôn giáo. Đồng
thời vì cán bộ ta kém, có nơi đã có những hành động lố lăng, phạm
đến tín ngưỡng và quyền lợi của đồng bào tôn giáo”6.
Hơn sáu mươi năm đã trôi qua, những lời nhận xét ấy vẫn còn nguyên
giá trị cần phải được quán triệt trong chủ trương, đường lối, giải
pháp và trong hành động.
Trên tinh thần đó, nhân ngày lễ Giáng sinh năm nay, cần nhắc
lại chủ trương “đoàn
kết mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước, không phân biệt thành
phần xã hội và dân tộc, quá khứ và ý thức hệ, tôn giáo và tín
ngưỡng, miễn là tán thành công cuộc đổi mới”
nêu lên trong Cương lĩnh của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, được thông
qua tại Đại hội Mặt trận lần thứ VI. Phải làm sao biến nội dung từ
câu chữ rất đúng đắn và mạnh mẽ đó thành chủ trương, giải pháp và
bằng hành động cụ thể để thực sự phát huy mạnh mẽ
sức mạnh đại đoàn kết dân
tộc. Cần làm cho mọi người thấy rõ được tư tưởng lớn ấy là sự
phản ánh một cách khách quan nhu cầu phát triển của đất nước trong
bối cảnh mới. Ở đấy thể hiện một tầm nhìn mới, vượt qua những ràng
buộc hạn hẹp của quan điểm “ai thắng ai” lấy vấn đề ý thức
hệ là điểm quy chiếu tuyệt đối của một thời đã qua, để thấy được
rằng, hiện nay
đồng thuận xã hội chính là động lực thúc đẩy sự phát triển của đất nước.
Phát huy tinh thần khoan dung tôn giáo, thật sự tôn trọng tư
do tín ngưỡng, chân thành lắng nghe tiếng nói đóng góp và nguyện
vọng của mọi tầng lớp nhân dân
không phân biệt thành
phần xã hội và dân tộc, quá khứ và ý thức hệ, tôn giáo và tín ngưỡng
chính là nhân tố quyết định tạo nên tính đồng thuận xã hội, động lực
của phát triển đất nước trong giai đoạn lịch sử mới.
1. Hồ Chí Minh toàn tập. Tập 4. NXBCTQG. Hà
Nội 1995, tr.. 121
2. Hồ
Chí Minh .Về vấn đề tôn giáo và tín ngưỡng. NXBKHXH Hà Nội 1996,
tr.. 142
3.
Hồ Chí Minh toàn tập. Tập 11. NXBCTQG. Hà Nội 1996, tr.. 315
4.
và 5. S.Radhakrishnan. cựu Tổng thống Ấn độ
“Indian Religions”. New Dchei. 1979.
6. Hồ Chí Minh toàn tập. Tập 6. NXBCTQG. Hà
Nội 1995, tr.. 461
|