Trong tâm
tưởng phần đông người Việt xưa cũng như nay, Tết là
mốc thời gian đánh dấu sự chuyển giao giữa cũ và
mới, là thời điểm đoàn tụ gia đình đồng thời là dịp
tạm ngừng mọi hoạt động trong vài ngày để nghỉ ngơi
và giải trí. Đây là một nếp nghĩ, nếp sống truyền
thống của dân tộc từ xa xưa, vì thế nên từ thành thị
đến thôn quê ai ai cũng rộn ràng náo nức chuẩn bị
chào đón Tết với tất cả sự trang trọng.
Trong những
ngày thiêng liêng đầu năm mới, mọi người tạm gác qua
một bên mọi vất vả lo âu, các toan tính thường nhật,
để đi thăm viếng nhau, dùng những lời tốt đẹp để
chúc tụng, cùng nhau uống rượu, ăn bánh mứt, đánh
cờ, đờn ca xướng hát.
Điều thú vị
nhứt và có ý nghĩa hơn hết của dịp Tết cổ truyền
chính là những lễ hội truyền thống và đặc biệt là
những trò chơi dân gian vô cùng phong phú diễn ra
trong những ngày này, mà mỗi địa phương đều có những
nét độc đáo và đặc sắc riêng. Như thế mới thấy cái
Tết của chúng ta đẹp đẽ và êm ái biết chừng nào.
(Đáng tiếc là càng ngày việc đón Tết càng bị giản
lược quá nhiều nên mất đi phần trang trọng, đây là
một thiệt thòi không nhỏ cho lớp trẻ ngày nay).
Từ hô bài chòi
Một trong
những trò chơi giải trí dân gian trong dịp lễ Tết
được người dân ở vùng Quảng Nam - Đà Nẵng - Phan
Thiết ưa chuộng chính là chơi bài chòi, tương tợ
cách chơi lô tô trong Nam.
Bài
của trò chơi này gồm 30 lá - dài bảy phân
rưỡi và hai phân rưỡi bề ngang - trên có vẽ hình
ảnh. Chòi được lợp bằng lá, có tất cả
10 cái dành cho những người tham dự cuộc chơi, mỗi
người ngồi trong một chòi.
Trước khi
bắt đầu, người tham dự đóng một khoản tiền tuỳ theo
qui định và bài được chia cho mỗi người ba lá. Riêng
người "hô" bài chòi - gọi là anh hiệu - giữ nguyên
một bộ bài. Để mở đầu, anh hiệu thường rao trước vài
câu thơ chẳng hạn như:
Gió Xuân phảng phất ngọn tre
Hai bên cô bác lắng nghe bài chòi
Khi mọi người đã yên vị,
anh bắt đầu rút từng lá bài và hô to bằng những câu
thơ lục bát. Thí dụ như khi rút ra lá bài "nhứt trò"
(có hình một người học trò) thì anh cất tiếng ngâm
nga:
Đi đâu cắp sách đi hoài
Cử nhân chẳng thấy tú tài cũng không
Ai có lá bài
này thì đánh vào chiếc mõ treo trong chòi, anh hiệu
cho người đem lá
"nhứt
trò"
đến giao và người đó đã có được một đôi. Chòi nào có
được ba đôi trước thì thắng cuộc.
Thú chơi bài
chòi không quan trọng chuyện được thua mà thú vị ở
chỗ thưởng thức những câu hô trầm bổng, nhịp nhàng,
du dương như nghe đọc thơ. Anh hiệu giỏi thường sáng
tác ra nhiều câu thơ lục bát rất hay và lại khéo léo
hô một cách chậm rãi khiến cho người nghe hồi hộp
chờ đợi rồi đoán già đoán non đó là con bài gì.
Chính vì vậy
xưa kia nhiều người nhờ tài hô bài chòi duyên dáng
mà được nổi tiếng khắp làng, thậm chí khắp vùng.
Đến Ca kịch Bài chòi
Theo nhiều
nhà nghiên cứu thì chính từ trò chơi bài chòi mà
ca kịch bài chòi ra đời. Đầu tiên các nghệ nhân
ngồi trên chiếu trải dưới đất còn người nghe đứng
xung quanh, nhưng về sau các nghệ nhân ngồi trên một
giàn gỗ dựng cao (nên người trong giới thường nói
rằng bài chòi đã từ đất lên giàn).
Bài bản và
làn điệu của ca kịch bài chòi gồm các điệu hát
ru, điệu lý thương nhau, lý tang tình, khoan hỡi hò
khoan (Quảng Nam-Đà Nẵng), nói lía, chèo
thuyền (Quảng Trị), hò mái nhì (Thừa
Thiên) . Lời hát là những bài thơ bốn chữ theo điệu
vè và nhiều nhứt là thơ lục bát, không có nét nhạc
cố định mà tùy theo thanh giọng của câu thơ. Có ba
điệu chánh là xuân nữ, nam xuân (hay cổ bản, gần hơi
bắc của nhạc tài tử) và xàng xê (gần với hơi nhạc,
hơi hạ trong nhạc tài tử).
Về tiết tấu,
chỉ có nhịp đôi đều đặn hay nhịp ba bỏ một nhịp,
nhưng cũng có thể biến tấu. Nhạc cụ phụ họa lúc đầu
chỉ có đờn nhị và sanh sứa (là hai mảnh tre chuốt
nhọn hai đầu cầm trong một tay, âm thanh chạm vào
nhau nghe như tiếng ve kêu), sau thêm đờn nguyệt,
ống sáo và sinh tiền. Động tác trên sân khấu áp dụng
các điệu múa sắc bùa, lục cúng, bát dạo.
Điểm độc
đáo nhứt của ca kịch bài chòi là một diễn viên có
thể thủ một lúc nhiều vai, cùng với vài nhạc cụ thô
sơ phụ họa mà đủ sức lôi cuốn khán thính giả thích
thú theo dõi. (Cách biểu diễn này ở châu Á chỉ có
thể loại Pansori của Triều Tiên với một diễn viên
thủ nhiều vai cả nam lẫn nữ, già lẫn trẻ, được sự
phụ họa của một trống puk).
Đổi mới hay cải
lương hoá?
Sau năm
1954, một số người Nghĩa Bình tập kết ra miền Bắc đã
hình thành Đoàn Ca kịch bài chòi tại Liên khu 5.
Đoàn này gồm 13 nghệ sĩ, 4 nhạc công cùng 2 nhà viết
kịch, khi trình diễn tại Sầm Sơn kịch bản Trước
giờ tạm biệt đúng theo phong cách bài chòi đã
rất được hoan nghinh. Tiếp theo, đoàn thường xuyên
giới thiệu những vở mới mà danh sách còn ghi lại đầy
đủ tại Bảo tàng viện Bài chòi ở ......, chẳng hạn
như vở Đội kịch chim chèo bẻo, Kiều - Từ Hải,
Trần Quốc Toản ra quân, Dương Vân Nga Đến năm
1980, nhân Hội thảo khoa học về bài chòi tổ
chức tại Thuận Hải, đoàn này giới thiệu vở mới
Đôi mắt biên cương qui tụ lực lượng hùng hậu gồm
đạo diễn, sáng tác âm nhạc, trang trí sân khấu, chỉ
đạo nghệ thuật, có tên tuổi,cùng với dàn nhạc qui mô
như đờn nhị, đờn nguyệt, sáo, sanh sứa, trống, lại
có thêm đờn bầu, đờn tranh, tam thập lục, violon,
cello, organ.
Tuy có nhiều
điểm mới như vậy, nhưng khi xem tôi nhận thấy vở
diễn đã bị mất hết phong cách và tư tưởng của ca
kịch bài chòi truyền thống. Quả thật, đó không thể
gọi là đổi mới mà đúng ra là cải lương hoá
ca kịch bài chòi.
Việc tìm
tòi, sáng tạo cho các bộ môn nghệ thuật cổ có được
một hình thức mới, một hơi thở mới luôn là điều đáng
trân trọng và cần được ủng hộ. Tuy nhiên, điều quan
trọng là trong khi tìm cách phát triển một bộ môn
nghệ thuật thì không nên làm cho nó bị biến chất.
Một hướng đi mới
Mới đây, vào
cuối năm 2005, nhân một dịp ra Hà Nội, tôi may mắn
được xem một vở ca kịch bài chòi do nhà thơ Nguyễn
Thế Kỷ đè xướng, hai nghệ sĩ trẻ là Sơn và Lê dàn
dựng, trong một cố gắng tìm tòi hướng đi mới cho
nghệ thuật bài chòi. Vở kịch có ngâm thơ theo điệu
xuân, điệu ai, hơi quảng (hơi quảng trong nhạc tài
tử cũng chính là hơi xá trong chầu văn). Đây là điều
hoàn toàn có thể chấp nhận được, bởi nếu sử dụng làn
điệu của những bộ môn nghệ thuật trong nước để đem
vào theo đúng nhịp điệu và tiết tấu của bài chòi thì
sẽ càng làm cho phong phú thêm.
Tôi xúc động
khi thấy điều mình vẫn mong ước lâu bảo
tồn vốn cổ mà không nệ cổ; sáng tác mới mà không bị
Âu hoá, ngoại lai, vẫn còn đậm đà bản sắc dân tộc
nay đã có người thực hiện những bước đi đầu tiên,
tuy chưa thật hoàn chỉnh nhưng đây là một hướng đi
có nhiều hứa hẹn đạt kết quả tốt. Đáng mừng hơn nữa
là hiện nay tại Quảng Ngãi đã hình thành một nhóm
nghiên cứu toàn những người trẻ tuổi với nhà thơ
Nguyễn Thế Kỷ và hai nghệ sĩ trên làm nòng cốt, cùng
nhau luyện tập, biểu diễn cũng như đào tạo thêm lớp
nghệ sĩ mới cho ca kịch bài chòi.
Nghệ thuật
Pansori cũng từng có thời gian bị mọi người quên
lãng vì cho là lỗi thời, nhưng về sau tại Hàn Quốc
đã thành lập một uỷ ban nghiên cứu sâu về bộ môn
này, nhờ vậy được thế giới biết đến rộng rãi và thừa
nhận đây là loại đại ca kịch với một diễn viên.
Ca kịch bài chòi của chúng ta cũng không hề thua kém
về mặt nghệ thuật, vậy mà tiếc thay lại không có may
mắn như Pansori.
Tôi nhớ lại
trước đây ở tỉnh Nghĩa Bình có một nghệ sĩ bài chòi
tên Mai, chỉ với một chiếc khăn vắt vai và cây quạt
trên tay, một mình đóng nhiều vai với diễn xuất
tuồng Thoại Khanh, Châu Tuấn hết sức tài tình
khiến tôi ngồi xem say mê suốt nửa giờ đồng hồ mà
xúc động vô cùng. Rõ ràng nếu chúng ta cố công đầu
tư, đào tạo được những nghệ sĩ tài ba để biểu diễn
thuần thục nghệ thuật bài chòi thì cũng có thể thu
hút được người thưởng lãm cũng như đưa ra giới thiệu
với bạn bè quốc tế. Từ đó trong nước sẽ có được sự
quan tâm hơn để đem lại sức sống cho ca kịch bài
chòi được hồi sinh đúng với giá trị bộ môn nghệ
thuật đặc sắc cha ông để lại. Nếu không, đến lúc nào
đó bài chòi bị mai một thì sẽ là một điều vô cùng
đáng tiếc.
Bài chòi Bình Định
Hình trích từ Người
Viễn Xứ và Vietnam.net
Pansori Đại Hàn |