Những bài cùng tác giả
Phần 2
-
Những chuyện linh thiêng trong thế giới ca trù
|
Người ca nữ cầu Trò
- Tranh: Bùi Xuân Phái
|
Xung quanh lối chơi nghệ thuật ca trù cũng đã lưu truyền biết bao câu
chuyện linh thiêng khiến cho nghệ thuật càng trở nên u hiển. Nào là nữ
thần ở đền Hàng Trống vốn là một ca nữ tài danh trong phủ chúa Trịnh
ứng vào bà đồng già mà khiển trách người ta đem ả đào đến hát trong
ngôi đền của bà. Nào là chuyện những cô đào chết vào giờ thiêng trên
đường đi hát mà mối tự đắp thành mộ, hiển linh khắp một vùng quê xứ
Đoài...
Chuyện rằng vào thời Lê - Trịnh có rất
nhiều ca nữ thanh sắc vẹn toàn từng phục vụ trong phủ. Đó là câu
chuyện về nàng Nguyễn Thị Huệ ở giáo phường Cựu Lâu bên hồ Lục Thuỷ
(nay gọi là hồ Hoàn Kiếm, hồ Gươm). Khi nàng 21 tuổi, trong một đêm
hát ở phủ chúa nàng đã lọt vào mắt xanh của An Đô vương Trịnh Cương
rồi được nhà chúa vời vào cung. Nàng rất được nhà chúa yêu vì ban cho
nàng danh hiệu Ngọc Kiều phu nhân.
Vào một năm nọ, kinh thành Thăng Long bị một trận
dịch lớn, nàng đã tự bỏ tiền cân thuốc cứu được rất nhiều người. Về
già nàng xuống tóc đi tu ngay trong chùa làng Cựu Lâu, sống cuộc sống
yên tĩnh như vậy cho đến khi qua đời, thọ 71 tuổi. Dân trong vùng đã
xây một ngôi đền thờ nàng ở phố Hàng Trống, trên mảnh đất có ngôi nhà
mà chúa Trịnh Cương xây tặng mẹ nàng khi bà còn sống. Nay đền toạ lạc
ở số 82 phố Hàng Trống. Đền có bức hoành phi “Nghiễn thiên muội”(Em
gái của trời), để tôn vinh và khẳng định ân đức và uy linh của vị nữ
thần là đào nương được thờ phụng trong đền.
Tục ở phố Hàng Trống từ xưa đến nay không riêng ở
đền mà ngay các tư gia có việc vui mừng cũng không tìm ả đào về hát.
Vì một năm,nhân ngày tiệc,dân phố tìm ả đào về hát thờ, một cô đương
hát tự nhiên ngã lăn ra, miệng sùi bọt mép mê man bất tỉnh. Dân làng
sợ hãi kêu khấn. Nữ thần ứng vào bà đồng già mới bảo rằng: “Các ngươi
đem ả đào về đây hát là làm điều vô lễ với ta, nếu lần sau còn như thế
nữa ta sẽ vật chết ngay”. Một lúc ả đào dần dần tỉnh lại,khoẻ mạnh như
thường. Từ đấy dân phố Hàng Trống không ai dám tìm ả đào về hát ở đền
hoặc ở nhà nữa.
Nàng là Huệ - tên một loài hoa đẹp, trắng tinh
khôi, thơm ngan ngát và thanh tịnh. Để tỏ lòng thành kính trước người
ca nữ tài danh,nhân hậu và hào hiệp, những người đến lễ đền Hàng Trống
từ xưa đến nay đều không mang hoa huệ vào đền, dù là để dâng lên nàng
với tất cả sự thành tâm nhất.
|
Ca trù. Tranh sơn mài của Lý Anh Vũ
|
Nếu như Kinh Bắc là đất quan họ, thì xứ Đoài là một trong những cái
nôi của ca trù cửa đình. Các giáo phường, các nơi có nhà hát cô đầu ở
Xứ Đoài có thểt kể như: Phù Xa, Đông Tác (Sơn Tây), Gạch (Phúc Thọ),
Thượng Mỗ (Đan Phượng), Sơn Đồng, Ngãi Cầu (Hoài Đức)... Dân gian vùng
Kẻ Mía (làng cổ Đường Lâm) còn lưu truyền câu chuyện về cô đào nọ đã
đẻ rơi và đứa bé đã chết vào giờ thiêng ngay trong đêm hát ở đình làng
Mông Phụ. Còn dân Phố Gạch thì lưu truyền câu chuyện về người ca nữ bị
cảm trên đường trở về nhà sau một đêm hát, đã chết vào giờ thiêng
khiến cho ngôi mộ bị mối đùn thành ra một nấm mồ bên cây cầu nhỏ.
Chuyện rằng: Trên con đường Kẻ Chợ - Xứ Đoài, gần thị trấn Gạch, có
một cây cầu tên gọi cầu Trò, nằm trên địa phận thôn Gia Hòa, xã Phúc
Hoà, Phúc Thọ. Xưa có một cô đào từng làm mê mẩn bao quan viên, bởi vẻ
đẹp đoan trang và kiều diễm, bởi nhịp phách giòn tan và những luyến
láy trác tuyệt. Một đêm mưa gió, tan cuộc hát, nàng trở về nhà; không
may cho nàng, vừa đến cầu thì nàng cảm lạnh mà chết. Sáng hôm sau, đã
thấy mối đắp lên thành nấm mồ nhỏ. Dân làng thương nàng, quan viên say
mê tiếng hát của nàng đã lập miếu thờ nàng ở ngay bên cầu. Câu chuyện
ấy, tình cảnh ấy đã làm bao người xót xa thân phận “nửa chừng xuân
thoắt gãy cành thiên hương” của người ca nữ nọ. Nhà thơ Vũ Đình Liên
nghe chuyện ấy, cảm động viết bài thơ Cảm tạ, với hai câu kết:
Tạ lòng nào biết nên chi được
Phách ngọc dồn thêm một nhịp vàng!
Sau khi đọc bài Cảm tạ, chung với mối đồng cảm ấy,
hoạ sĩ Bùi Xuân Phái còn vẽ cả một bức tranh ca nữ Cầu Trò. Người ta
còn bảo rằng, sau khi nàng chết, cầu ấy gọi là cầu Trò (trò là nhà
trò, trò là trù - ca trù). Thật là câu chuyện rất thi vị mà cũng rất
thương tâm!
|
Bức chạm nhạc công ca trù đền Lê Khôi (Thạch
Hà, Hà Tĩnh). Thế kỷ XVIII.. Ảnh Đặng Hoành Loan
|
Các câu chuyện linh thiêng trong thế giới ca trù không ai biết nhiều
bằng các “quan viên” vốn là chỗ thâm giao với các nhà hát cô đầu ngày
xưa. Một trong những người biết nhiều chuyện nhất chắc phải là nhà văn
Nguyễn Tuân. Ngày nay, đọc lại Chùa Đàn của ông, những người yếu bóng
vía không khỏi rùng mình bị ám ảnh bởi không khí huyền hoặc của nó. Đó
là chuyện về một người vợ giữ gìn cây đàn Đáy của chồng quá cố để lại.
Người vợ, cũng là một đào nương kể về cây đàn: “Tang đàn làm bằng nắp
ván thôi cỗ quan tài một người con gái đồng trinh”. Và “cứ vào những
đêm tối giời không tiếng gà gáy chó kêu và thứ nhất là vào những đêm
áp giỗ nhà tôi, thường cây đàn vẫn dở giời, thành đổ mồ hôi cứ vã ra
như tắm và thùng đàn phát lên những tiếng thở dài và vật mình vật mẩy
với bức vách, cứ lủng củng suốt đêm”. Thế rồi có người khách mê tiếng
hát của đào nương mà đến xin nghe bằng được, cho dù cô đào đã nhắc lại
lời thề không bao giờ hát với ai khác nữa. Người khách cũng không ngại
ngần chơi bằng cây đàn thờ treo ở gian thờ của nhà đào nương, cho dù
biết là mình sẽ chết vì dám động vào cây đàn thiêng...
Và còn biết bao câu chuyện khác nữa xung quanh cuộc
đời của các đào nương tài danh mà bạc phận, không để cho nhân gian
biết lúc bạc đầu, đem cả tiếng hát tuyệt kỹ xuống hoàng tuyền xa thẳm,
không để lại tuổi tên.
Phần 3 -
Hát cửa
đình
500 năm về trước, tại đình làng Đông
Ngạc, huyện Từ Liêm (Hà Nội) đã diễn ra lễ hội đầu xuân cầu phúc trong không
khí đại lễ trang nghiêm, hào hùng. Trong ngày hội lớn đó 8 giáp trong làng
cùng nhau thưởng đào ở đình làng. Các cô đào hát những bài thơ ca ngợi thành
hoàng làng và cầu phúc cho dân làng. Lê Đức Mao đã thay mặt 8 giáp viết 9
bài văn để các giáp đọc và khen thưởng cho các cô đào. Đó là tư liệu sớm
nhất để khẳng định ca trù đã có mặt trong văn hóa Việt Nam từ thế kỷ XV. Từ
thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XX, hát cửa đình là một sinh hoạt không thể thiếu
trong mỗi dịp tế thần Thành hoàng làng, trở thành một nét đẹp của văn hóa
Việt Nam. Những cuộc hát cửa đình này đều do các giáo phường đảm nhiệm
|
Bức chạm tiên gảy đàn Đáy ở đình Lỗ Hạnh, huyện Hiệp
Hòa, Bắc Giang
|
Ở thế kỷ XV ca trù đã là một bộ môn hoàn chỉnh về lối chơi
(qua phát hiện tư liệu sớm nhất về ca
trù Việt Nam)
Trước đây nhiều nhà nghiên cứu cho rằng ca
trù có từ thời Lý - Trần -Hồ, thế kỷ XI, XII khi căn cứ vào các
bức chạm khắc ở các chùa Phật Tích (Bắc Ninh), Thái Lạc (Hưng
Yên) và mấy chữ ả đào, đào nương trong các sách cổ Đại Việt sử
ký toàn thư, Việt sử tiêu án, Khâm định Việt sử thông giám cương
mục, Công dư tiệp ký.
Gần đây với các tài liệu khảo cổ học, mỹ
thuật học và nhất là tài liệu bằng chữ Hán Nôm xác thực và tin
cậy, chúng ta chỉ mới có tài liệu về ca trù sớm nhất là khoảng
thế kỷ XV. Căn cứ về khảo cổ học là các bức chạm khắc đàn đáy -
một cây đàn 3 dây đặc biệt chỉ dùng riêng trong ca trù, tìm thấy
ở các ngôi đình làng, chùa làng ở Bắc bộ thế kỷ XVI. Tư liệu chữ
viết là bài Đại nghĩ bát giáp thưởng đào giải văn của Tiến sĩ Lê
Đức Mao (1462- 1529) trong sách Lê tộc gia phả (A.1855) soạn
trước năm 1505, tức là khoảng cuối thế kỷ XV đầu thế kỷ XVI. Đây
chính là tư liệu sớm nhất mang hai chữ Ca trù. Đây cũng là Bài
thơ cổ nhất hiện biết có hai chữ Ca trù lần đầu tiên có mặt
trong văn học viết.
Bài thơ cho chúng ta thông tin quan trọng:
ngôi đình Đông Ngạc, xã Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, Hà Nội có
trước năm 1500 và hát cửa đình đã có trước năm 1500. Bài thơ cho
ta mường tượng ra không khí đại lễ trang nghiêm, hào hùng của lễ
hội đầu xuân cầu phúc của làng Đông Ngạc hồi cuối thế kỷ XV.
Trong ngày hội lớn của làng Đông Ngạc bấy giờ có ít nhất là 8
giáp, đã cùng nhau thưởng đào ở đình làng. Các cô đào hát những
bài thơ ca ngợi thành hoàng làng và cầu phúc cho dân làng.
Trong bài thơ này, chữ “ca trù” xuất hiện hai
lần: Thọ bôi kể chục, ca trù điểm trăm và Mừng nay tiệc ca trù
thị yến. Ở câu thơ thứ nhất, chữ “ca trù” cho thấy đây là lối
hát dùng thẻ (trù) để thưởng cho người hát người đàn (đào và
kép). Mỗi khi thấy hay, người cầm chầu gõ một tiếng “chát” vào
tang trống để thưởng và khi đó sẽ thả một thẻ tre (mỗi thẻ tương
ứng một số tiền) vào chiếc chậu thau (để tiếng ném thẻ vào chậu
thau sẽ báo cho đào kép biết là làng thưởng khiến cho họ hát
càng hay hơn nữa). Ở câu thơ thứ hai cho thấy tiệc ca trù được
mở để thờ thần.
Hát thờ ở cửa đình Đông Ngạc cho thấy cái
trống chầu đã có vai trò riêng: để thưởng và để phạt (để khen và
để chê), điều này nói lên rằng việc thưởng thức ca nhạc đã đạt
được đến một chuẩn mực, một trình độ đáng kể. Chính việc khen
chê như vậy (khen gọi là thưởng đào, hoặc thướng đào) đã góp
phần nâng cao các thành tố trong cuộc biểu diễn lên một trình độ
mới. Tiếng hát, tiếng phách của đào nương, tiếng đàn đáy của kép
và lời thơ đã có cái tiêu chuẩn để đánh giá. Trải qua nhiều thế
kỷ, tục hát thờ thần ở đình Đông Ngạc vẫn được duy trì và tạo
thêm nhiều yếu tố văn hóa đặc sắc, trong đó có lệ thưởng đào thị
yến đã trở thành một nét đẹp về sự trân trọng của cộng đồng đối
với nghệ thuật và nghệ sỹ.
|
Bức chạm nhạc công đàn Đáy ở đình Đại Phùng, huyện Đan
Phượng, Hà Nội.
|
Thế kỷ XVI - Ca trù gắn với ngôi đình làng ở Bắc bộ
Thế kỷ XVI sự phát triển và phổ biến của ca
trù được ghi nhận bằng các bức chạm khắc dân gian tại các đình
làng. Các bức chạm đình Lỗ Hạnh (huyện Hiệp Hoà, tỉnh Bắc Giang)
và đình Tây Đằng (xã Tây Đằng, huyện Ba Vì, Hà Nội) đều có các
bức chạm hoặc tượng hình người cầm đàn đáy. Đình Tây Đằng có
tượng tròn hình người đứng cầm đàn đáy. Đình Lỗ Hạnh có bức chạm
tiên nữ ngồi trên mình con hươu cầm đàn đáy và một bức chạm khác
có cả đám nhạc công đang hòa nhạc trong đó có 1 người đàn ông
ngồi cầm đàn đáy. Hình ảnh này cho thấy ca trù đã có mặt trong
những sinh hoạt văn hóa dân gian tại các làng quê và có mặt
trong điêu khắc đình làng.
Ở chùa Cói (Thần Tiên tự), xã Hợp Thịnh,
huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc cũng có bức chạm người phụ nữ
gảy đàn đáy. Tiếc rằng hiện vật đã bị cháy cùng với ngôi chùa,
và chúng ta chỉ còn lại bức ảnh chụp bức chạm này. Đây là tư
liệu mỹ thuật về đàn đáy duy nhất hiện biết tìm thấy ở một ngôi
chùa.
Qua những hình chạm người cầm đàn đáy ở các
đình, đền, có thể thấy rằng: dàn đáy đã trở nên phổ biến ở thế
kỷ XVI, ở đồng bằng Bắc bộ. Đàn đáy mới đầu được sử dụng trong
các cuộc hoà nhạc, cùng với các nhạc khí khác trong một đám đông
(có khi có cả người múa), mà người đàn có thể là nam, có thể là
nữ với tư thế là đứng hoặc ngồi. Về sau ca quán thính phòng ra
đời, đàn đáy là loại đàn duy nhất trong cuộc hát.
Thế kỷ XVII và XVIII nghi lễ hát cửa
đình rất thịnh trong các làng quê
Tiếp tục dòng chảy của của điêu khắc đình
làng từ thế kỷ trước, sang đến thế kỷ XVII và XVIII chúng ta vẫn
bắt gặp sự ghi nhận của dân gian đối với cây đàn đáy. Điều này
càng chứng tỏ cây đàn đáy đã có một chỗ đứng trong đời sống và
phong tục dân gian, và hoạt động diễn xướng ca trù đã trở thành
một nét sinh hoạt phổ biến tại các đình làng dân gian.
Những ngôi đình có niên đại thế kỷ XVII như
đình Đại Phùng (xã Đại Phùng, huyện Đan Phượng, Hà Nội), đình
Hoàng Xá (xã Liên Bạt, huyện Ứng Hòa, Hà Nội), đình Xốm (xã Hùng
Lô, huyện Phong Châu, tỉnh Phú Thọ) hiện còn giữ các bức chạm
những người đang sử dụng đàn đáy. Đặc biệt ở đình Đại Phùng đặc
tả hộc đàn ở mặt sau hộp đàn đáy, còn bức chạm ở đình Xốm miêu
tả cả đám nhạc công đang hòa nhạc.
|
Đình làng Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, Hà Nội.
|
Hai ngôi đền có niên đại thế kỷ XVIII là đền Tam Lang (xã Ích
Hậu, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh) và đền Lê Khôi (huyện Thạch Hà, tỉnh Hà
Tĩnh) cũng cho các cứ liệu rất cụ thể về đàn đáy, phách và sinh hoạt diễn
xướng ca trù ở thế kỷ XVIII. Các bức chạm này có nét điêu khắc tinh tế hơn
chứ không còn vẻ mộc mạc thô phác của các bức chạm trước đó. Điều này thể
hiện rõ nhất là những đặc tả về trang phục và vũ điệu mềm mại của các nghệ
sĩ dân gian. Các nghệ sĩ đã mang trang phục của nghi lễ hát thờ, với chiếc
mũ trên đầu, hoặc búi tóc gọn ghẽ và khá kiểu cách, và những bộ trang phục
của những vũ công chuyên nghiệp. Đây cũng là tư liệu rất quý, làm cơ sở cho
việc phục hồi các nghi thức hát thờ tại các đình đền trong dân gian.
Về các nhạc cụ và trình diễn các nhạc cụ, các
bức chạm này không những miêu tả một cảnh hòa nhạc vui vẻ, với
sự góp mặt của đàn đáy và cỗ phách, của sáo, trống cơm, chũm
chọe. Điều này cho biết trong sinh hoạt ca trù tại các cuộc vui
mang tính cộng đồng như thế, ngoài đàn đáy và phách, sự góp mặt
của các nhạc cụ khác càng làm cho không khí thêm rộn ràng và ca
trù trong lúc này không chỉ có ba thứ nhạc cụ là trống chầu, đàn
đáy và phách như ca trù về sau.
Như vậy, qua các ngôi đình có các bức chạm
các cảnh sinh hoạt ca trù và việc sử dụng cây đàn đáy, chúng ta
biết ca trù có mặt ở các tỉnh Bắc Giang, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Hà
Tây, Hà Tĩnh.
Nguồn tư liệu văn bia cũng cho biết giáo
phường ca trù đã phục vụ hát thờ ở khắp vùng đồng bằng châu thổ
Bắc bộ. Đó là các tỉnh Hà Tây (cũ), Vĩnh Phúc, Bắc Giang, Hải
Dương, Nam Định. Tỉnh có nhiều bia nhất là Hà Tây cũ (33 bia),
trong đó các huyện có nhiều bia là Quốc Oai (10 bia), Phúc Thọ
(8 bia), Thạch Thất và Đan Phượng (mỗi huyện 6 bia). Trong các
huyện của các tỉnh thì huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc có nhiều
bia nhất, với 19 bia. Hà Nội có 11 bia, chủ yếu ở ngoại thành và
đều thuộc thế kỷ XVIII. Các tỉnh Bắc Giang, Hải Dương, Nam Định
mỗi tỉnh 1 bia. Những tỉnh thành khác, tuy không có các văn bia
ghi nhận nhưng thực tế, sinh hoạt ca trù đã có mặt ở hầu khắp
các làng quê mỗi dịp tế thần. Các bản hương ước, tục lệ của các
làng quê có ghi nhận về những ngày tiệc lớn trong làng đều có
hát thờ ở cửa đình, nhiều khi là kéo dài vài ba ngày thậm chí cả
nửa tháng trời.
Hát cửa đình là hát thờ nên các bài bản đều
có quy định khá thống nhất, trở thành một lệ tục. Mỗi giáo
phường được quy định được phép hát ở các cửa đình mà mình được
Ty giáo phường phân chia. Hàng năm, cứ đến ngày tế lễ ở các làng
này là các giáo phường lại xách đàn phách đến hát hầu trước cửa
đình theo lệ. Đi hát như vậy gọi là hát lệ.
Các ả đào đứng trước điện, tay cầm lá phách
hát các bài hát thờ như Thét nhạc, Bắc phản, Hát Giai, Độc
phú...trong tiếng hòa âm của các nhạc khí. Giáo phường được mời
đến hát nhất định sẽ hỏi cho bằng được tên huý của các Thánh thờ
trong đình để khi hát đến những chữ ấy thì tránh đi. Các cô đầu
hát đến những câu có chữ ấy thì hát thật nhỏ, và tránh đi; ví
như chữ Hiển thì đọc là Hởn, chữ Lã thì đọc là Lữ. Nếu cô đầu
không nhớ ra, cứ thế hát thẳng không kiêng thì người cầm chầu sẽ
gõ liên hồi vào tang trống và cho ngừng cuộc hát. Bấy giờ người
quản giáp của giáo phường phải đến nói khó với các cụ trong làng
để xin cho làm lễ tạ với thánh và xin các cụ chiếu cố cho. Khi
ấy, người đào nương sẽ biện cơi trầu , đến trước điện làm lễ tạ
lỗi với Thánh và các quan viên.
Trong làng, người được làng tín nhiệm cầm
chầu phải là người am hiểu về âm luật, biết thưởng thức ca trù
và là đại diện cho cả làng để khen chê đào nương, bình luận và
tán thưởng về các ngón đàn, các luyến láy của giọng ca. Thưởng
phải công minh thì làng mới phục, vì nếu thưởng “rộng rãi” thì
làng tốn tiền, thưởng mà “hẹp” thì đào nương chê là ky bo, chê
là không biết nghe hát nghe đàn. Có khi, người cầm chầu mà không
biết thưởng thức, không biết khen ngợi những câu hát công phu,
những tiếng phách cao siêu, những tiếng đàn bén quyện mà đào kép
công phu rèn tập, gặp phải cô đào đanh đá, cô ta sẽ hát một câu
khiến người cầm chầu phải xấu hổ mà bỏ roi chầu không dám cầm
chầu nữa. Làng tôi ở Đường Lâm, năm xưa đã xảy ra chuyện ấy,
khiến cho cô đào phải hát rằng: “Nào những ông nghè ông cống ở
đâu/ Để cho ông lão móm ngồi câu con trạch vàng”. Ông lão móm ấy
đã phải bỏ cuộc. Vì thế dân gian vẫn bảo: “Ở đời có bốn thứ ngu/
Làm mai, Lãnh nợ, Gác cu, Cầm chầu”.
Lại có chuyện nực cười mà một đào nương già
(hiện còn sống) đã kể lại với chúng tôi rằng: Bà đi hát ở một
làng kia, khi hát, các thẻ tre thả xuống rất nhiều làm cho đào
kép rất phấn chấn, bà đã nhẩm đếm được đến hàng trăm thẻ. Thế
nhưng cuối cuộc hát, khi làng đếm thẻ để trả tiền cho giáo
phường thì chỉ thấy có vài chục thẻ! Lại có chuyện khi người cầm
chầu thưởng tiếng “chát” vào tang trống, nhưng chú nhỏ ngồi bên
cạnh lại buồn ngủ quên cả việc ném thẻ khiến cho đào kép không
vui, nên hát qua loa cho xong chuyện mà về.
Đã nửa thiên niên kỷ trôi qua, hát cửa đình
là một sinh hoạt văn hóa tinh thần rất độc đáo của người Việt
trên khắp châu thổ Bắc bộ và Bắc Trung bộ. Vẻ đẹp của ca trù là
vẻ đẹp của sự hoà quyện giữa văn chương và âm nhạc vừa hoang sơ
mộc mạc mà khúc triết tinh tế, dân gian mà bác học. Đó là “chút
hương hỏa của tổ tiên” để lại cho cháu con hôm nay.
Phần 4 -
Giáo
phường ca trù
Giáo phường ca trù được tổ chức quy củ, chặt chẽ. Quyền
lợi lớn nhất của giáo phường được xác nhận trong một tấm bia đá dựng ngay
trước cửa đình là được quyền giữ cửa đình này. Đào nương và kép đàn đều phải
thuộc các giáo phường. Mỗi giáo phường là một họ, như: họ Xuân, họ Đông, họ
Thịnh, họ Từ ... Người thuộc về họ nào, lấy chữ họ đó đặt lên trước tên
mình. Ví dụ tên là Thuận mà thuộc về họ Thịnh thì gọi là Thịnh Thuận. Lối
gọi này chỉ dùng trong giáo phường với nhau. Đó là hình thức nghệ danh độc
đáo trong làng ca hát Việt Nam thời trước.
|
Một văn bia xác nhận quyền lợi
của giáo phường - Ảnh: tác giả cung cấp
|
Cách tổ chức giáo phường
Hàng năm, xuân thu nhị kỳ, khi “thong
thả nhân gian nghỉ việc đồng” thì cũng là lúc các làng vào
đám. Khắp các làng quê thường mở hội để tế thần, tế thành
hoàng, cầu mưa thuận gió hòa, nhân khang vật thịnh. Trong
phần tế lễ không thể thiếu việc hát thờ thánh. Theo lệ,
các giáo phường lại xách đàn, phách đến các đình đền để
hát thờ trong suốt kỳ lễ hội.
Xưa, các đào kép được tổ
chức thành các giáo phường. Nhiều giáo phường được đặt
dưới sự quản lý của Ty giáo phường. Theo ghi chép của các
văn bia thì Ty giáo phường là một tổ chức quản lý hoạt
động ca xướng tương đương cấp huyện. Giáo phường các xã
thuộc về Ty giáo phường của huyện. Ty giáo phường huyện
quản lý hoạt động của các giáo phường các xã trong huyện.
Mỗi huyện thường có một Ty giáo phường. Người đứng đầu Ty
giáo phường là một ông trùm. Ty giáo phường phân chia việc
giữ các cửa đình trong huyện cho các giáo phường. Việc giữ
này được truyền từ đời này sang đời khác. Theo đó các giáo
phường này được phép toàn quyền biểu diễn tại đình làng
này, hoặc được phép tuỳ ý mời giáo phường khác đến hát
giúp trong những ngày tiệc của làng và hưởng quyền lợi.
Đặc biệt là giáo phường sẽ được hát trong lễ xông đình
trong dịp hoàn thành công việc tu tạo sửa chữa đình làng.
Ngược lại, giáo phường cũng phải có một số trách nhiệm
đóng góp vào các nghi thức hát xướng tế lễ của làng, theo
mức độ quy định giữa làng xã sở tại với giáo phường. Quyền
lợi của giáo phường được xác định bằng một tấm bia đá đặt
trang trọng ngay trước cửa đình làng mà giáo phường được
quyền hưởng lợi.
|
Hát múa ca trù. Chạm gỗ thế kỷ 18.
Đền Lê Khôi, Hà Tĩnh - Ảnh: tác giả cung cấp
|
Việc giữ cửa đình này được truyền từ đời này sang đời
khác, tuy nhiên nếu cần tiền để lo việc quan hoặc để chi dùng các việc, giáo
phường có thể sang nhượng lại quyền này cho quan viên trong chính làng xã có
đình, từ đó làng xã này không phải trả tiền cho giáo phường như quy định
trước đó nữa. Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm hiện có bản rập của 64 văn
bản mua bán này. Trong đó có 14 văn bản soạn vào thế kỷ XVII, có 39 văn bản
soạn vào thế kỷ XVIII, có 9 văn bản soạn vào thế kỷ XIX và 2 văn bản không
ghi rõ niên đại. Căn cứ vào niên đại của các văn khế mua bán quyền giữ cửa
đình, chúng ta thấy việc mua bán xảy ra phổ biến nhất là vào thế kỷ XVIII.
Và trong số các bia thuộc thế kỷ XVIII thì phần lớn là thuộc về nửa sau của
thế kỷ này. Việc soạn văn bản sang nhượng, mua bán các lệ hát cửa đình phần
lớn đều do các giáo phường và quan viên làng xã có đình thực hiện, không ghi
rõ tên người soạn bia, nhưng có xác nhận của các bên với họ tên và chức vụ
rõ ràng. Có 3 văn bia ghi rõ soạn giả soạn bản giao kèo về việc sang nhượng
quyền giữ cửa đình do các Tiến sĩ soạn. Đó là TS. Phan Lê Phiên soạn 1 bia,
TS. Đào Hoàng Thực soạn 2 bia. Những tư liệu văn bia về hát cửa đình với
lượng thông tin phong phú cho thấy trong suốt thời gian lịch sử dài lâu (ít
nhất là từ năm 1672) đông đảo nhân dân đã yêu thích ca trù, coi việc thưởng
thức ca trù như một nhu cầu văn hóa, và quan trọng hơn, việc biểu diễn ca
trù đã đem lại nguồn lợi kinh tế cho cả người nghệ sĩ dân gian lẫn các nhà
tổ chức.
Những nét đẹp nhân văn của giáo
phường xưa
Xã có thể có một hoặc nhiều
giáo phường. Mỗi giáo phường là một họ riêng. Văn bia về
việc các giáo phường được tập hợp theo “họ”, thể hiện trên
bia 11 bia có bản rập lưu tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Các
họ thống kê được trên bia gồm 8 họ: họ Xuân (2 bia), họ
Đông (4 bia), họ Thịnh (1 bia), họ Từ (1 bia), họ Hoàng (1
bia), họ Việt (1 bia), họ Kiều (1 bia), họ Khổng (1 bia).
Đứng đầu họ là một ông trùm họ. Người thuộc về họ nào, lấy
chữ họ đó đặt lên trước tên mình. Ví dụ tên là Thuận mà
thuộc về họ Thịnh thì gọi là Thịnh Thuận. Lối gọi này chỉ
dùng trong giáo phường với nhau. Những văn bia này đã cung
cấp cho chúng ta một tư liệu quý về sinh hoạt và quan hệ
giữa các cá nhân và có thể coi là một nét đẹp trong một
giáo phường ca trù thời trước.
|
Gia đình nghệ nhân ca trù Nguyễn
Văn Mùi, 27 Thuỵ Khuê, HN - Ảnh: tác giả cung cấp
|
Giáo phương ca trù xưa còn tôn vinh tri ân người có công
truyền nghề. Bia Bản huyện giáo phường lập bi, tạo năm Vĩnh Trị 5 (1681),
đặt tại đình xã Trung Việt, huyện Hiệp Hoà, tỉnh Bắc Giang. Văn bia cho biết
có vị trong Ty giáo phường xã Đông Lâm, huyện Hiệp Hòa, phủ Bắc Hà, đạo Kinh
Bắc, vì có ngoại tổ họ Hà là Phúc Đạo, ở xã Trung Trật trước có mở nghiệp
giáo phường, sinh con gái Hà Thị Khánh lấy chồng họ Nguyễn ở Đông Lâm và tạo
nên giáo phường ở đây. Nay các vị trong giáo phường xã Đông Lâm nhớ đến ân
nghĩa sinh thành của ngoại tổ, tỏ lòng báo đáp, đặt ra lệ, hễ đình Trung
Trật có mở tiệc thì các khoản tiền tiệc, tiền khao và tiền lễ xông đình, các
khoản tiền làm cỗ, thảy đều do giáo phường Đông Lâm trang trải. Bia còn ghi
tên các vị ngoại tổ họ Hà do dân xã Trung Trật cúng giỗ. Đây cũng là một nét
đẹp nhân văn của một giáo phường ca trù, vừa tôn vinh nghề tổ, vừa thành
kính tri ân người có công gây dựng nghề cho giáo phường.
Giáo phường ca trù ở nông
thôn hoạt động bán chuyên nghiệp. Họ là những người nông
dân vẫn phải lo việc đồng áng, chăn tằm dệt cửi. Họ được
cha mẹ hoặc các đào kép lớn tuổi trong “họ” dạy dỗ về
nghề. Người trong giáo phường đều phải tuân thủ các phong
tục và luân lý trong làng trong họ. Họ không được phép làm
những việc bất chính. Nếu vi phạm, họ bị các bậc cao niên
và người Quản giáp luận tội và bắt phạt, thậm chí đến bị
đuổi ra khỏi giáo phường và thông báo cho các giáo phường
khác biết để không giáo phường nào cho vào nữa. Việc đi
hát ở các đình miếu bao giờ cũng do người Quản giáp cắt
đặt, và thường là chồng đàn vợ hát, anh đàn em hát, bố đàn
con hát.
Trong giáo phường xưa, việc thờ kính
thầy dạy rất được xem trọng. Trò coi thầy như cha mẹ,
“sống tết, chết giỗ”. Những ả đào già có tài thường dạy dỗ
được nhiều học trò thành nghề và rất được kính trọng. Mỗi
khi các học trò đi hát được trả tiền công vẫn thường trích
ra một khoản tiền để góp với giáo phường cung dưỡng thầy.
Đối với giáo phường, tất cả các công
việc như lễ tế tổ hàng năm, các lệ kiêng tên tổ ca trù,
việc thờ thầy, việc chia tiền hát, lệ mở xiêm áo để công
nhận một cô đào bắt đầu được hành nghề đều được tổ chức và
tuân thủ nghiêm ngặt và tự nguyện. Chính cách tổ chức giáo
phường như thế đã tạo nên những nét đẹp nhân văn của giáo
phường, khiến cho đào kép ngày xưa rất được cộng đồng làng
xã trân trọng và kính nể.
Ca trù còn lại được đến hôm nay chính
là nhờ các đào kép xưa đã từng sống trong các giáo phường
như thế truyền lại.
Đã đăng trên Vietimes
©
http://vietsciences.free.frr
và http://vietsciences.org
Nguyễn Xuân Diện
|