Những bài
cùng tác giả
Bộ phận thứ hai trong dòng âm nhạc cổ truyền bác học
Huế là Ca nhạc thính phòng Huế, thường được gọi một
cách vắn tắt là Ca Huế.
Ca Huế thuộc loại
âm nhạc cổ điển thính phòng, bao gồm cả nhạc Hát và
nhạc Đàn, với cả một hệ thống bài bản cấu trúc chặt
chẽ, đòi hỏi một kỹ năng diễn tấu điêu luyện của cả
ca công và nhạc công. Đây là một bộ phận âm nhạc đặc
sắc có ý nghĩa quan trọng trong tổng thể nền âm nhạc
cổ truyền Việt Nam, không chỉ bởi sự đậm đà bản sắc
Huế, mà còn in đậm dấu ấn hội tụ và lan tỏa trong
lịch sử âm nhạc dân tộc.
Ca Huế, với những
sắc thái tinh tế được hình thành trên hai điệu thức
chính: điệu Bắc (khách) và điệu Nam, với một hệ
thống hơi diễn tả từng cung bậc sắc thái tình cảm
như: hơi nhạc, hơi đảo, hơi thiền, hơi quảng trong
hệ thống điệu Bắc; hơi thương, hơi ai…trong hệ thống
điệu Nam…đã tạo nên phong cách đặc trưng cho Ca Huế.
Các bài bản thuộc
điệu Bắc thường mang tính chất vui tươi, trong sáng,
linh hoạt, đôi lúc trang trọng; các bài bản thuộc
điệu Nam mang tính chất buồn thương, bi ai, vương
vấn.
Trong Ca Huế,
những bài ca và bản nhạc mặc dù có tên gọi giống
nhau, hoặc gần giống nhau, nhưng thật ra bài bản cho
ca khác với bài bản dùng để hòa tấu. Tư liệu về bài
bản nhạc đàn này, ông Hoàng Yến đã ghi lại
khá đầy đủ theo lối ký âm xưa đăng trong tập san
BAVH 1919, mà sau đó, đã được ông E. Le Bris chuyển
dịch lại một phần qua lối ký âm phương Tây
[1].
Các hình thức tổ
chức dàn nhạc thính phòng Huế thường thấy là : tam
tấu, ngũ tuyệt, lục tuyệt.
Tam tấu :
hòa tấu 3 nhạc cụ dây.
Đàn tranh
Đàn Nhị
Đàn Nguyệt.
Dàn Ngũ tuyệt gồm : hòa tấu 5 nhạc cụ dây
Đàn Tam
Đàn Tỳ bà
Đàn Nhị
Đàn Nguyệt
Đàn Tranh
Dàn Lục tuyệt :
Trong tập san BAVH năm 1919
(B), chúng tôi thấy ảnh một ban Lục tuyệt gồm
6 danh cầm thời bấy giờ như Ưng Dũng (Trợ Dõng), Tôn
Thất Văn, Ưng Biều, Khóa Hài, Trần Trình Soạn và
Hoàng Yến với các nhạc cụ sau :
Đàn Nguyệt
Sáo
Đàn Nhị
Đàn Tranh
Đàn Tỳ bà
Đàn Tam
Tuy vậy, cũng
trong tập san này, có thêm một bức ảnh được chú
thích: Nhóm nghệ sĩ Huế, gồm 8 nhạc cụ, 7
loại như biên chế của dàn Tiểu nhạc (nhã nhạc nhỏ),
nhưng không có trống mảnh :
1 Tam
1 Tỳ bà
1 Nhị
1 Nguyệt
2 Sáo
1 Tranh
1 Phách
Có thể, ban
Tiểu nhạc thời kỳ suy thoái, ngoài việc phục vụ
một số nghi thức tế lễ ít ỏi trong triều đình, thì
còn tham gia sinh hoạt nhạc thính phòng trong các
nhà tôn qúy, hoàng tộc chăng ? Vấn đề này, như đã
trình bày trong mục Cung trung nhạc, chúng tôi hiện
vẫn chưa có được nhiều tư liệu, không tìm ra môi
trường sinh hoạt cụ thể của loại nhạc này trong cung
phủ. Vì vậy, khảo luận này, chúng tôi không xếp Ca
Huế thính phòng vào một trong những thể loại Âm
nhạc cung đình triều Nguyễn.
Các nghệ nhân
ca Huế Nguyễn Kế, Minh Mẫn...khoảng năm 1977
-Ảnh TL Vĩnh Phúc
Mặc dù chưa có
những chứng liệu cụ thể về bài bản, nhưng một số yếu
tố quan trọng khác rõ ràng đã tạo ra mối quan hệ mật
thiết, gắn bó giữa âm nhạc cung đình và ca nhạc
thính phòng Huế, kể cả dòng âm nhạc dân gian xứ Huế.
Đó chính là các nghệ sĩ - nhạc công, ca công của âm
nhạc cung đình, hầu hết là nghệ nhân tài hoa trưởng
thành từ dòng âm nhạc dân gian. GsTs Tô Ngọc Thanh,
khi đề cập Vai trò hội tụ văn hóa của Huế đã
nói : " Trước nhu cầu xây dựng nền văn hóa cung đình
phong kiến, cần huy động, chọn lọc, tinh chế những
vốn văn hóa của Huế và các ngoại vi, Song những vốn
văn hóa đó mang nặng tính chất dân gian , do người
nông dân sáng tạo nên để đáp ứng thị hiếu của cung
đình và trình độ tri thức của giơí quan lại, trí
thức, vốn văn hóa dân gian này phải triển
qua một quá trình chọn lựa tinh chế. Thế là đã xẩy
ra một bước ngoặt có tính chất lượng trong văn hóa :
đó là quá trình chuyên nghiệp hóa, bác học hóa văn
hóa dân gian
[2]. . Vấn đề này cũng được PGs.Ts Nguyễn
Thụy Loan nêu trong Lược sử âm nhạc Việt Nam,
việc nhà Nguyễn xóa bỏ Ty giaó phường, lập viện giáo
phường để lo việc tuyển người vào các đội ca nhạc
cung đình. Đội ngũ này từ "dân nhạc" nhảy vào
"quan nhạc" (chữ dùng của Trần Văn Khê), rồi
sau đó, do sự suy thoái của triều đại phong kiến
trong từng thời kỳ lịch sử, thấy rõ là dưới triều
vua Tự Đức (1847-1883), mặc dù nổi tiếng là ham mê
thi phú, được mệnh danh là Nhà Vua Thi Sĩ,
nhưng vẫn xẩy ra tình trạng giảm biên của các tổ
chỨc triều nhạc. Một số nhạc công cung đình đã đến
với dân gian như trường hợp Nguyễn Quang Đại, một
nhạc công nổi tiếng, một nhạc quan cung đình Huế vào
Gia Định sinh sống bằng nghề truyền bá ca nhạc Huế,
được gọi là cụ Ba Đội; người được truyền tụng là đã
chuyển bài Tứ đại cảnh Huế (hơi dựng) thành Tứ đại
oán (hơi oán) trong nhạc thính phòng tài tử Nam Bộ
[3].
v.v…
Có thể nói, trong nền âm nhạc cổ truyền Huế, thì Ca
Huế thính phòng - bộ phận thứ hai của dòng nhạc bác
học, là nhịp cầu nối giưã Cung đình - Dân gian. Vậy,
dòng âm nhạc dân gian cũng chính là cơ sở để hình
thành và phát triển, là chiếc nôi nuôi dưỡng cho
dòng âm nhạc cung đình, bác học Huế, một bộ phận đặc
sắc trong nền âm nhạc cổ truyền Việt Nam.
|