Khi bàn về Nhã nhạc người ta thường
chú trọng nhiều đến thành phần, biên chế các loại dàn nhạc và bộ phận
nhạc không lời do các nhạc cụ diễn tấu, mà ít đề cập đến một bộ phận
quan trọng của Nhã nhạc là thể loại nhạc có lời. Đó là những khúc hát
được quy định nghiêm ngặt trong từng lễ thức của những đại lễ trong
triều đình. Có đến hàng trăm khúc hát có lời ca bằng chữ Hán mang nội
dung phù hợp với từng cuộc tế lễ do Hàn Lâm Viện của triều đình biên
soạn.
Khâm Định Đại Nam Hội điển Sử lệ
gọi những khúc hát quy định trong các loại nhạc lễ cung đình là
Nhạc chương. Mặc dù có dàn nhạc tấu theo, nhưng thực chất, đây là
thể nhạc Hát, dàn nhạc chỉ giữ vai trò đệm, như ý kiến của ông Cadière
trong lễ Tế Giao năm 1915 đăng trên tạp chí BAVH. Vì vậy, một số tài
liệu còn gọi là bài hát, ca khúc, hay
ca chương...Nhưng để nhấn mạnh về chức năng, tính đặc thù thể
loại, (cũng như không gian và phạm vi diễn
xướng duy nhất của chúng là các đại lễ cung đình), thì Nhạc chương
thuộc về một thể loại hát lễ thuần túy chốn triều đình - Nhã ca,
mà tính chất, chức thể tựa như loại Tụng nhạc, một trong năm
loại nhạc cung đình thời Tây Chu ở Trung Hoa. Hoặc có thể, có giềng
mối với lối Nhạc Phủ đời Hán, Ngụy , được Lê Quý Đôn chú giải
như sau : “quan nha có chức vụ chọn lấy những bài thi ca cho phổ
vào tiếng đàn tiếng sáo. Người đời sau gọi những thi ca được quan chức
trong Nhạc phủ chọn lấy bảo tồn là Nhạc phủ. Đầu tiên Hán Vũ Đế định
lễ nghi tế Giao và lập ra Nhạc phủ, cho Lý Diên Niên làm Hiệp luật Đô
úy. Nhạc phủ bắt đầu lập ra từ đấy”.
Tuy nhiên, đó là giềng mối xa, với
Trung Hoa ; còn giềng mối gần, vẫn có người cho rằng Nhạc chương gần
với lối tán, tụng trong âm nhạc nhà Phật. Mặc dù vậy, quan niệm
nhạc cung đình Việt Nam phỏng theo Nhã nhạc triều Minh bên Tàu, đã trở
thành nếp trong mọi suy nghĩ về văn hóa cung đình, nên nhiều người vẫn
tỏ ra nghi ngờ nhận định này. Theo chúng tôi biết, Âm nhạc Phật giáo
không đơn giản chỉ là tụng, niệm như hiện nay . Bằng những sử liệu về
âm nhạc Phật giáo Việt Nam xuất phát từ nền nghệ thuật Tiên Sơn,
Lê Mạnh Thát cho chúng ta thấy lễ nhạc Phật giáo Việt Nam thế kỷ thứ 5
đã có một thể chế nhạc lễ bao gồm “ca tán tụng vịnh”. Trong đó,
cũng có thể truy tìm mối quan hệ giữa Ca vịnh với Nhạc
chương, Tán tụng với Nhạc khí, và sự kết hợp : “Bối
là một thứ lễ nhạc do phổ tán bằng đồ ống đồ dây mà thành, còn
nhạc thì do tấu bằng đồ kim đồ đá mà nên”.
Nếu không muốn nói Nhạc chương là
linh hồn của cuộc lễ, thì cũng phải thừa nhận chúng là nơi chứa đựng
và chuyển tải một phần nội dung chủ yếu của từng lễ thức. Chúng ta đều
biết rằng, âm nhạc cung đình chủ yếu để phục vụ lễ lạc, triều nghi. Vì
thế, bộ phận nhạc lễ là quan trọng nhất. Trong 7 loại nhạc lễ cung
đình triều Nguyễn, thì hơn 5 loại đã là nhạc lễ nghi, mà bản thân tên
gọi của chúng đã bao hàm nội dung ý nghĩa, gắn liền với từng cuộc lễ :
như Giao nhạc là nhạc dùng trong lễ tế Nam Giao,
Miếu nhạc là nhạc dùng trong lễ Tế Miếu v.v...Trong mỗi loại
nhạc đều được quy định một hệ thống Nhạc chương với bài bản riêng, mà
nội dung của mỗi bài đều phải ứng với nội dung của mỗi lễ thức được
sắp xếp theo trình tự cuộc lễ.
Trong Giao nhạc, Nhạc
chương gồm một hệ thống 9 bài (nhã) ca, do ca sinh và nhạc
sinh diễn tấu trong 9 lễ thức khác nhau.
Hệ thống Nhạc chương của Giao
nhạc được bộ Lễ quy định là Thành chương, các chi
chương
đều mang chữ Thành. Lễ tế Nam Giao dưới thời vua Minh Mạng, 9 chi
chương được diễn tấu trong 9 lễ thức sau :
1.
Hiển thành chi chương, tấu trong lễ Phần Sài.
2. Cảnh thành chi chương,tấu
trong lễ Thượng hương
3. An thành chi chương,
tấu trong lễ Nghinh
thần
4. Gia thành chi chương,
tấu trong lễ Dâng
ngọc, lụa
5. Mỹ thành chi chương,
tấu trong lễ Sơ hiến
6. Thụy thành chi chương,
tấu trong lễ Á hiến
7. Vĩnh thành chi chương,
tấu trong lễ Chung hiến
8. Tuy thành chi chương,
tấu trong lễ Tống
thần
9. Hựu thành chi chương,
tấu trong lễ Vọng liệu
Các chi chương qua các đời
vua có thể có sự thay đổi một vài chi tiết không đáng kể. Cho đến năm
1915, dưới đời vua Duy Tân thứ 9, hệ thống Nhạc chương trong lễ Tế
Giao cũng chỉ thay đổi như sau đây :
1. An thành chi chương,
tấu trong lễ Nghinh thần
2. Triệu thành chi chương,
tấu trong lễ Dâng
ngọc,lụa
3. Tiến thành chi chương,
tấu trong lễ Dâng thịt tế
4. Mỹ thành chi chương,
tấu trong lễ Sơ hiến
5. Thụy thành chi chương,
tấu trong lễ Á
hiên
6. Vĩnh thành chi chương,
tấu trong lễ Chung hiến
7. Doãn thành chi chương,
tấu trong lễ Triệt soạn
8. Hi thành chi chương,
tấu trong lễ Tống thần
9. Hựu thành chi chương,
tấu trong lễ Vọng liệu
Khi lễ hoàn tất, vua từ đàn trung
xuống trở về Trai cung, Đại nhạc cử và ca sinh tấu khúc Khánh thành
để tỏ sự vui mừng việc tế Trời đã hoàn thành.
Như vậy, Nhạc chương là một thành
tố quan trọng trong các Đại lễ cung đình triều Nguyễn. Nhạc và Lễ gắn
bó như hình và bóng, không những chuyển tải một phần nội dung chủ yếu
của cuộc lễ, mà còn tạo ra nhịp điệu cho tiến trình bởi sự phối hợp
nhịp nhàng giữa các thành tố.
Nhạc lễ nói chung, Nhạc chương nói
riêng, với chức thể đặc hữu, đã gắn kết các thành tố cuộc lễ thành một
tổng thể nguyên hợp mang tính sân khấu hóa cao. L. Cadière,
người chứng kiến lễ tế Nam Giao năm 1915 có ghi chép về sự phối hợp
giữa Nhạc chương với các động tác hành lễ của vua và các thượng thư
như sau : “Các đợt cúng bái của vua va các quan cúng tế đều cử cùng
với nhạc xướng : lời xướng đầu, một lạy ; lời xướng thứ hai, đứng dậy
; lời xướng thứ ba, lạy xuống ; lời xướng thứ tư, đứng dậy và tiếp tục
như thế cho đến lời xướng thứ tám cùng với bốn lạy và bốn lần đứng
dậy. Các hướng dẫn lễ nghi đều có ghi trong sách lễ mà tôi được
mượn”... Vì tính chất đặc biệt này, tác giả đã chú thích, nhắc lại
nhiều lần trong bài mô tả của mình, chẳng hạn ở giai đoạn khác của
trình tự cuộc lễ : “Câu hát đầu vua bước đến chỗ tế lễ; câu
hát thứ hai : vua quỳ ; câu hát thứ ba : vua cất thẻ ngọc vào trong áo
; câu hát thứ tư, năm, sáu : vua dâng lễ ngọc và lụa ; câu hát thứ bảy
: vua lấy thẻ ngọc ra và ba câu tiếp : người ta lại đặt các hộp lên
bàn thờ ; câu hát thứ mười một : vua lạy ; câu hát thứ mười hai : vua
đứng dậy”...
Các chi chương tấu trong các
lễ thức cũng không phải tùy tiện, mà do bộ Lễ quy định. Lời ca của các
chương khúc (chi chương) này phải phù hợp với nội dung, ý nghĩa
của mỗi lễ thức, được viết bằng chữ Hán theo thể thơ Đường luật, mỗi
câu gồm 4 chữ .
Trong một cuộc lễ, các thể thức
hành lễ có thể lặp lại nhau, nhưng các chương khúc thì mỗi lễ thức đều
có một lời ca khác nhau và mỗi cuộc lễ có khoảng 6 - 10 bài. Sách
Khâm Định Đại Nam Hội
điển Sử lệ có chép lại
toàn bộ hệ thống Nhạc chương với tổng số là 126 chi chương. Các chi
chương được đánh số và phân thành 3 nhóm nội dung : Nhóm 1 : 79 ; nhóm
2 : 22 ; nhóm 3 : 25. Toàn bộ hệ thống Nhạc chương gồm126 chi chương
đặt trong 10 tổ hợp chương mang 10 chữ sau : Hòa, Thành, Bình,
Phong, Thọ, Huy, Văn, Phúc, Hy, Khánh.
Giao nhạc
được quy định diễn tấu tổ hợp chương có chữ Thành. Tuy vậy, không phải
chỉ gồm 9 chi chương tấu trong tế Giao đã nêu ở trước, mà có
đến 17 chi chương có tên gọi. Nếu kể thêm những chi chương
trùng tên nhưng khác nội dung thì phải lên đến 35 bài.
(Tổ hợp chương mang chữ Hòa trong
Miếu nhạc cũng có tình trạng tương tự : 10 chi
chương = 36 bài.) Chi chương Thụy Thành tấu trong lễ Á
hiến và chi chương Hy Thành tấu trong lễ Tống thần của tế Nam
Giao năm 1915. Tập san Những Người Bạn Cố Đô Huế (B.A.V.H) chép lại
chi chương này, có kèm theo chú thích, dẫn giải như sau :
“Các hình thức
đã làm xong, chúng ta rất vui mừng. Các vị thần lên cao, trăm anh linh
trí tuệ đưa tiễn cung kính !
Các vị thần để
lại cho chúng ta bằng sự bảo vệ uy quyền của các ngài một nền thịnh
vượng vĩnh viễn !”...
“Bài tấu hi
thành chương gồm tám câu. Cách lạy của vua theo nhịp như : câu đầu :
Vua lạy ; câu thứ hai : vua đứng dậy và tiếp như thế.”
Rất tiếc các sử liệu không để lại bản ký âm của Nhạc chương. Theo Gs.
Trần Văn Khê trong
Sơ lược Âm nhạc
Truyền thống Việt Nam
cho biết
G. de Gironeourt
chỉ ghi rằng trong lúc tế Nam giao, người ta nghe lập đi lập lại 3 nốt
mi, sol, la, trên đó bài hát trở đi trở lại
chậm rãi và nhấn mạnh như một đoạn kết bài nghiêm của một cuộc tế lễ
trang trọng.
Theo Nguyễn Đình Sáng trong luận văn Đại học lí luận âm nhạc “
Khảo sát Nhạc Lễ
cung đình Huế”,
(người đã tiếp xúc với ông La Đăng và ký âm lại bài
Mỹ Thành)
thì “âm
nhạc của
ca chương
Mỹ Thành được xây dựng trên một trục cố định theo công thức : Mỗi ca
từ ứng với một ô nhịp và phần luyến âm tùy theo lời ca để có thể điều
chỉnh giai điệu cho phù hợp...toàn bộ ca chương có 16 câu nhạc
(ứng với 16 câu thơ)
nhưng thực ra
đều được phát triển trên 2 câu nhạc chính”
(câu 1, 2).
Trong lễ tế Giao được quy định tổ hợp chương mang chữ Thành, còn ở lễ
tế Miếu lại được quy định tổ hợp chương mang chữ Hòa, lễ tế Xã Tắc là
chữ Phong, tế Văn Miếu là chữ Văn, lễ Đại triều là chữ Bình v.v...mà
cuộc tế lễ nào cũng không dưới 5 chi chương được liên kết trong một tổ
hợp của Nhã nhạc triều Nguyễn : Dàn nhạc - Ca chương - múa Bát dật.
Các
vấn đề về nghệ thuật, tổ chức của thể ca hát này sử liệu hầu như không
đề cập. Tổng hợp các văn bản về việc xin trang cấp y phục chép trong
Khâm Định Đại Nam Hội điển Sử lệ, chúng tôi chỉ biết ngoài nhạc sinh,
vũ sinh, thì ca sinh chuyên thể hiện Nhạc lễ trong triều có khoảng 40
người.
Được biết, năm 1960 chính quyền miền
Nam
cũ có tổ chức tế đàn Nam Giao. Có 2 chi chương trong hệ thống Nhạc
chương mang chữ
Thành
được phục hồi với gần 40 ca sinh diễn xướng. Đến nay, chỉ hơn 40 năm,
nhưng ở Huế, chỉ còn một người trong số ca sinh ngày trước là ông La
Đăng, còn nhớ được giai điệu 1 bài. Đó là chi chương
Mỹ Thành
được hát trong lễ
Sơ hiến
của Tế Giao.
Không
như các loại nhạc cung đình khác, Nhạc chương với chức thể đặc thù :
về nội dung của lời ca ; lời bằng chữ Hán ; không độc lập về thể thức,
và có thể, âm điệu mang tính ngâm ngợi, tế tụng theo kiểu giai điệu
hóa lời thơ...chỉ tồn tại bó hẹp trong một không gian diễn xướng duy
nhất là tế lễ triều đình, và hẹp hơn nữa là cúng tế dòng tộc, tổ tiên
của nhà Vua...Vì thế, khi triều Nguyễn với ý thức hệ Tống Nho cùng với
cơ tầng văn hóa của nó bước vào giai đoạn suy thoái, âm nhạc cung đình
ngày càng mất dần môi trường diễn xướng, một số loại thể phù hợp với
cơ chế dân gian thì được lưu truyền, gìn giữ, còn Nhạc chương - một
thể tài chính thống, bác học 100% cung đình thì sớm tàn lụi.
Th.S Vĩnh Phúc
Trường Đại học
Nghệ thuật Huế
TÀI LIỆU THAM
KHẢO
Khâm
định Đại Nam hội điển sử lệ. Quyển 96-99. Nxb Thuận Hoá, 1996
Những
người bạn Cố đô Huế (BAVH).Tập1-6, Nxb Thuận Hoá, 1998
Lê Quý Đôn. Vân đài loại ngữ. Nxb Văn Hoá-
Thông tin, 1995
Đỗ Bằng Đoàn, Đỗ Trọng Huề. Những Đai lễ và Vũ khúc
của vua chúa Việt Nam. Nxb Hoa Lư. Sài gòn, 1968
Trần Văn Khê. Sơ lược Âm nhạc truyền thống Việt Nam.
ĐH Nghệ thuật Huế 1996 (bản dịch của tác giả).
Nguyễn Mạnh Thát. Lịch sử Âm nhạc Việt Nam .
Nxb Tp HCM, 2001
Nguyễn Đình Sáng. Khảo sát Nhạc lễ cung đình Huế.Luận
văn ĐH, Trường ĐHNT Huế, 1999.