Những
bài cùng tác giả
Vương triều nhà Nguyễn từ khi mới
lập nghiệp ở phương Nam đã sớm biết sử dụng nghệ
thuật âm nhạc để “di dưỡng tinh thần” và để biện
chính cho sự nghiệp bá vương của mình trong thế đối
lập với nhà Trịnh ở Đàng Ngoài. Ngay từ đời chúa
Nguyễn Phúc Nguyên (1613 - 1635) Lộc Khê hầu
Đào Duy Từ đã lập ra Hòa Thanh thự
luyện tập một ban vũ và nhạc để múa hát vào
những ngày khánh lễ. Hòa Thanh thự gồm 3
đội...Đội Nhất và đội Ba trông coi về nhạc, đội Nhì
trông coi về ca và vũ.
Cố nhiên, đây chưa phải là Nhã nhạc, nhưng đã tạo
dựng nền tảng nghệ thuật chuyên nghiệp, làm tiền đề
cho âm nhạc cung đình các vương triều sau.
Sang thế kỷ XIX, dưới các triều
vua nhà Nguyễn, các loại hình nghệ thuật cung đình
mới thực sự phát triển theo mô thức, quy phạm của
Nhà nước Phong kiến. Ngay từ khi Gia Long lên ngôi
(1802) mặc dù còn bận sắp đặt lại chính quyền trong
nước, chỉnh đốn lại sinh hoạt cho nhân dân nhưng
không vì thế mà ít quan tâm đến âm nhạc. Nhiều sử
liệu cho biết vua Gia Long đã cho thành lập hai đội
Tiểu nam và Tiểu hầu chuyên trông coi
về nhạc và luyện tập múa hát trong cung. Năm Gia
Long thứ ba, hai đội này được hợp nhất lại dưới tên
Việt tương đội.
Thời
Minh Mạng càng được phát triển quy mô hơn với Duyệt
Thị Đường, nhà hát đầu tiên ở Việt Nam được xây dựng
trong cung; Thanh Bình Thự, một cơ quan quản lý nghệ
thuật và huấn luyện nghệ nhân ca, múa, nhạc cung
đình được thành lập... Và chính Vua
cũng đã tự tay viết câu đối nổi tiếng về âm nhạc -
sân khấu treo trước Duyệt Thị Đường :
“Âm nhạc tịnh trần, hòa kỳ tâm
dĩ dưỡng kỳ chí
Nghiên xuy tề hiến, thủ kỳ thị
nhi giới kỳ phi”
Có nghĩa là :
“Tiếng
nhạc trong trẻo vang lên, cho tâm hồn được hòa
hợp, ý chí được di dưỡng,
Xấu tốt
cùng trình diễn, cho lẽ phải được giữ gìn, điều trái
được né tránh”
Sử liệu còn cho biết :Vua đặt
ra bản nhạc Ngũ hưởng cho ban nữ nhạc tấu khi tế các
Miếu và tuyển thêm 50 nữ nhạc dưới
quyền hai nữ quan điều khiển, đợi lúc tế dâng rượu
thì muá nhạc,
và chính vua Minh Mạng đã bàn về vấn đề
cắt đặt lễ nhạc.
Đây là giai đoạn cực thịnh của
nghệ thuật cung đình triều Nguyễn. Những nghi thức,
lễ lạc của một nhà nước phong kiến được bộc lộ đầy
đủ nhất, đã chi phối toàn bộ sự phát triển của các
loại hình nghệ thuật cung đình. Các tổ chức âm nhạc
trong cung từ thời các chúa Nguyễn, đều được các đời
chúa đời vua nhà Nguyễn sau này duy trì, kế thừa và
phát triển này càng quy mô, hoàn chỉnh hơn. Chẳng
hạn về sau, vua Thành Thái đổi thành Võ can đội,
nhân viên có 120 người và 20 đồng ấu. Đến đời Khải
Định tuyển thêm 30 đồng ấu nữa vào Võ can đội...

Các nhạc công đồng ấu trong
biên chế dàn Tiểu nhạc- khoảng
năm 1920. Sưu tập ảnh của Phan
Thuận An.
Nhạc lễ (cung đình) là một loại thể của
Âm nhạc cung đình, bao gồm toàn bộ loại nhạc nghi
thức và tế lễ của triều đình. Trong quá
khứ, theo một số tư liệu rất ít ỏi còn lại, có lúc,
đã được các sử gia phong kiến gọi chung là Nhã nhạc.
Tên gọi này rất biểu trưng. Chúng tôi
cũng muốn căn cứ vào một vài chứng liệu lịch sử để
gọi phần lớn các loại nhạc nghi thức và tế
lễ cung đình là Nhã nhạc. Tuy vậy, sử liệu âm
nhạc Việt Nam, dù rất hiếm hoi, nhưng cũng rất không
nhất quán. Nhã nhạc, có thời là toàn bộ âm nhạc cung
đình chính thống; là để phân biệt với tục nhạc;
là bao gồm cả múa văn - võ; có thời, chỉ là nhân
thanh. Có khi đồng nhất với Nhạc lễ, laị
có khi chỉ là một bộ phận của Nhạc lễ; là tổ chức,
biên chế của một dàn nhạc, mà biên chế đó cũng không
hề nhất quán. Dưới triều Nguyễn, có lúc, Nhã nhạc
như tương đồng, hoặc thay thế vai trò của dàn
Tiểu nhạc, phân biệt rạch ròi với các loại dàn
nhạc khác như Đại nhạc, Nhạc huyền... Nhưng
gần đây và cả hiện nay, theo Gs Trần Văn Khê, cũng
như một số nhà nghiên cứu, nghệ nhân khác (kể cả
trong chương trình giảng dạy Nhã nhạc của trường Đại
học Nghệ thuật Huế hiện tại), Nhã nhạc còn tồn tại ở
cả hai loại: Tiểu nhạc và Đại nhạc v.v...
Do đặc điểm lịch sử các triều đại phong kiến Việt
Nam, nên quá trình phát triển của âm nhạc cung đình
nói chung, Nhã nhạc Việt Nam nói riêng khá phức tạp.
Nhưng khó khăn lớn nhất, như ý kiến của Gs Tô Ngọc
Thanh : “do thiếu tư liệu nên không thể nhìn sâu vào
quá khứ hơn những gì đã tồn tại trong hơn một trăm
năm của triều Nguyễn, đặc biệt là về âm nhạc”...,
nhưng sau khi so sánh, đối chiếu giữa các nước có
Nhã nhạc như Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên và Việt
Nam, Gs đã có nhận xét : “Nhã nhạc được
hiểu như toàn bộ âm nhạc cung đình chính thống
của các triều đại phong kiến của cả bốn nước...Chức
năng chung của Nhã nhạc là loại nhạc lễ và nghi thức
(ritual and ceremonial music) của cung đình.
Chúng tôi cũng gặp trong Tự điển
Hán Việt của Đào Duy Anh giải thích Nhã nhạc là
âm nhạc chính đáng; Khâm Định Đại Nam Hội
điển Sử lệ gọi Nhã nhạc là chính nhạc, người xưa
dùng để tế Giao; Lê Quý Đôn chú thích chữ
Nhã
có nghĩa là chính đính, những bài hát ở chốn triều
đình
...
Chúng ta đều biết, Nhạc lễ cung
đình của Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên đều bắt
nguồn từ Trung Hoa, mà trong tên gọi cũng còn có sự
liên quan ít nhiều : YaYueh (Trung Hoa),
Nhã nhạc (Việt Nam), Ahak (Triều Tiên),
Gagaku (Nhật Bản). Tuy vậy, mỗi nước đã tiếp
thu ở Trung Hoa vào những thời kỳ khác nhau.
Nhật Bản tiếp thu từ Nhã nhạc
nhà Đường ở Trung Hoa vào thế kỷ thứ VII, có sự kết
hợp với âm nhạc của ba nước Triều Tiên cổ (Tam Hàn)
cùng với âm nhạc Phật giáo Ấn Độ, đã dần dần Nhật
Bản hoá và trở thành Nhã nhạc Nhật Bản, bao gồm
trong 5 loại sau :
1. Hoà nhạc (nhạc Nhật bản
chính thống, không pha tạp)
2. Đường nhạc (tiếp thu từ
nhạc cung đình nhà Đường TQ)
3. Kỹ nhạc (tiếp thu từ
TQ, kết hợp âm nhạc, múa và sân khấu)
4. Cao ly nhạc (tiếp thu
từ Triều Tiên cổ)
5. Lâm ấp nhạc (có nguồn
gốc từ Âm nhạc Phật giáo Ấn Độ).
***
Đối với Triều Tiên, khoảng thế kỷ
thứ V đã có sự tiếp xúc, tiếp thu âm nhạc Trung
Hoa...nhưng đến thế kỷ X trở đi, Nhã nhạc mới chính
thức có mặt trong ba hệ thống âm nhạc chính thống
của Triều Tiên như : Hương nhạc (âm nhạc
truyền thống vốn có), Đường nhạc (tiếp thu âm
nhạc nhà Đường Trung Hoa), Nhã nhạc (tiếp
thu âm nhạc nhà Đường Trung Hoa).
Ở Việt Nam, sử liệu cho biết tên
gọi Nhã nhạc được du nhập vào dưới thời nhà Hồ. Theo
Đại Việt sử ký toàn thư, năm Thiệu Thành thứ 2,
(1402) có sự kiện Hồ Hán Thương tổ chức lễ Tế giao
không thành. Nhà vua đã “ Đặt
nhã nhạc, lấy con quan văn làm kinh vĩ lang, lấy con
quan võ làm chỉnh đốn lang, tập điệu múa văn, võ”.
Sử gia Ngô Thì Sĩ
(1726 - 1780) đã bàn : “Từ thời Trần trở về
trước, lễ giao tế trời không thể cử hành được, có lẽ
là lễ nhạc chế độ còn thiếu thốn nhiều đấy”...
Tuy nhiên, trong quyển An Nam chí lược của Lê Tắc,
có cho chúng ta biết trong cung đình nhà Trần (1225
- 1400) đã có hai dàn nhạc : Đại nhạc và
Tiểu nhạc. Đại nhạc gồm 5 nhạc cụ, trong đó có 2
nhạc cụ hơi thổi, 3 nhạc cụ gõ; Tiểu nhạc gồm 5 nhạc
cụ dây và 3 nhạc cụ hơi thổi. Đại nhạc chỉ sử dụng
trong cung đình, chỉ có vua, những người trong hoàng
tộc và các quan đại thần mới được dùng trong các đại
lễ của triều đình; Tiểu nhạc thì người giàu kẻ nghèo
đều có quyền dùng .
Như vậy, âm nhạc trong cung thời
Trần đã có thể chế, cơ cấu nhất định của nhạc lễ
cung đình. Hai dàn Đại nhạc, Tiểu nhạc chắc hẵn là
bóng dáng của hình thức Tọa tấu (ngồi đánh
nhạc trên đường) và Lập tấu (đứng tế nhạc
dưới đường) của thể chế Nhã nhạc Trung Hoa mà về
sau, dưới thời Lê Thái Tông (1434 - 1442) Lương
Đăng đã phỏng theo nhạc lễ nhà Minh ở Trung Hoa mà
đặt ra hai dàn nhạc là Đường thượng chi nhạc
và Đường hạ chi nhạc ?
Vài dòng sử liệu sau đây cho thấy
sinh hoạt âm nhạc thời nhà Trần, tuy còn mang nhiều
yếu tố chất phác của dân gian, như đội mo nang
cầm dùi làm tửu lệnh; vua cũng nhảy múa kiểu
người Hồ... song không hẳn là không mang những
nghi thức, nghi lễ cung đình, dáng dấp của thể chế
nhạc trên đường và nhạc dưới đường : “khi
yến hội ở điện Tập Hiền, trai tài gái sắc mỗi bên
mười người đều ngồi dưới đất...mỗi lần có tiệc lớn,
trên điện có nhạc nổi lên, nhạc khí và người ở dưới
giải vũ, đều không thể thấy. Mỗi lần chuốc rượu thì
lại hô lớn, nhạc cử lên, ở dưới lại giơ theo”...Sử
gia còn ghi lại tên của bốn khúc nhạc đó là :
1. Giáng hoàng long
2. Nhập hoàng đô
3. Án giao trì
4. Nhất thanh phong
Chúng ta còn được biết thêm, bốn
khúc nhạc này “ âm điệu
đều gần với cổ, nhưng lại êm ái. Nhà Trần cho như
thế là văn minh. Khúc ca nhạc đó truyền đi, điệu nào
điệu ấy đều có thể chế chứ chẳng phải từ nước Nguyên
đem lại”...
(Trong sách Lịch sử Âm
nhạc dân gian cổ truyền Việt Nam. Viện Nghiên cứu Âm
nhạc, 1996, Nhạc sĩ Nguyễn Viêm có chép là : Giáng
châu long, Yến dao trì, khác với ĐVSKTB là Giáng
hoàng long và Án giao trì).
Trong An Nam chí lược, Lê Tắc có
kể tên năm bài hát sau :
1. Nam Thiên nhạc
2. Ngọc lâu xuân
3. Đạp thanh du
4. Mộng du tiên
5. Canh lậu trường
Chúng tôi lại thấy trong Đại Việt
Sử Ký Tiền Biên của Ngô Thì Sĩ có ghi tên 3 bài hát
khác, trong một đoạn sử sau đây : “Xét chế độ
nhạc vũ nhà Trần xướng xuất là vài chục người
con trai đều cởi trần đóng khố, lượn vòng rồi hát,
lúc đi một người giơ tay thì hơn chục người cùng giơ
tay, buông tay cũng như vậy. Hát có :
Trang Chu mộng điệp,
Bạch Nhạc thiên mẫu biệt tử,
Vi
Sinh Ngọc Túc,
than thở thời thế
thật đau thương”.
Không rõ 3
bài hát này có liên quan với hệ thống 5 bài mà An
nam chí lược đã nêu không ? Nếu có, thì rõ ràng
những bài hát chỉ có tên mà không có nhạc
điệu còn lại dưới thời nhà Trần là 8 bài. Cùng
với 4 khúc nhạc đã nêu ở trên, chúng ta đã có một
nhạc mục 12 bài, gồm cả bài ca và điệu nhạc.
Một đoạn sử liệu khác cho chúng ta biết
có một loại nhạc lễ trong cung đình gọi là nhạc
thái thường. Tên gọi này chỉ thấy tác giả Vũ
trung tùy bút đề cập đến mãi dưới thời nhà Lê,
nhưng là để gọi một chức quan trông coi về Nhã nhạc
: quan Thái thường, còn ở thời Trần là một
thể loại nhạc lễ. Sử chép đoạn Đỗ Thiên Hư đang ốm
nặng nhưng vẫn cố xin theo hầu vua đi đánh giặc :...
“ Thần thà chết ở ngoài
cửa đình chứ không chịu chết nơi giường đệm. Thượng
hoàng khen ngợi ý chí bèn cho theo. Vào đến đất của
giặc thì mất. Thượng hoàng than thở thương tiếc ban
sắc cho dùng nhạc thái thường để cúng tế (khi đó
dùng nhạc thái thường) trong việc cúng tế chỉ có
quan hành khiển được dùng, còn quan thẩm hình chỉ
dùng lễ tế chay nội. Thiên Hư được dùng nhạc thái
thường có lẽ là ân đặc biệt đấy. Sau Nguyễn Dũ mất
cũng cho như vậy.”
Mặc dù không có tư liệu vang, hoặc các
ký hiệu về âm thanh, cũng như lời của các bài hát,
nhưng ít ra, cũng cho ta thấy một cách khái quát về
âm nhạc trong cung đình thơi Trần. Đó là có sự định
đặt về thể chế, tổ chức dàn nhạc và sự phân định rõ
ràng hai thể loại Ca (nhạc có lời) và Nhạc (nhạc
không lời).
Xa hơn nữa, thời kỳ nhà Lý, sử sách đã cho
biết sự am hiểu và yêu thích âm nhạc của các
ông vua, thể hiện trong việc định đặt số hậu phi và
cung nữ dưới triều Lý Thái Tông (1028-1054): “ hậu
và phi 13 người, ngự nữ 18 người, nhạc kỹ 100
người.”
Đời vua Lý Thần Tông
có đội ca múa Thượng
lâm đệ tử.
Đặc biệt là sự say mê
nhạc Champa của các vua Lý, như việc đặt ra khúc
nhạc gọi là Chiêm Thành âm; việc bắt kỹ nữ Chiêm
về ca múa khúc Tây Thiên v.v...
Gs Trần Văn Khê từ năm 1940 cũng
đã phát hiện một dàn nhạc có 10 nhạc công với 9 nhạc
cụ được chạm khắc trên bệ đá của chân cột chùa Vạn
Phúc tỉnh Bắc Ninh, mà về sau ông xác định “có thể
là dàn nhạc cung đình triều đại Lý”...Vấn đề này,
sách Lịch sử Âm nhạc Việt Nam của Lê
Mạnh Thát
căn cứ vào các sử liệu Trung Hoa và sử liệu Phật
giáo cho rằng 9 nhạc cụ trên có thể xuất hiện trước
thế kỷ thứ V. Tác giả còn đưa ra lý do rất thuyết
phục về sự có mặt của chỉ 9 nhạc cụ ở chùa Vạn Phúc,
trong khi vào thế kỷ V ở Việt Nam đã có nhạc cụ
đồ kim và đồ đá, mà tiêu biểu là trống
đồng được ghi lại trong Hậu Hán thư và
khánh đá ghi ở Ngô chí cũng như Giao
Châu ký. Có thể nói thêm, bằng những nguồn sử
liệu quý báu, tác giả đã nhận định khác Gs. Trần Văn
Khê về lịch sử Âm nhạc Việt Nam từ giai đoạn khởi
nguyên đến thế kỷ thứ IX : “...giai đoạn từ
khởi nguyên đến thế kỷ thứ IX, ông (TVK)
cho rằng không có một tư liệu nào. Bây giờ cứ
những trình bày trên của chúng tôi, ta không thể lặp
lại kết luận ấy, bởi vì ta có khá nhiều “mẫu tin về
âm nhạc” không những trên bệ đá chùa Vạn Phúc, mà
còn trong những lá thư của Đạo Cao và những ghi chú
của những người khác. Chúng ta biết sự có mặt
của ca hát, ngâm vịnh, đọc tụng và tấu nhạc (nhạc
bối) cũng như của những nhạc cụ đồ ống, đồ dây, đồ
kim và đồ đá vào thế kỷ thứ 5 tại nước ta”.

Tuy nhiên, trên phương diện thể
chế của Lễ nhạc, Gs. Tô Ngọc Thanh nhận xét : “Nhã
nhạc với tư cách một điển chế thì phải đợi đến thời
đại nhà Lê (1427-1788) mới hoàn thiện.”
Đó là sự kiện vua Lê Thái Tông, vào năm 1437 giao
cho Nguyễn Trãi và Lương Đăng chế tạo nhạc cụ dùng
trong Triều đình, nhưng sau đó Nguyễn Trãi dâng sớ
tâu vua rằng : “Mấy lúc sau này, hạ thần và Lương
Đăng có xem xét lại và quy định Nhã nhạc, nhưng ý
kiến của thần và Lương Đăng về âm nhạc bất đồng.
Thần xin được phép giao lại nhiệm vụ mà bệ hạ đã
giao phó cho thần...” Vì thế, Nhã nhạc nhà Lê đều do
một tay hoạn quan Lương Đăng phỏng theo quy chế nhạc
triều nhà Minh để định đặt, mà hai dàn nhạc tiêu
biểu là Đường thượng chi nhạc và Đường hạ
chi nhạc, 8 loại nhạc và 8 loại thanh âm...
Sự kiện thứ hai dưới thời Lê, theo Phạm Đình Hổ thì
khoảng năm Hồng Đức (1470) có các quan đại thần
như là ông Thân Nhân Trung, Đỗ Nhuận, Lương Thế Vinh
là bậc học vấn bác hợp...mới kê cứu âm nhạc nước
Tàu, hiệp vào quốc âm ta, đặt ra hai bộ : Đồng văn
và Nhã nhạc. Theo Phạm Đình Hổ thì
bộ Đồng văn thời chuyên tập âm luật; bộ Nhã nhạc
thời chuyên chuộng nhân thanh...nhã nhạc với tục
nhạc không có hổn tạp với nhau...
Tác giả không bàn gì thêm về âm luật và
nhân thanh của hai bộ này. Chỉ biết rằng,
Đến năm Quang Hưng (1578)...bộ Đồng văn và Nhã nhạc,
khi nào có lễ tế giao hay lễ triều hạ gì lớn mới
dùng đến, cho nên các con cháu nhà nghề âm nhạc đều
thất nghiệp cả... Theo tác giả, đến thời kỳ này,
có nghĩa là trên 100 năm sau, nhạc lễ thời Hồng Đức
đã thất truyền đi nhiều, đến nỗi mà tấu nhạc ở
chốn triều miếu, thời chỉ là om xòm loạn bậy, không
còn thành ra xoang điệu gì.
[22]
Đồng văn Nhã nhạc đi đến chổ suy đồi, dàn nhạc Giáo
phường (tục nhạc, đã phục hưng sau hơn 100 năm bị
bài xích) thay thế cho Đồng văn và Nhã nhạc, trong
cả những tế lễ trọng đại của triều đình như lễ Tế
giao, Tế miếu và lễ triều hạ. Gs Trần Văn Khê cho
biết, trong Lê triều hội điển, Đồng văn và Nhã nhạc
luôn luôn được nhắc chung với nhau như là một dàn
nhạc vừa có ca sinh...
Từ thời Lê mạt, khi uy thế
của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong đã vững mạnh, họ
Nguyễn chính thức thành lập một vương quốc riêng,
đối lập với Đàng Ngoài, tách khỏi vua Lê chúa Trịnh.
Thời kỳ các chúa Nguyễn, âm nhạc trong dinh, phủ đã
được quan tâm, nhưng cố nhiên không phải là Nhạc Lễ
theo đúng nghĩa Nhã nhạc. Có thể, ngoài chức năng
giải trí còn được sử dụng trong một số nghi thức,
nghi lễ ngoại giao đơn thuần. Nhưng chí ít, cũng
phải đến thời chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên nghe theo
kế của Đào Duy Từ trả lại sắc phong của vua Lê để
chính thức lập ra nhà Chúa Nguyễn năm 1630, bắt đầu
sự nghiệp bá vương cho dòng họ này.
***
Đầu thế kỷ XIX, Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế, Huế
trở thành kinh đô của nước Việt Nam thống nhất, các
triều vua Nguyễn mới đầy đủ tư cách để đặt nhạc lễ
chính thức của triều đình. Dưới thời Gia Long (1802
- 1820) sử liệu không cho biết gì nhiều ngoài 2 đội
Tiểu nam, Tiểu hầu chuyên trông coi về nhạc
và luyện tập múa hát, sau đó hợp nhất lại
thành Việt tương đội vào năm Gia Long thứ 3 (1804).
Còn Nhạc lễ thì mới thấy dưới thời Minh Mạng (1820 -
1840) khi giang sơn xã tắc đã tương đối ổn định thì
việc lễ nghi trong triều đình mới được định đặt lại
theo thể thức, quy chế chính thống của một nhà nước
phong kiến.
Trong khi các đời chúa Nguyễn có
tư tưởng Phật giáo hóa đất nước, ( như muốn
làm ngược trái với Lê - Trịnh ở Đàng Ngoài đang ra
sức Tống Nho hóa ), thì từ thời Gia Long về sau, các
vua Nguyễn lại sử dụng Nho giáo, triệt để Nho hóa
để củng cố địa vị thống trị của dòng họ. Có thể nói,
vua Gia Long và các triều vua sau Gia Long đã đẩy
quá trình Tống Nho hóa lên tột đỉnh. Quá
trình này bắt đầu từ thời Lý, phát triển mạnh mẽ vào
thời Lê, đến vương triều Nguyễn thì hoàn tất.
Xuất phát từ kinh điển và đạo lý
Tống Nho, do vậy, thiết chế văn hóa của nhà Nguyễn,
chỉ riêng trong lĩnh vực giáo dục (thi cử, chữ
viết...), và nghệ thuật ( âm nhạc, mỹ thuật, văn
học...), không thể không bị ràng buộc bởi tư tưởng
triết học Trung Hoa cổ.
Trong lĩnh vực âm nhạc, chi phối
bởi quan điểm mỹ học giáo điều cổ đại Trung Hoa : Lễ
là cái trật tự, Nhạc là cái điều hòa; Âm nhạc liên
thông với chính sự; nghe nhạc có thể biết được sự
thịnh suy của một nước (Thẩm nhạc dĩ tri chính)..Vì
vậy, các triều đại phong kiến Việt Nam nói chung và
triều Nguyễn nói riêng, đã phải rất coi trọng nhạc
lễ cung đình, vì nó là bộ mặt quốc gia, đại diện cho
cả một vương triều.
Trong suốt thời kỳ triều Nguyễn
trị vì (1802 - 1954), có thể nói, nhạc lễ cung đình
đã được phục hưng và phát triển rực rỡ chưa từng
thấy trong lịch sử âm nhạc cung đình của các triều
đại phong kiến Việt Nam. Mặc dù chỉ là sự tiếp nối,
kế thừa âm nhạc cung đình triều Lê, nhưng triều
Nguyễn đã hoàn thiện và phát sinh, phát triển thêm
nhiều loại thể mới, thể hiện ở sự phong phú của các
loại dàn nhạc và bài bản.
Sử liệu cho biết, vua Minh Mạng
bàn với Phan Huy Thực, quan Hữu Tham tri bộ Lễ về
việc Nhạc lễ : “Trẫm thấy là buổi đầu gây
dựng, lễ nhạc còn thiếu, thường muốn sáng chế mà
chưa nắm được cốt yếu...Nay tuy nhạc xưa đã
bỏ mất, mà các đồ bát âm còn có thể khảo được. Nên
tìm người hiểu âm nhạc, cùng bọn các ngươi chế tác”.
Qua đấy, chúng ta thấy nhạc
xưa thì đã bỏ mất, còn các đồ bát âm,
tức là các nhạc cụ trong dàn nhạc lễ cung đình
của các triều đại trước, thì cũng chỉ có thể khảo
được mà thôi. Thế nhưng, tác giả Đỗ Bằng Đoàn và
Đỗ Trọng Huề lại cho biết : Năm Gia Long thứ 15
(1816), trong lễ tấn phong Đông cung Thái tử cho
Hoàng tử Đảm, là vua Minh Mạng sau này, đã có nhã
nhạc giàn bầy hai bên tả hữu thềm.
Như vậy, có gì mâu thuẩn với sử liệu nêu trên không
?
Chúng ta đã biết, từ năm Gia Long
nguyên niên (1802), trong cung đã có 2 đội Tiểu nam,
Tiểu hầu chuyên trách về nhạc và múa hát cung đình,
với một biên chế gồm 2 Chánh ca trưởng, 6 Phó ca
trưởng và 184 người lính.
Tổ chức âm nhạc này không thể không kế thừa truyền
thống nghệ thuật diễn xướng cung đình, đã có nền
móng ít ra cũng trên 170 năm, kể từ thời chúa Nguyễn
Phúc Nguyên với tổ chức Hòa Thanh thự. Chưa kể, cơ
chế của đội Tiểu nam, Tiểu hầu này, có thể là vóc
dáng quy chế Nhạc triều của 2 bô Đồng văn và Nhã
nhạc triều Lê...Vậy thì, các tác giả Những đại lễ và
vũ khúc của vua chúa Việt Nam nói là đã có nhã
nhạc giàn bầy hai bên tả hữu thềm trong lễ tấn
phong Đông cung Thái tử vào năm Gia Long thứ 15,
tưởng cũng không có gì là vô căn cứ, nếu hiểu theo
nghĩa Nhã nhạc - dàn nhạc. Còn Nhã nhạc -
nhạc lễ, thì thật là mới được định lại dưới thời
Minh Mạng như đoạn sử liệu đã nêu trên.
Đến đây, chúng tôi muốn chia sẻ ý
kiến : Có một tên gọi Nhã nhạc để chỉ phần lớn
các loại nhạc nghi thức, tế lễ cung đình. Nhưng
cũng vì thế, mà không có nghĩa toàn bộ nhạc lễ
cung đình đều là Nhã nhạc.
Một nhà nghiên cứu âm nhạc cung đình người Triều
Tiên (Kim Young-bong) có nêu ra ý kiến tương tự tại
một cuộc hội thảo về Nhã nhạc ở Huế hồi tháng 4
năm1997. Chị cho rằng, nghĩa rộng của Nhã nhạc,
Gagaku, AhAk (tên gọi thể loại này của 3 nước Việt
Nam, Nhật Bản, Triều Tiên) là bao hàm tất cả âm nhạc
trong cung đình; còn nghĩa hẹp hơn, Nhã nhạc bao gồm
chỉ một số loại nhạc chính thức, gắn với nghi
lễ, mà chúng được quyết định bởi cơ cấu, tính chất
của dàn nhạc và nhạc cụ.
Chẳng hạn trong Ga Gaku (Nhã nhạc Nhật Bản), chủ
yếu là nhạc do 2 dàn nhạc trong cung đình là Kangen
(gồm 8 loại nhạc cụ với 16 nhạc công diễn tấu) và
Bugaku với 18 nhạc công với cơ cấu tổ chức thành 2
loại : Togaku (Đường nhạc), Bokkaigaku (Cao ly nhạc)
cùng với múa...
Trong Ahak (Nhã nhạc Triều Tiên) và Nhã nhạc Việt Nam, Kim
Young Bong chỉ nêu ra những loại thể chủ yếu mang tính tương đồng cao trong
Nhã nhạc của hai nước như : Triều Tiên, có
Bát âm, múa có Bát dật và 2 dàn Tung
ga, Hon ga; Việt Nam cũng có Bát âm, Bát dật, và 2 dàn Đại
nhạc, Tiểu nhạc...
Vấn đề này, Gs. Tô Ngọc Thanh cũng đã bàn đến trong công
trình Tư liệu Âm nhạc Cung đình Việt Nam, khi đề cập đến tính tương đồng
và dị biệt trong Nhã nhạc Việt Nam, Trung Hoa, Nhật Bản và Triều
Tiên. Theo ông, để phục vụ cho đời sống trong cung đình, còn có một số
loại nhạc như Yến nhạc, Nữ nhạc ở Việt Nam; nhạc giải trí như Togaku,
Komagaku, các bài hát Imayo ở Nhật Bản v.v... Những loại nhạc này cũng là
nhạc cung đình, nhưng không được gọi là Nhã nhạc...
Đặc biệt, Giáo sư đã nêu lên những quy định có
tính điển chế, chuẩn mực mà Nhã nhạc được thể chế hoá để thực hiện chức năng
cơ bản là lễ nhạc và nghi thức.
Một trong những chuẩn mực điển hình là “ việc trình diễn Nhã nhạc
được giao cho hai loại dàn nhạc có biên chế và cơ cấu nhạc cụ khác
nhau như Đường thượng chi nhạc và Đường hạ chi nhạc ở
Trung Hoa và Việt Nam;
Tungga và Hon’ga ở Triều Tiên”. Dàn nhạc
với biên chế nhỏ, nhạc cụ chủ yếu là dây, hơi
ngồi tấu ở trên thềm của cung điện; dàn nhạc
biên chế lớn gồm đủ các chủng loại nhạc cụ có âm lượng lớn như tất
lật, biên chung, biên khánh và đại cổ thì đứng
tấu ở dưới thềm. Ở Việt Nam, bộ sử xưa nhất An nam
chí lược đã có ghi lại vấn đề này ngay từ đới
Trần qua một ghi chép cuộc đi sứ của Trương Lập Đạo
sang An Nam năm 1291: “Đại nhạc tấu vu điện hạ, tế nhạc tấu vu điện
thượng”,
và chắc là cả Nhã nhạc - Đại nhạc - Nhạc
Huyền đời Nguyễn, và kể cả Đại nhạc - Tiểu
nhạc cuối thời Nguyễn.
Một chuẩn mực khác, theo Gs. Tô Ngọc Thanh, trong
các nghi lễ và lễ thức cung đình đều có múa
theo những quy định
nghiêm ngặt, được gọi là múa Văn, múa Võ ở Trung
Hoa, múa Kinh vĩ lang và Chỉnh đốn lang ở Việt Nam,
Munmu và Mumu ở Triều Tiên, và có lẽ
hai loại múa “Bên Phải” và “Bên Trái” của
Nhật Bản cũng có ý nghĩa tương tự...
Chúng ta biết rằng, Nhã nhạc của các nước đều tiếp
thu từ Trung Hoa. Những cặp từ ngữ bổ sung hoặc đối
lập thường sử dụng trong âm nhạc, nhất là âm nhạc
cung đình các nước Á châu, đều bắt nguồn từ khái
niệm Âm - Dương trong nhạc Trung Hoa.
Văn - Võ hay Bắc - Nam, Trống - Mái, Tả -
Hữu, Thượng - Hạ...đều mang ý nghĩa là
những cặp đối lập. Vì thế, Kinh vĩ lang và
Chỉnh đốn lang trong âm nhạc cung đình Việt Nam
thời nhà Hồ cũng chỉ là một hình thức của múa Văn -
Võ.
Theo Gs.Trần Văn Khê, trong nhạc cung đình ở Việt
Nam, Trung Quốc và Triều Tiên ngày xưa đều có hai
điệu múa : văn vũ
(wen ou)gồm 64 vũ sinh đứng làm 8 hàng 8
người, tay mặt cầm lông trỉ, tay trái cầm ống thược,
loại sáo 3 lổ, và võ vũ (wu ou) gồm có
64 vũ sinh, tay mặt cầm búa, tay trái đeo khiên.
Trong điệu múa bugaku (vũ nhạc) có
điệu văn trong đó vũ sinh mặc áo tay rộng, và
điệu võ
trong đó vũ sinh mặc áo tay hẹp.
Dưới triều Nguyễn, điệu múa này được gọi
Bát Dật (8 hàng), được chỉnh đốn lại năm Minh Mệnh
nguyên niên (1820) để múa trong các cuộc tế lễ lớn
như Tế giao, Tế miếu v.v...
Ở Nhật Bản, điệu múa Bên Phải - Bên Trái gọi là
Bugaku được chia làm 2 bộ phận, nhưng không sử dụng
cặp từ ngữ Văn-Võ, Thượng-Hạ, mà là Tả (Shaho) và
Hữu (Uho) như : Tả phương Đường nhạc và Hữu phương
Cao Ly nhạc.
Cũng theo Gs. Trần Văn Khê : nhạc bên trái
là những bản nhạc có gốc Trung quốc hay là Ấn Độ và
gọi chúng là Togaku (Đường nhạc hay nhạc đời
Đường) ; nhạc bên mặt là nhạc gốc Triều Tiên
và cũng gọi là Komagaku (Cao Ly nhạc).
Như đã đề cập, ở Việt Nam chúng ta, triều Nguyễn đã
ra sức củng cố địa vị của Nho giáo trong đời sống tư
tưởng văn hóa. Vì thế, hệ tư tưởng của nó là nền
tảng cho mọi thiết chế nhà nước phong kiến, và đó
cũng chính là môi trường kích hoạt sự phát triển của
Nhạc lễ, cũng như Âm nhạc cung đình nói chung.
Nhạc lễ cung đình thời kỳ này đã
phát triển rất đa dạng với các hệ thống dàn nhạc,
loại nhạc nhằm đáp ứng việc phục vụ cho các nghi
thức, tế lễ phong phú nhưng cũng rất mực cầu kỳ của
triều đình. Có thể, vì thế mà tên gọi Nhã nhạc
không còn dùng để chỉ chung cho các loại nhạc lễ
cung đình như các triều đại trước. Khái niệm Nhã
nhạc đã trở nên quá chật hẹp để có thể chứa đựng tất
cả các loại hình nghệ thuật trong cung đình thời kỳ
này, nhất là dưới thời Minh Mạng, Tự Đức.
Chúng ta biết, nhạc lễ triều
Nguyễn không chỉ là Đại nhạc - Tiểu nhạc như
thời đại nhà Trần, cũng không chỉ như Đường
thượng chi nhạc - Đường hạ chi nhạc và
Đồng văn - Nhã nhạc các triều đại nhà Lê...mà là
cả một hệ thống dàn nhạc, loại nhạc nghi lễ trong
cấu trúc tổng thể Âm nhạc cung đình. Vì vậy, Nhã
nhạc thường chỉ để gọi một bộ phận của hệ thống các
loại dàn nhạc lễ có mặt trong cung đình thời kỳ này,
như : Đại nhạc, Tiểu nhạc, Nhã nhạc, Nhạc
Huyền, Tế nhạc, Ty chung, Ty khánh v.v...
Những loại dàn nhạc này có sự quy định chức năng, vị
trí trong trình thức diễn tấu ở mỗi cuộc lễ, mỗi bàn
bản khác nhau... Cùng với hệ thống dàn nhạc, là hệ
thống các loại nhạc mang tính thể loại đặc thù được
phân định theo tính chất của nghi thức và tế lễ
triều đình, mà ở đó, là nơi tập hợp đầy đủ các loại
hình nghệ thuật trình diễn mang tính sân khấu hóa,
bao gồm các ca chương, các vũ điệu và dàn nhạc luân
phiên trình tấu và diễn xướng cũng theo trình thức
mà mỗi nghi lễ cụ thể quy định...
Tuy nhiên, khi so sánh, đối chiếu
biên chế các loại dàn nhạc của các thời đại, qua một
số tư liệu lịch sử và các khảo cứu về Âm nhạc cung
đình Việt Nam đã công bố, chúng tôi nhận thấy : Cho
dù Nhạc lễ cung đình triều Nguyễn phát triển phong
phú và đa dạng, hoàn chỉnh và quy mô hơn với các
hình thức tổ chức dàn nhạc, bài bản v.v...Nhưng nhìn
chung, cốt lõi của chúng (toàn bộ phần nhạc Lễ :
dàn nhạc(Đại nhạc, Tiểu nhạc, Huyền nhạc) - Ca
chương - múa Bát dật) vẫn là thể chế của Nhã
nhạc ( tiếp thu từ Trung Hoa ) đã có tự thời Trần,
Lê. Thể chế đó, như đã trình bày ở trên, được biểu
hiện bằng những chuẩn mực chung, mà giữa các nước có
Nhã nhạc đều có sự tương đồng...
Từ đầu triều Nguyễn, Khổng giáo
là nguồn nuôi dưỡng trí tuệ và quy phạm đạo đức cho
xã hội... “ Nhưng từ nửa sau thế kỷ XIX, trước cuộc
đụng độ đột ngột giữa Việt Nam và Pháp, Khổng giáo
đã không còn giữ được chức năng tinh thần trước kia
của nó. Sự giảm thiểu hiệu năng tinh thần của Khổng
giáo là nguyên nhân trực tiếp đưa đến sự khủng hoảng
tư tưởng ở Việt Nam.”
Vì vậy, văn hóa cung đình, trong đó có Âm nhạc cung
đình lâm vào tình trạng suy thoái. Các nghi thức tế
lễ được giản lược, Nhạc lễ cùng chung số phận, mà
đến giai đoạn cuối triều Nguyễn thì các dàn nhạc và
bài bản chỉ còn lại rất ít. Việc sử dụng âm nhạc
trong các dịp lễ lượt cũng rất tùy tiện, không phân
định rạch ròi như xưa. Nhạc cung đình lan tỏa vào
dân gian qua các nhạc công cung đình, nhưng dân gian
cũng chỉ tiếp nhận và lưu giữ một số ít những bài
bản, nhạc cụ phù hợp với cơ chế sinh hoạt dân gian.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
An
Nam Chí lược.
Quyển thủ.Nxb Viện Đại học Huế, 1961
Đại Việt sử ký toàn
thư. Tập 1,2,3, Nxb
Văn Hoá - Thông tin, 2000
Đại Việt sử ký tiền
biên. Nxb Khoa Học Xã Hội - Viện Hán Nôm, 1997
Khâm định Đại Nam hội
điển sử lệ. Quyển
96-99. Nxb Thuận Hoá, 1996
Những người bạn Cố
đô Huế (BAVH).Tập1-6, Nxb Thuận Hoá, 1998
Triều Nguyễn, những vấn đê
lịch sử, tư tưởng và Văn hóa.
Thông báo Khoa học số 1,2, Chương trình nghiên
cứu Triều Nguyễn. Trường ĐHSP Huế.
Huế court music.
Kỷ yếu hội thảo quốc tế về Nhã nhạc triều Nguyễn.
Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô Huế, 2004
Trần Trọng Kim. Việt
Nam sử lược . Nxb Văn Hoá- Thông tin, 1999
Nguyễn Sĩ Giác. Đại
Nam điển lệ toát yếu. Nxb Tp Hồ Chí Minh, 1993
Lê Văn Siêu. Việt
Nam Văn minh sử. Tập thượng. Nxb Lao Động, 2003
E. Le Bris.
Musique Annamite airs traditionnels. Extrai du
BAVH, Octobre -
Novembre, 1922.
Lê Quý Đôn. Phủ biên tạp lục. Nxb Phủ Quốc vụ
khanh đặc trách Văn Hoá. SG-1972
Lê Quý Đôn. Vân đài loại ngữ. Nxb Văn Hoá-
Thông tin, 1995
Đào Duy Anh. Việt Nam Văn hoá sử cương. Nxb
Đồng Tháp, 1998
Thái Văn Kiểm. Cố Đô Huế. Nxb Đà Nẵng,1994
Đỗ Bằng Đoàn, Đỗ Trọng Huề. Những Đai lễ và Vũ
khúc của vua chúa Việt Nam. Nxb Hoa Lư. Sài Gòn,
1968
Trần Văn Khê. Sơ lược Âm nhạc truyền thống Việt
Nam. ĐH Nghệ thuật Huế 1996
Nguyễn Thuỵ Loan. Lược sử âm nhạc Việt Nam.
Nxb Âm nhạc ,1993
Nguyễn Bình Định. Âm nhạc Phương Đông. Giaó
trình. Nhạc viện Hà Nội
Phạm Duy. Đặc khảo dân nhạc ở Việt Nam. Nxb
Lá Bối, SG, 1972
Nguyễn Viêm. Lịch sử Âm nhạc cổ truyền, Nxb
Viện Nghiên cứu AN, 1996
Dương Quang Thiện. Sử liệu Âm nhạc Việt Nam .
Nxb Viện Âm nhạc 1995
Dương Bích Hà. Lý Huế. Nxb Âm nhạc - Viên Âm
nhạc 1997
Nguyễn Mạnh Thát. Lịch sử Âm nhạc Việt Nam .
Nxb Tp HCM, 2001
Trần Kiều Lại Thuỷ. Âm nhạc cung đình triều
Nguyễn. Nxb Thuận Hoá, 1997
Tô Ngọc Thanh. Tư liệu Âm nhạc cung đình Việt Nam.
Nxb Âm nhạc 1999
Kiều Kiến Trung (chủ biên). Âm nhạc Trung
Quốc. Nxb Thế Giới, HN, 2002
Văn Minh Hương. Gagaku và Nhã nhạc. Nxb Thanh
Niên. 2003
Thân Văn. Các phương thức hòa nhạc cung đình Huế.
Nxb Thuận Hóa, 2005
Nguyễn Đình Sáng. Khảo sát Nhạc lễ cung đình Huế.Luận
văn ĐH, Trường ĐHNT, 1999
Phan Thuận Thảo. Các loại hình nghệ thuật biểu
diễn cung đình Huế. Luận văn ĐH, Trường ĐH Nghệ
thuật Huế, 2001
Xem thêm : Bùi Ngọc Phúc. Các loại dàn nhạc
cung đình triều Nguyễn. NCKHCN cấp Cơ sở,
ĐHNT Huế-2006
|