10 bài viết làm quà tặng cho thế hệ trẻ 

Vietsciences-   Tương Lai         29/01/2012

 

"LÀM GIÀU" LÀ " LÝ TƯỞNG" CẦN GIÁO DỤC CHO TUỔI TRẺ SAO SỨC MẠNH CỦA VĂN HOÁ
  ĐÔI MẮT MỚI
  BẮN PHÁO HOA
  MỘT BƯỚC NGOẶT
  NHẤT CHI MAI
  MUỘN CON HƠN KHÔNG
  PHÁT HUY ĐẠO LÝ DÂN TỘC
  HIỆN TƯỢNG BILL GATES
  SUY NGẪM VỀ SỨC NGHĨ CỦA MỘT NHÀ VĂN LỚN

 
 

1."LÀM GIÀU"LÀ " LÝ TƯỞNG" CẦN GIÁO DỤC CHO TUỔI TRẺ SAO?


 
Tôi không nghĩ vậy. Vì thế , xin được trao đổi đôi điều về vấn đề rất hệ trọng này. "Dân giàu, nước mạnh" là mục tiêu phấn đấu của cả dân tộc ta trong bối cảnh mới vì "nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc", vẫn đói nghèo "thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì" ( Hồ Chí Minh) cho nên đó cũng là mục tiêu cao cả của thế hệ trẻ hiện nay. Thấy cho hết được cái nhục  đói nghèo để phấn đấu vươn lên làm cho dân giàu nước mạnh , tránh cái hoạ tụt hậu quá xa so với khu vực và thế giới về kinh tế, về khoa học  công nghệ và về nhiều mặt khác nữa là sứ mạng cao cả của tuổi trẻ. Lấy cái sứ mạng cao cả đó làm lý tưởng khác với việc lấy "làm giàu" cho bản thân mình làm lý tưởng. Đã đến lúc phải chỉ ra sự khác nhau một trời một vực đó. Lý tưởng gắn liền với ý nghĩa của cuộc sống con người. Và con người khác con vật trước hết ở chỗ con người có ý thức, và ý thức đó giúp cho con người tìm ra và xác định ý nghĩa cuộc sống của mình. Đương nhiên, từng người có cách xác định khác nhau tuỳ theo cách đi tìm những giá trị của cuộc sống không giống nhau. Chính vì vậy mới cần đến một định hướng giáo dục giúp cho tuổi trẻ chủ động tìm đến những giá trị cao đẹp. Cho nên, vấn đề giáo dục lý tưởng cho thế hệ trẻ cần phải thật tường minh trong quan niệm và trong ứng xử. Từ Điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học (1988) định nghĩa lý tưởng là:"mục đích cao nhất, tốt đẹp nhất mà người ta phấn đấu để đạt tới", còn trong Từ Điển Hán Việt của Đào Duy Anh khi bàn sâu thêm về lý tưởng có giải thích : "đặt một cái mục đích rất cao rồi nhằm đó mà hết sức làm cho đến để đạt cái ý nghĩa đời người". Chính vì vậy, không thể xác định "làm giàu cho bản thân" là lý tưởng của tuổi trẻ được. Vì điều ấy không thể là " mục đích cao nhất và tốt đẹp nhất mà người ta phấn đấu để đạt tới , cũng không thể là "ý nghĩa đời người" được. Nếu lấy chuyện "làm giàu", chuyện "có thật nhiều tiền" làm "mục đích cuộc sống" và" ý nghĩa đời người" thì điều ấy sẽ dẫn đến thảm hoạ khó lường! Hàng ngày lật những trang báo cũng có cơ man là những ví dụ không là nỗi đau của riêng ai về sự xuống cấp của đạo đức xã hội. Thật ra , những điều trên vốn là thường thức trong nhân sinh, nhưng phải nói lại vào lúc này chính vì vấn đề "làm giàu" đã từng có một thời bị phê phán, bị miệt thị. Sự phê phán và miệt thị đó gắn liền với một quan niệm nhân sinh có phần cực đoan của chủ nghĩa duy ý chí quay lưng lại với hiện thực của cuộc sống hàng ngày cần phải được tôn trọng của những con người bình thường đang làm nên lịch sử. Những cực đoan ấy nhiều khi dẫn đến thái độ ứng xử thiếu khách quan với những nhu cầu và khát vọng riêng tư chính đáng "rất trần thế", "rất con người". Người ta sính nói đến cái cao cả, cái tuyệt vời mà lảng tránh nói đến cái thực dụng, cái nhỏ nhoi nhưng không thể thiếu của cuộc sống con người. Oái oăm thay, cái chủ nghĩa duy ý chí ấy laị dẫn đến một "chủ nghĩa bình quân" chia đều sự nghèo khổ", làm tái sinh cái tâm lý "ghét giàu" của xã hội tiểu nông, tự cấp tự túc không tạo ra được thặng dư xã hội, lại được thăng hoa trong tư tưởng đạo đức học nho giáo về lý tưởng "an bần lạc đạo". Chính chủ nghĩa bình quân và tâm lý cam chịu nghèo khổ này đã làm triệt tiêu động lực của phát triển. Thế rồi khi sự miệt thị và sự phê phán đó được thay thế bằng sự trọng thị và cổ vũ trong quá trình đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế thì lại có sự thiếu tường minh trong quan niệm và ứng xử với đồng tiền và sự giàu sang. Có sự khác nhau một trời một vực giữa sự cổ vũ cho sự phấn đấu vì sự nghiệp "dân giàu nước mạnh" với việc cổ vũ cho việc kiếm tiền và làm giàu bằng mọi cách theo triết lý "có tiền mua tiên cũng được", đành rằng không nên đối lập giữa việc làm giàu cho bản thân và làm giàu cho xã hội. Đúng là đã đến lúc phải đề cao ý chí vươn lên thoát nghèo cho bản thân và gia đình, mà để thoát nghèo thì phải có ý chí vươn lên làm giàu cho bản thân, cho gia đình và do đó góp phần làm giàu cho xã hội. Không phải hoàn toàn không có lý khi người ta cho rằng nghèo dễ dẫn đến hèn, song tuyệt đối hoá mệnh đề này không phải lúc nào cũng đúng. Cần lưu ý rằng, động cơ không cam chịu đói nghèo, quyết vươn lên giàu có để do đó mà có điều kiện làm cho cuộc sống của mình có ý nghĩa hơn, phong phú hơn, cao đẹp hơn có khác với triết lý"có tiền mua tiên cũng được" dẫn đến khát vọng kiếm tiền bằng mọi cách. Khát vọng đó dễ dàng biến phương tiện thành mục đích. Ranh giới này rất mong manh, thậm chí, đôi lúc khó lượng hoá. Nhưng rõ ràng không thể không vạch ra sự khác nhau giữa biến việc giàu có là một trong những phương tiện để kiến tạo một cuộc sống có ý nghĩa trở thành cứu cánh của chính cuộc đời, xem đồng tiền là mục đích tối thượng, dẫn đến nhân cách, phẩm giá của con người đều bị chi phối bởi đồng tiền.  Chính ở đây phải có sự rạch ròi giữa lý tưởng của cuộc sống, ý nghĩa đời người với phương tiện mà con người sử dụng để thực hiện nó. Không có sự tường minh trong định hướng dư luận xã hội trên lĩnh vực này, nhất là trong quá trình hình thành nhân cách của thiếu niên và thanh niên thì hậu qủa sẽ khó lường. Không thể để cho chủ nghĩa thực dụng lấn át vẻ đẹp của lý tưởng vốn có sức động viên, hấp dẫn tuổi trẻ. Hành động thực tế trong hoạt động và ứng xử của con người khác rất xa với chủ nghĩa thực dụng dễ làm lạc lối sự vươn lên của thanh niên..  Sự thiếu tường minh nói trên một khi trở thành dư luận xã hội sẽ có tác động đến lối sống, chi phối sự hình thành phẩm chất và nhân cách của con người, nhất là trong lớp trẻ, sẽ dẫn đến sự xuống cấp về đạo đức xã hội mà nhiều người đang lo ngại. Đấy là chưa nói đến chuyện triết lý "có tiền mua tiên cũng được" ấy đang biến thái một cách láo xược và nhầy nhụa kiểu "Năm Cam" : "có những thứ tiền không mua được, nhưng nhiều tiền mãi lên sẽ mua được". Đáng tiếc là cái thứ triết lý đó đã phát huy được tác dụng, nó đã tóm gáy được cả những vị "quyền cao chức trọng" hiện là bị cáo trước phiên toà đang diễn ra. Ấy vậy mà xét cho kỹ,thì thật ra cái giá được trả cho việc "sẽ mua được" ấy cũng chưa đến cái công đoạn "nhiều tiền mãi lên". Phải nói lên điều này vì tôi nhớ đến một khuyến cáo cuả C.Mác :"cần phải làm cho sự  nhục nhã càng nhục nhã hơn nữa bằng cách công bố sự nhục nhã ấy". Đã đến lúc cần khuyến cáo một tư duy thật sự minh triết trong chỉ đạo thực tiễn.
  Bài đã đăng trên "Tuổi Trẻ Chủ Nhật"ngày 23.3.2003
 

 


  2.     
 

                            

SỨC MẠNH CỦA VĂN HOÁ

                                                                                                                 
 
Có những điều ta vẫn nghĩ, vẫn nói, nhưng khi cũng những điều ấy lại do một người nước ngoài nêu lên thì chúng lại có một sức nặng mới, một nét hấp dẫn mới . Chiến tranh nhân dân là một ví dụ, nhất là trong dịp chúng ta kỷ niệm 50 chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử, khái niệm này càng được nói đến nhiều. Ay thế mà, khi nhà nghiên cứu người Ý, ông Pino Tagliazucchi nhắc đến chiến tranh nhân dân để trả lời cho “Câu hỏi từ Điện Biên Phủ” * thì dường như chúng ta chợt nhận ra một chiều kích mới : con người Việt nam với lịch sử và văn hoá của dân tộc. Để trả lời câu hỏi “vì sao một đất nước tương đối nhỏ bé và lạc hậu về công nghệ lại có thể đánh thắng hai cường quốc là Pháp và Mỹ” nhà nghiên cứu người Ý cố tìm “một điều gì đó không liên quan đến khoa học quân sự cổ điển. Đó chính là lòng quyết tâm và sự hăng hái tham gia của cả một dân tộc”. Và ông kết luận rằng : “a. chiến tranh như một hành động quân sự và chính trị-trong đó, chính trị, với mối quan hệ với người dân thường có vai trò lớn hơn ; b. lịch sử và văn hoá của dân tộc Việt Nam, và cuộc đấu tranh vì độc lập là của tất cả mọi người.” * Trên trang sử vàng của dân tộc, tôi như đọc thấy những chữ chói lọi và xốn xang : văn hoá con người. Con người Việt Nam và văn hoá Việt Nam,“những gì mà qua đó, quá khứ và hiện tại vẫn còn thông với nhau, mặc dù thường cách nhau hàng thế kỷ”, mà vì vậy“cần phải có sự tìm tòi trong những toạ độ cũ, những toạ độ mà ngày nay vẫn còn giá trị”**. Chỉ bằng văn hoá và con người chúng ta mới thật sự hiểu được, đánh giá được những sự kiện lịch sử với tầm vóc vốn có và cần phải có.  Hơn nữa, “chỉ có những sự kiện và con người mà độ bền thuộc về chúng và hoà nhập vào một hiện thực sống được lâu dài thì mới được tính vào lịch sử vĩ đại của nền văn minh”**Cho nên, “lịch sử của nền văn minh là sự gạn lọc qua hàng thế kỷ của một nhân cách tập thể, nhân cách này, cũng như mọi nhân cách cá nhân, bị kẹt giữa một số mệnh có ý thức và rõ ràng và một số mệnh tù mù và không có ý thức, số mệnh này làm cơ sở và động lực cho số mệnh kia, nhưng không phải bao giờ cũng nhận thấy điều đó”**. Từ cột mốc lịch sử chiến thắng Điện Biên Phủ dựng nên, chúng ta hiểu sâu được con người Việt Nam và văn hoá Việt Nam đã từng làm nên những trang sử vàng với Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Quang Trung, cùng với biết bao tên tuổi lẫy lừng khác của ông cha ta. Những tên tuổi của một thời mà đất nước ta chưa là một dải non sông hình chữ S bên bờ Biển Đông như bây giờ, cũng chưa hề có một hậu thuẫn của một bộ phận loài người đứng về phía dân tộc ta như trong thế kỷ XX . Trong bối cảnh ngặt nghèo đó, ông cha ta đã dựng nên tượng đài chiến thắng từ đâu nếu không phải là trên cái nền của văn hoá Việt nam và con người Việt Nam, của một đất nước “vốn xưng văn hiến đã lâu”? Nói như vậy vì tôi hiểu rằng văn hoá không phải là một hệ thống đóng kín những giá trị loại biệt mà là một tổng hợp đang phát triển của các thành tựu vật chất và tinh thần của một dân tộc. Trong ý nghĩa đó, ở mỗi giai đoạn của sự phát triển, văn hoá được biểu hiện như một dạng hoạt động thực tiễn của con người. Vì thế, tôi hiểu  văn hóa là một cấu trúc có bề sâu. Cuộc sống xã hội được phản chiếu ở bề mặt, dưới bề mặt đó, văn hóa được phân chia theo những tầng khác nhau, thường tiềm ẩn và vô thức. Ở độ sâu này, ta thấy có một sự sắp xếp của các quy tắc văn hóa điều chỉnh bề mặt ở bên trên. Nói đến “sức mạnh văn hoá”, “bản lĩnh văn hoá”, “bản sắc văn hoá”, theo cách hiểu của tôi, chính là nói đến sự tiềm ẩn và vô thức này nằm chìm trong đời sống của dân tộc.  Khi Nguyễn Trãi khẳng định rằng tổ quốc của chúng ta “vốn xưng văn hiến đã lâu” thì theo cảm nhận của tôi, ý tưởng đó của nhà văn hoá lớn của dân tộc đã chạm đến được chỗ sâu thẳm trong tâm hồn Việt Nam, con người Việt Nam. Chính cái đó làm nên sức mạnh Việt Nam, sức mạnh làm cho đất nước này, dân tộc này tồn tại và phát triển.  Vì thế, khi một dân tộc có một bản lĩnh văn hoá, thể hiện được cái bề dày văn hoá truyền thống do lịch sử tồn tại và phát triển của dân tộc đó hun đúc nên, cái mà ông cha ta gọi là “nguyên khí quốc gia”, thì dân tộc đó sẽ trường tồn. Thậm chí, nếu nhất thời có thể bị chiến bại, đất nước bị tàn phá, nhưng rồi từ sức mạnh tiềm ẩn đó của văn hoá, dân tộc ấy lại vẫn có thể vươn lên, hồi sinh và phát triển. Chúng ta hiểu được điều đó bằng chính lịch sử của dân tộc ta.  Và cũng có thể chứng kiến hiện tượng này qua khá nhiều trường hợp của nhiều quốc gia đã và đang phát triển trong lịch sử, và dễ thấy nhất là sau chiến tranh thế giới thứ hai.  Đồng thời, lịch sử cũng đã từng cho biết, có khi một dân tộc tạm thời có sức mạnh về quân sự, có thể làm bằng địa nhiều vùng lãnh thổ, chinh phục nhiều quốc gia, nhưng rồi lại bị chính nền văn hoá cao hơn của nước bị chinh phục khuất phục lại về mặt văn hoá. Hiểu như vậy để chúng ta hoàn toàn có quyền tự hào suy nghĩ về quá trình tiếp biến văn hoá trong sự hình thành và phát triển của nền văn hoá Việt Nam, biết tiếp thu và nâng cao những tinh hoa văn hoá của nước ngoài để làm giàu cho nền văn hoá dân tộc , làm cho nó trở thành sức mạnh của chính mình. Sức mạnh văn hoá ấy là động lực hết sức to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của ông cha ta, chính sức mạnh ấy làm nên vẻ đẹp và bản lĩnh của con người Việt Nam hôm qua và hôm nay. Con người làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ đã kế thừa và nâng cao bản lĩnh của con người đã từng làm nên chiến thắng Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa…  Chăm lo vun đắp, bồi dưỡng và nâng cao sức mạnh văn hoá, bản lĩnh văn hoá luôn luôn là công việc có ý nghĩa to lớn và lâu dài, nó phải được song hành cùng nhiệm vụ kinh tế, thậm chí, trong những thời đoạn đặc biệt, nó phải đi trước kinh tế một bước để tạo ra động lực xã hội cho phát triển kinh tế bền vững. Điều tôi muốn nói là, nếu “văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, một động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội, đồng thời là một mục tiêu của chủ nghĩa xã hội” như Nghị Quyết Hội Nghị lần thứ tư BCHTWĐ khoá VII (14.1.1993) thì cái nền tảng đó đang có khá nhiều vấn đề phải suy nghĩ. Trên cái đà của tinh thần tự hào dân tộc được khởi động và nâng cao với những ngày kỷ niệm lớn hôm nay, chúng ta phải nhìn cho thấu, cho rõ trong đời sống văn hoá của xã hội ta, cái tốt, cái mới đang sinh sôi nảy nở trong một sự nghiệp chưa có tiền lệ, khởi đầu bằng công cuộc Đổi Mới. Điều cần phải đặc biệt lưu ý là phần tự thân vận động của xã hội, của dân tộc và của con người Việt Nam trong tiến trình đổi mới là rất lớn, đó là nguồn gốc của mọi thành tựu được ghi nhận trong thử thách cam go. Cùng với cái đó, cần dũng cảm nhìn thẳng vào những mặt yếu kém và có phần sa sút trong đời sống văn hoá, những biểu hiện xuống cấp về đạo đức xã hội và sự hư hỏng của con người trong một bộ phận dân cư . Điều oái oăm chính là một bộ phận trong những người có chức, có quyền bị tha hoá đã tác động xấu đến một bộ phận dân chúng và tuổi trẻ ham chức, ham quyền, ham lợi, ham danh, đặc biệt là ham tiền quá nhiều và quá nặng . Chính điều này đã làm méo mó, rệu rã và suy thoái mối quan hệ giữa người với người vốn hết sức tốt đẹp trong cách mạng và kháng chiến, một trong những nhân tố quyết định của chiến thắng mà chúng ta đang kỷ niệm. Người ta thường đổ lỗi cho kinh tế thị trường với mặt trái của nó , nhưng như vậy thì cũng có nghĩa là bó tay vì làm sao xoá bỏ mặt trái để chỉ giữ lại mặt phải của một thực thể, chẳng lẽ  xoá bỏ kinh tế thị trường, quay về với mô hình cũ đã đưa xã hội đến cuộc khủng hoảng về kinh tế và xã hội trước “Đổi Mới”? Cần phải có cách nhìn khác, giàu tính chiến đấu hơn và bằng những giải pháp mang tầm chiến lược, quyết liệt hơn, dũng cảm hơn. Phải tuyên chiến với thói giả trá trong lối sống và trong công việc : sống không thẳng thắn, không trung thực, nói dối và làm giả. Phải dám mạnh dạn chỉ ra nguyên nhân của thói giả trá đó phần chủ yếu là do tình trạng mất dân chủ và thiếu dân chủ. Nói thế là vì, khi mà cách tuyển chọn cán bộ và sử dụng nhân tài chưa thật sự tuân theo lộ trình công khai, minh bạch và dân chủ thì đấy chính là lực đẩy con người rơi vào thói nịnh bợ để vừa lòng cấp trên , thực hiện “cơ chế lọt mắt xanh“ để đạt được dễ dàng và đi theo lối tắt trên con đường hoạn lộ. Khi lòng tin sút giảm mà sức ép của quyền lực lại mạnh thì sự giả dối mang rất nhiều bộ mặt với những biến dạng rất lắt léo, lừa mị và quái đản. Con người sẽ tự đánh mất mình , tranh thủ “ngoạm một miếng rồi chuồn” như Lê Nin đã từng lên án, ra sức vơ vét cho mình, ngậm miệng ăn tiền, sai không phê phán , đúng không ủng hộ, chỉ theo gió phất cờ và khi cần cho bước tiến thân của mình thì không ngần ngại trắng trợn bịa đặt, nham hiểm vu khống… Một điều dễ nhìn thấy trong đời sống tinh thần của xã hội, rõ hơn , trong một bộ phận không nhỏ của giới trẻ là“cái nền tảng tinh thần” vốn cần phải được củng cố vững chắc bằng bản lĩnh văn hoá của dân tộc có bề dày văn hiến, thì lại đang bị ô nhiễm nặng nề của sự lai căng và thói học đòi bắt chước một cách kệch cỡm những sản phẩm của nước ngoài khá dễ dãi và xô bồ. Song hành cùng với sự tự đánh mất mình đó là sự tuỳ tiện “phục cổ” không có chọn lọc và cân nhắc, tạo nên sự buông tuồng, gượng ép khi làm sống lại những hủ tục mê tín quàng xiên. Có thể nói, những lệch lạc, thoái hoá này như là sự trả thù của cái cũ, cái lạc hậu đang bị thải loại, cố níu kéo và gây khó khăn nhằm cản đường của cái mới, cái tiến bộ đang có xu hướng phát triển và thắng thế. Đã đến lúc phải có một cái nhìn nghiêm cẩn về đời sống tinh thần với những sản phẩm văn hoá ghi nhận một cuộc phấn đấu mới để vượt qua những thách đố của thời kỳ phát triển và hội nhập. Trong ánh hào quang của Điện Biên Phủ lịch sử, cảm nhận và suy nghĩ về chiều sâu của “lịch sử và văn hoá của dân tộc”* đã làm nên chiến thắng vĩ đại đó như sự chiêm nghiệm của một người nước ngoài, càng hiểu tính bức xúc của sự đổi mới và sáng tạo trên trận địa văn hoá.
  __________
Chú thích :

 
       *.Tuổi trẻ ngày 21.4.2004, tr.15
**Fernand  Braudel “Tìm hiểu các nền văn minh” NXBKHXH.1992. tr. 70, tr. 74, tr. 81

 
Bài đăng trên “Tuỏi Trẻ Chủ Nhật”, số  tháng 5. 2004

 

 

 

3.                                          



ĐÔI MẮT MỚI


 
Năm 2007 mở đầu với nhiều sự kiện đầy ấn tượng : Tại Geneva, WTO đã tiến hành lễ trao thẻ thành viên chính thức cho Việt Nam. Đại sứ Việt Nam tại Thụy Sĩ khẳng định Việt Nam sẽ là thành viên tin cậy của WTO, là đối tác tin cậy đối với các nước và các nền kinh tế của cộng đồng quốc tế trong việc thực thi nghĩa vụ, quyền lợi của một thành viên chính thức WTO. Báo chí quốc tế chú ý rằng WTO không những lần đầu tiên treo biểu ngữ khổng lồ chào mừng Việt Nam mà Chủ tịch Đại hội đồng WTO cũng “vượt tiền lệ lễ tân thông thường” ra tận cổng đón phái đoàn Việt Nam. Cũng nhân dịp này, tại Mỹ, Cơ quan Thương mại và Phát triển Hoa Kỳ (USTDA) đã trao giấy chứng nhận Việt Nam là “Đất nước tiêu biểu của năm 2006”. Tiêu biểu cho cái gì? Chắc sẽ có nhiều cách nhìn nhận, vì trước đây, hằng năm nhiều quốc gia cũng đã được trao chứng nhận đó, song với chúng ta, có lẽ đây là tiêu biểu cho một bước bứt phá trong hành trình hội nhập quốc tế của Việt Nam. Đúng như bình luận của tờ báo Figaro đây là “trái ngọt của 20 năm miệt mài chuẩn bị, 20 năm Hà Nội nỗ lực cải cách và chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, 20 năm Đổi mới”. Đổi mới cái gì? Đổi mới tư duy! Marcel Proust, văn hào Pháp, từng gợi lên một ý thật sâu sắc : “một cuộc thám hiểm thật sự không phải ở chỗ tìm kiếm những vùng đất mới, mà ở chỗ cần có đôi mắt mới”. Cũng vẫn thế giới ấy, cũng với những quốc gia và vùng lãnh thổ ấy, nhưng với con mắt mới, khi Việt Nam có đủ thế và lực để thực hiện mong muốn là bạn với thế giới, biết bao nhiêu điều mới mẻ đặt ra. Đó là một thế giới “mở”, trong đó các quốc gia, dân tộc cùng chung sống trên “ngôi làng toàn cầu” này đều phụ thuộc vào nhau, tác động lẫn nhau trên xu thế “toàn cầu hoá” có ảnh hưởng sâu rộng, tích cực có, tiêu cực có và trực tiếp đến cuộc sống của con người. Tính chất “mở” ấy, trong lịch sử chưa hề có . Và cũng chưa hề có, hoặc đúng hơn, không ai có thể hình dung trước được những biến động đầy bất ngờ diễn ra dồn dập trong một thời gian ngắn như vừa qua. Những sự kiện Việt Nam hội nhập quốc tế với năm 2006 có lẽ cũng nằm “trong vùng phủ sóng” đó! Những diễn biến của thế giới trong sáu năm đầu của thế kỷ XXI nói lên một điều rất rõ ràng là, mọi dự báo đều tỏ ra bất cập. Song, cũng chính sự bất cập đó lại nói lên sự cần thiết của dự báo về tính bất định của một thế giới với những biến động không sao lường trước được mà chúng ta đang sống. Trong “ngôi làng toàn cầu” này, những mối tương tác của quá trình giao lưu, các bước hội nhập, hợp tác và cạnh tranh diễn ra liên tục và chi phối mạnh mẽ đời sống của mọi quốc gia, dân tộc, mỗi cộng đồng xã hội, thậm chí từng nhóm xã hội và từng con người. Thế giới đang thách thức từng cá nhân, và mỗi cá nhân cũng đang đối diện với cả thế giới. Trên ý nghĩa đó, một câu hỏi đặt ra : Việt Nam gia nhập WTO, nghĩa là những ai gia nhập vào tổ chức này? Là Đảng và Nhà nước, là các cơ quan công quyền, là các hội nghề nghiệp, hay là doanh nhân, doanh nghiệp gia nhập WTO? Phải nói rõ, cả đất nước, trong đó mọi tầng lớp, mọi cộng đồng và từng con người Việt Nam có ý thức với vận hội của đất nước, đang gia nhập WTO, cũng tức là cả dân tộc chủ động dấn bước trên con đường Hội nhập để Phát triển. Cũng chính vì thế, với những cam kết quốc tế khi là thành viên chính thức của WTO, đòi hỏi cả dân tộc cũng như từng con người Việt Nam phải có cái nhìn mới về thuận lợi và khó khăn, về quyền lợi và nghĩa vụ, về thách thức và thời cơ . Thật ra, không phải đợi đến bây giờ mới đòi hỏi phải có đôi mắt mới để nhìn vào thế giới, mà chính là vì nhờ có đổi mới tư duy, mới có được bước bứt phá ngoạn mục của 2006. Bước bứt phá ấy ghi nhận thành tựu của một quá trình 20 năm trăn trở, tìm tòi với không thiếu những gập ghềnh, khúc khuỷu, những bước trồi trụt. Điều này cũng không lạ, C.Mác đã từng khuyến cáo “để khỏi bị tước mất những thành quả của văn minh, những lực lượng sản xuất đã đạt được, thì phải đập tan những hình thức cổ truyền trong đó những lực lượng sản xuất ấy đã được sản sinh ra. Từ lúc đó trở đi, giai cấp trước kia là cách mạng nay lại trở thành bảo thủ”. Vì thật ra, ngẫm cho kỹ thì trong lịch trình phát triển, mỗi sự vật chỉ có hiếm hoi một lần không bảo thủ, đó là lúc đang hình thành! Cái nền tảng bảo thủ ấy, chính là cái mà ta hay gọi là truyền thống. Ngặt một nỗi, lâu nay, nói đến truyền thống là dường như nói tới những cái gì thiêng liêng, tốt đẹp cần phải giữ gìn, tôn tạo, mà quên mất rằng, bên cạnh những điều cực kỳ quan trọng đó, thì như Ph.Angghen đã chỉ ra, “truyền thống là một lực lượng bảo thủ rất lớn” có sức cản trở sự vận động và phát triển, mà xu hướng chung là muốn níu kéo lịch sử. Điều này thì dễ hiểu thôi bởi lẽ, “mỗi bước tiến mới sẽ tất yếu biểu hiện ra như là một sự xúc phạm tới cái thiêng liêng, là một sự nổi loạn chống lại trạng thái cũ, đang suy đồi nhưng được tập quán thần thành hoá”.  Chính cái tập quán này là một sức trì kéo ghê gớm. Đặc biệt là khi chúng ta đang dấn bước trên con đường hội nhập. Bước vào thế kỷ XXI, tầm mắt của không ít người được mở rộng hơn nhờ vào "sự xé toang một tấm màng bưng bít, sự hiện ra và sáng lên của sự thật, sự tan vỡ một số huyền thoại, sự phá sản nhiều giáo điều, sự bộc lộ những sai lầm trầm kha , sự nhận thức mới, không phải về lý tưởng mà về lý luận cách mạng, thực tiễn hoạt động và thực tế đời sống, sự khơi dậy những niềm hy vọng mới, sự bắt đầu một quá trình thanh lọc và tái tạo đầy hứa hẹn". Trong “quá trình thanh lọc và tái tạo đầy hứa hẹn” ấy, sự sống không ngừng sinh sôi nảy nở, cái mới chọc thủng lớp vỏ già cỗi để ra đời và phát triển, không gì có thể ngăn cản được. Thế nhưng, thông thường nhận thức của con người lại đòi hỏi một quá trình, nhất là nhận thức lý luận. Cũng vì thế, lý luận thường lạc hậu so với thực tiễn. Màu xám của lý thuyết che lấp mất đôi mắt nhìn vào thế giới, khiến cho tư duy của không ít người bị cầm tù quá lâu trong những giáo điều đã được học thuộc lòng. Có lúc tưởng đã thoát ra được, nhưng rồi tính ngoan cố của tập quán bảo thủ cứ trì kéo lại! Tiến trình đổi mới đôi lúc xảy ra tình trạng “bước đi một bước, giây giây lại dừng” là vì vậy. Ay thế mà thời gian thì không chờ đợi. Trong cuộc đua tranh tòan cầu, chúng ta đang là vận động viên chạy áp chót. Chỉ riêng một chuyện khi nền kinh tế của ta vẫn được nhìn nhận là nền kinh tế phi thị trường đã phải chịu đựng nhiều bất lợi trong 12 năm tới đây. Đừng quên rằng, phải khó khăn gian khổ như thế nào để từ chỗ phủ nhận và đối lập với kinh tế thị trường đến chỗ chấp nhận kinh tế thị trường, đất nước ta đã phải trải qua một thời gian dài hơn rất nhiều thời gian 12 năm để sẽ được đối xử như là một nền kinh tế thị trường thực thụ. Không trên một tầm nhìn và cách nhìn mới, sẽ không cảm nhận sâu sắc được nghịch lý oái oăm này! Và rồi đây, nếu không có một đổi mới quyết liệt và toàn diện để bứt lên thì khó đuổi kịp và vượt những nước mà ngay tại điểm xuất phát của cuộc đua họ đã hơn ta và họ không hề dừng lại để đợi chúng ta đổi mới. Sức ép nghiệt ngã đối với vị thế mới buộc chúng ta phải đẩy tới tốc độ của đổi mới. Quả đúng là “Việt Nam ngày nay không đặt ra vấn đề có cải cách hay không nữa, mà là cải cách với tốc độ như thế nào dưới áp lực của những cam kết quốc tế” như nhận định của một chuyên gia kinh tế cao cấp của UNDP.  Cần có đôi mắt mới nhìn vào thế giới mới tạo ra được tốc độ ấy.  

 
Bài đăng trên “Người Đại biểu Nhân dân” số ra ngày 15.1.2007

 

 

 


  4.


BẮN PHÁO HOA


  Ủy ban Nhân dân thành phố vừa có quyết định không bắn pháo hoa nhân ngày Tết cổ truyền để dành tiền lo Tết cho người nghèo. Chuyện này đang gây xôn xao trong dư luận, xem ra cũng có cái lý chi đây. Có người thì cho rằng cầm đèn chạy trước ô tô thì không nên. E là vì người ta nhớ lại một vài quyết định mạnh mẽ trước đây không liên quan gì đến chuyện Tết nhất. Nhưng nói vậy cũng không phải lẽ. Dám nghĩ dám làm là một phẩm chất đáng quý. Tính năng động của một thành phố được đẩy tới bởi sức dân, song những quyết sách của lãnh đạo cũng là nhân tố quan trọng. Ở đây, chỉ xin trao đổi đôi điều suy tư về nghĩa vụ và công việc từ thiện, giữa ngắm pháo hoa và bữa cơm người nghèo ngày Tết. Becton Brecht, tác gia lớn của nền văn học Đức có một phát biểu thâm trầm “phải làm sao xây dựng một xã hội trong đó lòng tốt là thừa”. Và rồi ông đòi điều kiện cho lòng tốt : Trong “Vở ca kịch ba xu” nhân vật Mắcki của ông hát rằng : “Thưa các ngài, các ngài dạy phải sống lưong thiện và tránh xa tội lỗi. Nhưng xin các ngài hãy cho chúng tôi ăn đã. Sau đó xin cứ dạy, và chúng tôi sẽ nghe”. Đâu phải ông phủ nhận lòng tốt, càng không phủ nhận đạo đức, mà là đòi hỏi nhà cầm quyền phải có nghĩa vụ đối với con người. Khát vọng xây dựng một xã hội trong đó lòng tốt là thừa chỉ rõ đạo đức là lĩnh vực của tự do còn pháp lý là lĩnh vực của sự tất yếu. Không thể lẫn lộn nghiã vụ pháp lýtình cảm đạo đức,  mặc dù giữa chúng không có  bức tường nào ngăn cách. Khi Bác Hồ nói : “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành” thì ở đây tình cảm đạo đức công dân quyện làm một với nghĩa vụ pháp lý của người lãnh đạo. Câu ấy nằm trong nội dung Bác trả lời các nhà báo nước ngoài cách đây 61 năm, ngày 21.1.1946. Hơn nửa thế kỷ đã trôi qua, với biết bao biến cố, dân tộc ta đã viết nên những trang lịch sử hào hùng, song rồi khi đất nước đang là “ngôi sao mới nổi trên bầu trời thương mại thế giới” thì chúng ta vẫn đang nằm trong vị thế của nước nghèo, chậm phát triển. Phấn đấu quyết liệt đưa đất nước bứt lên là trách nhiệm của tất cả mọi người, trước hết là nghĩa vụ nặng nề của những người được dân trao quyền lãnh đạo đất nước. Đất nước còn nghèo, cổ vũ sự hăng hái và tự nguyện đóng góp của toàn dân vào công cuộc “xóa đói giảm nghèo” là đòi hỏi cần thiết. Hơn nữa, đề cao lòng bác ái và hành vi từ thiện là một nét nhân văn cần xây đắp từ trong nền tảng văn hóa của dân tộc và thường xuyên phải nuôi dưỡng, phát huy. Mà cũng chẳng riêng gì ta. Người viết kiệt tác “Những người khốn khổ” đã ghi trên lời đầu sách : “…khi trên mặt đất, dốt nát và đói khổ còn tồn tại, thì những quyển sách như loại này còn có thể có ích”. Loài người sẽ còn cần mãi trái tim và khối óc Victor Hugo. Vì hành trình xóa dốt nát và đói khổ của con người trên trái đất này, thực hiện khát vọng cao cả “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người” như C.Mác lấy đó làm lý tưởng của người cộng sản chân chính, vẫn còn là “con đường phía trước bỗng xa nghìn trùng” như cảm thức của Thiền sư Pháp Loa thời Trần . Vả chăng, cho dù khi đất nước đã giàu có, đời sống của nhân dân khấm khá lên trong một thế giới hòa hiếu hơn, thân thiện hơn, dư dật hơn và ít bất công hơn, thì lòng bác ái vẫn cần cho con người, cho loài người. Bởi lẽ, không có và không thể có sự đồng đều tuyệt đối trong  phần được thụ hưởng những đặc ân của tạo hóa ban cho loài người. Những người khuyết tật bẩm sinh chẳng hạn, hoặc những nạn nhân của sự bất cẩn của chính mình hoặc của đồng loại, của môi trường… mà không sao có thể dự phòng được hết, luôn chiếm một tỷ lệ trong đời sống mọi quốc gia. Tư dobình đẳng là đúng đắn và cao cả, vì đó là khát vọng của con người, của loài người, nhưng chưa đủ để đảm bảo xây dựng một xã hội hài hòa với đầy đủ tính người nếu không cổ vũ lòng bác ái, một biểu hiện cao đẹp của đời sống tinh thần. Trên ý nghĩa đó, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân là nhiệm vụ chủ yếu của Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Để dân nghèo đói là trách nhiệm chưa hoàn thành của Nhà nước ấy. Để đời sống tinh thần của người dân nghèo nàn và kém cỏi càng là trách nhiệm của Nhà nước. Vì thế, Bác Hồ khẳng định : “Nếu dân đói là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và chính phủ có lỗi, nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi”. Trách nhiệm của người lãnh đạo, nghĩa vụ pháp lý, tư tưởng chủ đạo của lời khẳng định nói trên , được hóa thân vào tình cảm đạo đức thấm đẫm trong ngôn từ mộc mạc, đi thẳng vào lòng dân. Và dân tin. Tin vì lời nói đi từ trái tim. Dân phân biệt rất rõ những lời nói xuất phát từ trái tim và những lời mị dân đi từ đầu lưỡi. Xét đến cùng, nghĩa vụ của những “công bộc của dân”, tức là nhà cầm quyền, không có gì khác là hoàn thành tốt các nội dung nói trên. “Xóa đói giảm nghèo” cũng nằm trong nghĩa vụ ấy. Sự nghiệp “xóa đói giảm nghèo” chủ yếu được thể hiện trong đường lối kinh tế, trong chủ trương, chính sách và trong các giải pháp kinh tế, xã hội và sự chỉ đạo thực hiện các giải pháp ấy của bộ máy quản lý Nhà nước các cấp. Việc kêu gọi những người hảo tâm ghé vai cùng nhà nước xóa đói giảm nghèo bằng hành động từ thiện là cần, vì vừa có ý nghĩa đóng góp vật chất, vừa có ý nghĩa động viên tinh thần. Còn Nhà nước thì không làm từ thiện, Nhà nước thực hiện nghĩa vụ với dân. Trong đó, có nghĩa vụ chăm sóc và nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần vốn đang còn quá nghèo nàn, thể hiện sự yếu kém và bất cập trong việc hoàn thành nghĩa vụ của Nhà nước đối với dân trên một số lĩnh vực của một số bộ phận lãnh đạo và quản lý.  Song hành với nghĩa vụ của nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân, việc huy động sự đóng góp của dân, phát huy vai trò của xã hội dân sự đang được hình thành là một nhu cầu của đất nước. Gắn kết giữa vai trò quản lý của nhà nước pháp quyền với hoạt động của xã hội dân sự là đòi hỏi của phát triển trong bối cảnh của tiến trình hội nhập đi vào chiều sâu. Trong công cuộc xóa đói giảm nghèo cùng với trách nhiệm và nghĩa vụ của Nhà nước, đóng góp từ thiện với hoạt động của xã hội dân sự  được khuyến khích và cổ vũ, sẽ vừa có ý nghĩa đóng góp thực tế, vừa có ý nghĩa giáo dục và động viên lòng nhân ái và tình cảm đạo đức “thương người như thể thương thân”, nâng cao giá trị tinh thần trong xã hội. Trong mâm cơm bớt phần đạm bạc của người nghèo vài đêm trừ tịch, nếu có thêm chút hương vị đậm đà của tấm lòng từ thiện cùng với tiếng reo vui của con trẻ nghe tiếng nổ và ngóng ánh sao lấp lánh của pháo hoa ngày Tết cổ truyền mà Nhà nước cho bắn lên, thì cũng là nét Xuân đẹp đến với người nghèo. Vả chăng, cho dù mỗi hành động từ thiện có là một bậc đá dẫn lên thiên đàng đi chăng nữa, thì hành vi từ thiện được thực hiện đúng lúc còn quan trong hơn bọc tiền đem cho. Ấy là chưa tính đến chuyện đôi khi người ta còn sử dụng sự từ thiện như một món trang sức. Nhân chuyện “pháo hoa ngày Tết và “loTết cho người nghèo” đang có những cân nhắc, mà xin được thêm góp vài ưu tư vẫn còn rất “đạm bạc” trên đây.

 
Bài đăng trên “Người Đại biểu Nhân dân” số ra ngày 22.1.2007
 

 

 

5.


MỘT BƯỚC NGOẶT


   
Sư kiện gia nhâp WTO vượt xa ý nghĩa kinh tế tuy rằng ông Pascal Lamy, tổng giám đốc WTO, chỉ hạn chế bầu trời của ngôi sao Việt Nam mới nổi là “bầu trời thương mại”. Liệu có một bức vạn lý trường thành nào ngăn cách cái “bầu trời thương mại” này với bầu trời chính trị, bầu trời văn hóa? Nhưng chỉ riêng là ngôi sao mới nổi trên bầu trời thương mại cũng đã là một bước ngoặt trong tiến trình lịch sử của một nước mà nghề buôn vốn bị coi khinh, thương nhân bị xếp vào bậc cuối cùng trong hệ thống giá trị xã hội, thế mà bây giờ lại dám bay lên trên bầu trời “thương mại”, lại là “ngôi sao mới nổi” giữa bầu trời ấy!  Trong suốt chiều dài lịch sử, thương mại vốn không được coi trọng trong một nước “nông vi bản”, nghề buôn bị coi khinh, thương nhân bị xếp thấp nhất trong thang bậc của hệ thống giá trị xã hội. Việt Nam cũng là nước có trình độ thương nghiệp thấp nhất trong các nước chịu ành hưởng của Nho Giáo. Nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu, tự cấp, tự túc kéo dài triền miên, năng suất thấp, hàng nghìn năm không có mấy đổi thay về kỹ thuật sản xuất, không sao chuyển nổi sang kinh tế hàng hóa. Quá trình đô thị hóa rất chậm, ngay nhiều nơi gọi là thành thị, thị trấn thì cũng chỉ là nông thôn kéo dài và biến tấu chút đỉnh, chứ không phài là nơi tác động thúc đẩy nông thôn bằng kinh tế hàng hóa. Không có truyền thống thương mại, cho nên, một đất nước bán đảo mà nền kinh tế biển không phát triển, không có được đội thương thuyền vượt biển đi xa. Có đến trên 3000 km bờ biển, nhưng người Việt không làm ngoại thương! Đã quen “năng nhặt chặt bị” , “vặt đầu cá, vá đầu tôm” bên chiếc ao làng trong lũy tre xanh, ra sát mép nước Biển Đông rồi vẫn “ta về ta tắm ao ta, dù trong dù đục ao nhà đã quen” thì làm sao dám mạo hiểm đi xa!  Sóng biển vỗ bờ rồi sóng lại đều đặn lặng lẽ rút ra, những dòng thủy triều lên xuống cũng đều đặn như vậy chỉ kích thích cái lẽ tuần hoàn trong nếp nghĩ, trong cách suy luận. Chỉ “tuần hoàn”, đi rồi về, quay lại điểm cũ chứ không có phát triển. Lối suy nghĩ ấy định hình khái niệm xoay vòng, đắp đổi theo sự vận hành của bốn mùa trong vũ trụ, không có đột biến, không có cách tân. Ấy thế mà chính thương mại lại là ngành kinh tế năng động nhất, tự thân nó đã đầy “sóng gió”, rồi chính nó cũng tạo nên “sóng gió”, khuấy động. giục giã, đánh thức những ai đang ngủ quên trên “chiếc thuyền câu bé tẻo teo” đang chuyển động bằng lặng với “sóng biếc theo làn hơi gợn tí” nơi chốn ao làng yên tĩnh, yên tĩnh đến độ nghe được tiếng “cá đâu đớp động dưới chân bèo”!  Chính thương mại thúc đẩy tính năng động xã hội, phá vỡ tính ổn định trì trệ, dẫm chân tại chỗ. Nó đòi hỏi sự điều chỉnh không ngừng về chính trị và xã hội để mở rộng thị trường, đẩy mạnh sản xuất, tăng cường dịch vụ… Điều này mâu thuẫn gay gắt với đòi hỏi của sự ổn định trì trệ của xã hội “nông vi bản” và của thể chế chính trị thích ứng với nền tảng kinh tế của nó. Thậm chí, khi chủ nghĩa thực dân quyết mở rộng không gian kinh tế, theo sau những thuyền buôn là các chiến hạm áp sát cửa biển nước ta, súng đại bác trên các tàu ăn cướp đã sẵn sàng nhả đạn thì các triều thần của vua Tự Đức vẫn giữ nguyên kiểu tư duy “yên bình, không có gì thay đổi”, vẫn “thế chưa thể vội được”. Triều thần còn lạc hậu hơn vua. Khi Tự Đức yêu cầu tính chuyện thông thương, các trọng thần bèn tâu: “thông thương là việc cần kíp, duy chỉ nước khác làm thì dễ, ta làm thì khó, vì các dân châu Âu phần nhiều theo nghề buôn, lại khéo đi biển…Còn nước ta thì từ trước cấm  dân đi ra hải ngoại, dân không đi buôn xa, trong nước không có bọn buôn, mà nmuốn dắt người buôn nước ngoài đến, thế chưa thể vội được”. Mất nước là chuyện chỉ ngày một ngày hai. Bao đời đứng trước biển, nhưng cái ý hướng quay về đất liền, dựa vào núi, “tâm thế lục địa” vẫn mạnh, vẫn áp đảo tâm thế hướng ra biển, “tâm thế đại dương”. Cho đến thể kỷ XIX, trên đất nước bán đảo hình chữ S này, nền ngoại thương vẫn rất lạc hậu. Bởi lẽ, ngoại thương cần gắn với biển, khai thác lợi thế của biển, lợi thế của vị trí địa- chính trị, nằm ở ngả tư con đường hàng hải, nối Ấn Đô Dương với Thaí Bình Dương. Để phát triển ngoại thương, phải có có cách nhìn mới, tầm nhìn khác với cái nhìn, tầm nhìn được tạo dựng từ cái vốn hiểu biết quá lạc hậu :  “Hỏi ông mộ những gì ư? Ông rằng “mộ những người xưa là thầy”. Quay đầu về xưa, luôn cho là xưa hơn nay là đặc điểm của cái học thủ cựu tự mãn, tự túc kiểu “ếch ngồi đáy giếng, coi trời bằng vung” của nhà Nho mà những đầu óc canh tân muốn “…đập mạnh thét dài, Cho người mê ngũ ai ai  tỉnh dần”. Với cái tâm thế “Khỏi làng mắt chửa thấy xa, Lại toan mai mỉa hai nhà Khang Lương. Ở nhà chân chửa ra đường, Lại toan ngang dọc bốn phương giang hồ” thì rõ ràng không thể đi xa, không dám vươn xa ra biển được. Chỉ ra những hạn hẹp nói trên, “Cáo hủ lậu văn” đã lên án và đòi “đập mạnh thét dài” nhằm xua đi sự thiển cận, trì trệ, bảo thủ, đòi mở cửa, đòi canh tân “Người sao trời rộng đất dài, Ta sao co quắp một nơi thế mà! Người sao nhẹ thẳng bay xa, Ta sao co kéo xó nhà với nhau? Những tiếng kêu phẫn nộ, những đòi hỏi thiết tha ấy như rơi vào không trung? Liệu có phải thế không?  Ngoại thương không phát triển được có nguồn cơn từ đó. Mà ngoại thương lại là yếu tố năng động và thúc đẩy mạnh nhất sự phát triển của đất nước : do sự giao lưu về kinh tế mà buộc phải mở cửa thông thoáng và cởi mở tiếp nhận những thành tựu của thế giới, không chỉ về kinh tế mà còn về văn minh, văn hóa. Khi bước vào đấu trường WTO, nước ta vẫn đang là vận động viên chạy áp chót cũng khởi nguồn từ những điều trên. Trên ý nghĩa đó mà cần hiểu ra rằng, việc gia nhập WTO là một bước ngoặt có ý nghĩa lớn không chỉ về kinh tế trong hành trình dài lâu của dân tộc ta, mà còn là bước ngoặt về về văn hóa, về tâm thế của dân tộc. Chính vì thế, có nhà sử học đã phân tích về ý nghĩa của “sự kiện WTO” như là một cột mốc của “sự thay đổi cá tính dân tộc”*, mà cá tính là vấn đề văn hóa, là sự chọn lựa văn hóa. Cũng có nhà văn đã gợi lên  những sự chọn lựa đó của ông cha ta trong lịch sử. Dễ thấy nhất là sự chọn lựa cực kỳ thông minh đã đẩy tới những bước ngoặt của lịch sử dân tộc, đưa đất nước bước vào những thế và lực mới. Sự chọn lựa lần thứ nhất ớ cuối thiên niên kỷ thứ nhât, đầu thiên niên kỷ thứ hai, với việc từ bỏ cái gốc văn hóa Đông Nam Á tuy uyển chuyển và mềm dẻo song phân tán, không đủ mạnh để đủ sức chống trả sự bành trướng của thế lực Hán hóa, để dám tiếp nhận nền “văn hóa Hán hóa” nhằm nhằm tạo ra một nhà nước mạnh đủ sức chống chọi lại với họa xâm lược đến từ một nước khổng lồ với chính nền văn hóa Hán đó! Cuộc chọn lựa lần thứ hai là chon lựa Nam tiến, khởi đầu từ Nguyễn Hoàng, là một chọn lựa “phi Hán hóa”, trở về cái “gốc Nam” của mình để “vừa cứng theo lối Hán vừa mềm theo lối Việt để tạo nên một sức mạnh uyển chuyển rất độc đáo và hiệu quả, một lực gia tốc phát triển kỳ lạ”**. Nhưng rồi, sai lầm của việc đóng cửa khước từ canh tân để chủ động tiếp nhận những thành tựu của văn minh, văn hóa phương Tây, nhằm tạo nên thực lực đủ để chống lại chủ nghĩa thực dân cũng của phương Tây ấy, như trước đây tiếp nhận văn hóa Hán để chống lại sức mạnh của chính quốc gia có nền văn hóa Hán, mất nước là cái đã trông thấy nhãn tiền! Văn hóa, sức mạnh của “văn hiến”- văn hóa và hiền tài, là bài học dựng nước cũng như bài học giữ nước ông cha ta đã truyền dạy cho mọi thế hệ Việt Nam. “Nước ta là một nước văn hiến”. Phải bằng sức mạnh ấy mới đủ sức căng buồm thời đại, đón gió đại dương đưa con thuyền đất nước ra biển lớn. Thử thách của “hậu WTO” là thử thách của trình độ kinh tế, những quan trọng hơn, sâu xa hơn và cũng là cơ bản nhất là thử thách về bản lĩnh văn hóa, về sức mạnh văn hóa của dân tộc. Nói bản lĩnh của dân tộc là nói bản lĩnh của mỗi một người Việt Nam yêu nước, quan tâm đến vận nước, đồng thời nói đến bản lĩnh của người lãnh đạo. Phải thấy rõ, thấy sâu chiều cạnh văn hóa, nhận cho ra cột mốc của sự chọn lựa văn hóa và thay đổi tâm thế của dân tộc mạnh dạn hướng ra biển, thay “tầm nhìn ao hồ, sông rạch” bằng “tầm mắt đại dương” từ “sự kiện WTO” mới đủ can trường và nhẫn nại rèn bản lĩnh ấy.
 
  Bài đăng trên “Người Đại biểu Nhân dân” số ra ngày 5.2.2007
 
 

 

 


  6.                                                     


NHẤT CHI MAI


 
Từ trong sâu thẳm tâm thức con người Việt Nam, lạc quan luôn là một ngọn lửa ấm sáng, vừa sưởi ấm hy vọng, vừa rọi chiếu niềm tin cho con người. Những con người khi còn nằm trong nôi đã phải nghe tiếng vó ngựa quân xâm lược. Cậu bé làng Gióng phải lớn nhanh như thổi mới kịp chặn lại vó ngựa kia để cứu làng, cứu nước. Từ trong nôi, tuổi ấu thơ Việt Nam đã được nghe tiếng ru của bà : “Nực cười châu chấu đá xe. Tưởng rằng chấu ngã, ai dè xe nghiêng”. Lời ru nuôi dưỡng nguồn mạch lạc quan, cội nguồn của sức sống Việt Nam. Phải lạc quan, vì không, thì làm sao sống trong cái thế kẹt địa-chính trị của một đất nước luôn phải thường trực chống lại giặc ngoại xâm luôn lớn hơn mình gấp bội, đã từng chịu cái họa nhỡn tiền của hơn nghìn năm Bắc thuộc, rồi tiếp đó,  triền miên binh lửa, đánh giặc giữ nước là nội dung những trang sử qua tất cả các triều đại.Truyền thuyết Thánh Gióng là sự thể hiện khát vọng sống và niềm lạc quan tin vào cái tốt đẹp rồi sẽ đến. Mà đâu chỉ là huyền thoại. Này đây kia,“những lốt chân ngựa Thánh Gióng”  vẫn hằn rõ nơi những khoảnh ao nằm giữa những thửa ruộng trên cánh đồng vùng Quế Võ, Bắc Ninh trải dài tít tắp tận chân núi mờ xa kia của vùng Kinh Bắc, nơi “tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong, hồn dân tộc cháy bừng trên giấy địêp”, cái nôi của huyền thoại, của truyền thuyết. Không chỉ có lốt chân ngựa Thánh Gióng. Thì đây kia vẫn còn sừng sững 99 ngọn đồi cộng thêm một để chẵn trăm, vùng đất Đền Hùng, Phú Thọ. Lời răn dạy của ông cha ta xưa được tạc vào đồi núi! Đó là hình ảnh một ngọn đồi tương truyền là con voi bị chặt đầu vì tội lìa đàn phản bội, phải đứng tách hẳn với 99 ngọn đồi tượng trưng cho 99 con voi chung thủy. Thật dữ dội hình phạt về sự phản bội. Và cũng thật hoành tráng cái tỷ lệ chính, tà :100 và 1! Rất lạc quan song cũng thật là nghiêm khắc,ông cha ta đã gửi gắm lời răn tạc vào sông núi để nhắc nhở cháu con . “Hình khe thế núi gần xa, đứt thôi lại nối, thấp đà lại cao”(Chinh phụ ngâm), đâu đâu cũng hằn sâu dấu ấn những truyền thuyết lịch sử. Trên mỗi ngọn núi khúc sông, trong những ngôi đền cổ, dưới mỗi ngôi chùa làng đều ấp ủ những nhắn gửi của cha ông, được ký thác trong những tranh tượng thờ, những bia ký, những hoành phi, câu đối, những đường nét chạm khắc, hoa văn. Thế hệ hôm nay cần phải nghe ra “Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất; Những buổi ngày xưa vọng nói về” (Nguyễn Đình Thi). Những lời nhắn gửi đó, “những buổi ngày xưa vọng nói về” đó chính là văn hóa, là bản sắc,cốt lõi của văn hóa dân tộc. Các thế hệ Việt Nam lớn lên từ nguồn mạch văn hóa kỳ diệu ấy. Lớp lớp những thế hệ Việt Nam góp sức làm nên lịch sử và đã đi vào lịch sử. Nhưng rồi,  “Đôi chân ta đi, sông còn ở lại”, để rồi “từng lời bể sông nghe ra từ độ suối khe” (Trịnh Công Sơn). “Từng lời bể sông” phải nghe cho ra róc rách giọng suối, ầm ào dổ vào ghềnh thác, cuộn chảy vào các dòng sông, dồn về những hợp lưu,  xuôi về biển cả.  Về nguyên lý, thì sông thế nào cũng đổ ra biển. Nhưng trên thực địa, con sông nào cũng phải uốn lượn vòng vèo qua từng khúc quanh co, vì buộc phải nhân nhượng và hòa giải với đặc điểm của địa hình từng vùng mà sông phải đi qua! Nhưng cho dù có vòng vèo thế nào đi chăng nữa thì cuối cùng nó vẫn phải tuân theo nguyên lý : chảy ra biển. Mà có được điều đó là nhờ sức cuộn chảy mãnh liệt từ bên dưới, vượt qua những thác ghềnh, những lực cản. Nhưng dù uốn lượn vòng vèo cách gì, các con sông đều chảy. Và, “dòng sông  phải chảy ra biển mới gọi là trung thành với ngọn nguồn của nó”, ý tưởng của Jaurès, nhà cách mạng Pháp. Đúng vậy, “trung thành với truyền thống không có nghĩa là quay về những thế kỷ đã lụi tàn để ngắm một dãy dài những bóng ma, trái lại, đem hết sức mình tiến về phía trước như dòng sông chỉ có chảy ra biển”. Quyết định tốc độ dòng chảy và hướng đến của dòng sông là sức cuộn chảy từ bên dưới. Lúc nào bộ phận lãnh đạo nắm bắt được sự kỳ diệu của sức cuộn chảy từ bên dưới ấy, tự nâng mình lên ngang tầm với dân tộc để đáp ứng được đòi hỏi của cuộc sống, chủ động khơi thông dòng chảy, lúc ấy sức sống của dân tộc trào dâng như nước vỡ bờ, không sao lường trước được. Mà để có được cái tầm ấy thì họ phải biết cách trân trọng hiền tài, biết thu hút, biết quy tụ trí thức, bộ phận tinh hoa của trí tuệ đất nước với nhận thức rằng : “ trọng học vấn, trọng nhân tài, xem đó là cái đáng quý nhất, có nó thì sẽ có tất cả, không có nó thì những cái còn lại chẳng còn gì đáng giá ” (Phạm Văn Đồng). Lòng trung thành ấy chính là trung thành với sự nghiệp của cha ông đã gây dựng nên lịch sử dân tộc. Trung thành với dân tộc là sự trung thành sâu nặng nhất, bền vững nhất, là đạo lý muôn đời của cuộc sống Việt Nam. Cuộc sống của một đất nước “Vốn xưng văn hiến đã lâu,…dẫu mạnh yếu có lúc khác nhau, song hào kiệt đời nào cũng có” (Nguyễn Trãi). Hào kiệt được gọi dậy từ những lốt chân ngựa Thánh Gióng nọ, những mỏm đồi 99 con voi và 1 con cụt đầu kia, và biết bao những huyền thoại và truyền thuyết trải dài trên khắp đất nước. Cậu bé làng Phù Đổng bay về trời nhưng vẫn để lại những lốt chân ngựa, những búi tre đằng ngà, tên gọi loại tre xanh đã bị cháy sém trong ngọn lửa của ngựa thần đốt cháy giặc ngoại xâm. Phải dạy cho con trẻ Việt Nam biết nhìn cho ra những khoảnh ao kia, những búi tre đằng ngà ấy đích thị là dấu tích của Thánh Gióng. “Ba tuổi đã hiềm là quá muộn”, thể hiện khát vọng sống và ý chí lạc quan, nguồn mạch của truyền thống , của sức mạnh văn hóa Việt Nam. Hãy tin vào huyền thoại, vì đó là khát vọng sống, là sức sống của nền văn hóa được lưu giữ trong từng ngôi làng quê Việt Nam. Chính những con người đang nhẫn nại, lầm lũi với cuộc mưu sinh còn quá nhiều chật vật bao đời nay, và cho đến tận hôm nay đã tạo ra những huyền thoại đó. Tạo ra huyền thoại, để rồi gửi vào đó niềm tin, tin để mà sống. Vì rằng “con người nhìn ngắm bản thân mình trong sản phẩm do mình tạo ra” (C.Mác). Không có cái để mà tin thì làm sao sống? Mà không tin vào sự kỳ diệu của sức sống Việt Nam, của sức mạnh văn hóa Việt Nam thì biết tin vào cái gì bây giờ? Sự kỳ diệu của sức sống Việt Nam, sự kỳ diệu của sức mạnh văn hóa Việt Nam, chính là cội nguồn sâu xa của mọi thắng lợi. Văn hóa theo ý nghĩa đúng đắn nhất và cao đẹp nhất chính là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử của dân tộc, làm nên sức sống mãnh liệt, giúp cộng đồng dân tộc Việt Nam vượt qua biết bao sóng gió thác ghềnh tưởng chừng không thể vượt qua được, để không ngừng phát triển và lớn mạnh. Cốt lõi của nó chính là cái đạo lý làm người của dân tộc Việt Nam. Mọi lý luận cách mạng đều phải “hòa nhập với đạo lý làm người của dân tộc, phải trở thành sức mạnh của dân tộc” (Lê Duẩn) thì mới có thể phát huy tác dụng trong chỉ đạo thực tiễn. Đôi mắt trực quan có khi không nhìn thấu rõ sức sống ấy, sức mạnh ấy. Khác nào khó nhìn thấy sức nước cuộn chảy từ bên dưới lòng sông hơn là bèo bọt và váng nước nổi trên mặt. Nước càng chảy xiết, bọt nước và váng bẩn càng nổi lên nhiều, nhất là ở những quãng nước xoáy. Những con mắt chỉ nhìn thấy bọt nước và váng bẩn nổi trên mặt mà không thấy được, không nhìn cho ra sức nước cuộn chảy từ bên dưới, sẽ không có được ý chí lạc quan, sức mạnh của niềm tin, không có bản lĩnh vượt qua những cái tưởng chừng không thể vượt qua nổi.
Cốt cách văn hóa, bản sắc văn hóa dân tộc không có được bao nhiêu ở nhịp sống hối hả, chụp giật trong cuộc mưu sinh nơi phồn hoa đô hội kia. Nó dị ứng với cái gọi là sự “sành điệu”, thay vì tiếp thu một cách có chọn lọc những thành tựu của văn minh mà loài người đã đạt được để làm giàu có thêm cho truyền thống văn hóa dân tộc, thì lại ăn tươi, nuốt sống những sản phẩm ngoại lai chưa kịp tiêu hóa, hoặc vội tiêu hóa những rác rưởi, cặn bã của nền văn minh đã thải loại ra! Những hợm hĩnh đáng thương, những nhố nhăng tội nghiệp, những đua đòi kệch cỡm… do thiếu một nền tảng giáo dục gia đình, cũng như thiếu một cái nhìn nhất quán, sâu sắc trên cái nền nhân bản về hiện đại hóa truyền thống và truyền thống hóa hiện đại trong nội dung giáo dục và cách giáo dục tư tưởng văn hóa trong nhà trường, cũng như ngoài xã hội. Vấn đề này sẽ nổi cộm lên khi chúng ta đang chủ động dấn bước sâu vào con đường hội nhập.
Bởi một lẽ thật đơn giản : chúng ta đến với thế giới và thế giới biết đến ta chủ yếu là gì, nếu không từ sức mạnh văn hóa Việt Nam? Về kinh tế thì chúng ta đang là vận động viên chạy áp chót trong cuộc đua toàn cầu. Chỉ tính đơn thuần với những con số thống kê mà UNDP vừa công bố, thì với tốc độ phát triển như năm nay, phải 15 năm nũa chúng ta mới đuổi kịp kinh tế của Thái Lan, nhưng là Thái Lan năm 2003. Chỉ có thể bứt lên khi chúng ta đặc biệt coi trọng phát triển chiều sâu, nâng cao hàm lượng chất xám trong sản phẩm. Nói một cách khác, phải đi lên bằng sức mạnh của văn hóa được hiểu một cách đầy đủ nhất và hiện đại nhất.
Thế nhưng, cũng chính ở đây, bên cạnh những lợi thế đã phân tích ở trên, thì cũng lại phải dám nhìn thẳng vào sự thật của tình trạng lạc hậu về thông tin, về khoa học và công nghệ, tức là về những thành tựu của văn minh loài người đạt được, đặc biệt là trong thế kỷ XX. Chính khi đã đứng trên đỉnh cao của chiến thắng, chúng ta lại tự cô lập mình với những thành tựu lớn lao của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ của thế giới, trước hết và chủ yếu là thành tựu của văn minh phương Tây.
Những kỳ tích chúng ta đạt được có cội nguồn từ sức mạnh văn hóa, nhưng những lạc hậu, yếu kém, chậm phát triển, cũng lại có gốc gác từ văn minh, thể hiện  trước hết là tư tưởng bảo thủ và tầm nhìn thiển cận của giới sĩ phu nước ta đối diện với hiểm họa của chủ nghĩa thực dân  phương Tây thế kỷ XIX. Sự co lại không muốn tiếp xúc với bên ngoài để lại những hệ lụy đau đớn. Trong lúc đó, cái gọi là sự phát triển “thần kỳ Nhật bản” là nhờ nước Nhật sớm mở cửa và biết tiếp nhận những thành tựu của các nước công nghiệp, trước hết là thành tựu văn hóa, văn minh. Chỉ một ví dụ có thể nói được điều đó. Năm 1868, Nhật đã cho dịch cuốn “Bàn về tự do” của John Stuat Mill, một tác phẩm được xem là kinh điển xuất bản ở Anh năm 1859, tức là 10 năm trước đó. Cuốn sách được in đến 2 triệu bản trong khi dân số nhật lúc đó chỉ 36 triệu người. Và, cuốn sách đó được chỉ được dịch và in với số lượng 2000 cuốn ở nước ta năm 2004! Chỉ nói đơn thuần chuyện tiếp cận với thông tin và tri thức, chúng ta đã chậm hơn Nhật một thế kỷ rưỡi, đấy là chưa kể số lượng in ít hơn 2000 lần!
Biết nhận ra cái mạnh, quan trọng hơn, nhận ra cái yếu của mình là bản lĩnh của người mạnh, biết mình cần phải làm gì, là bản lĩnh của người lạc quan, tin rằng mình sẽ làm được điều cần làm. Và rồi ở đây, ta bắt gặp sự ngẫu nhiên thú vị với công bô “người Việt Nam lạc quan nhất thế giới”do Tổ chức Gallup International (GIA) đưa ra từ kết quả cuộc khảo sát ở quy mô toàn cầu.
Phải biết và dám tin vào kết quả được công bố đó. Không phải là nhằm tự huyễn và tự ru ngủ mình. Ngược lại, để biết tạo ra một xung lực mới nhằm mạnh dạn và sáng tạo, dám và biết cách bứt phá, từ vị thế chạy áp chót mà vượt lên trong cuộc đua sau khi đã vào WTO. Phải làm cho chầt men say của ý chí lạc quan tiếp thêm sức trên chặng đường mới của lịch sử.
Mà đâu phải chỉ hôm nay ta mới biết lạc quan. Ông cha ta đã từng nuôi dưỡng ý chí ấy, tinh thần ấy. Xin hãy đọc mấy câu thơ của Thiền sư Mãn Giác đời Lý thế kỷ XI (1052-1096) : “Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận, Đình tiền tạc dạ nhất chi mai”.(Đừng bảo xuân tàn hoa cũng rụng hết, Đêm hôm qua, trước sân [rộ] một cành mai).
Nhân buổi Xuân về, xin hãy ngắm cành mai của niềm lạc quan thanh khiết và bất tận mà vị Thiền sư thế kỷ XI để lại cho tâm hồn Việt Nam thế kỷ XXI hôm nay, đặng mà biết cách thưởng Xuân, mà tăng thêm sức Xuân.

 
Bài đăng trên “Người Đại biểu Nhân dân”  Số Tết năm Đinh Hợi

 

 

      7.                                     

MUỘN CON HƠN KHÔNG

                                                                                                                            

Shakespeare, văn hào Anh, có nói rằng vết thương nào lành mà chẳng lành từng chút một. Những nỗi đau của con người, và những nỗi đau của dân tộc, những vết thương cứa vào lòng người, chắc cũng vậy thôi. Hàn gắn những nỗi đau đó, hình như cũng phải làm dần từng bước. Làm dần, nhưng phải có bước khởi động, phải có lúc bắt đầu, và muộn còn hơn không. Đó là chuyện giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật vừa được trao, trong đó có bốn nhà văn mà tên tuổi và thân phận của họ bị bầm giập một thời, nay Nhà nước trao tặng giải thưởng cao quý cho họ. Dư luận kháo nhau rằng, liệu không biết có thể hiểu đó là một thứ “sửa sai” đối với những thân phận vốn từng bị bầm giập ấy, như là cung cách đã từng có đối với những người bị quy oan do sai lầm trong cải cách ruộng đất? “Sửa sai” cho những sai lầm, oan khuất gây ra đã từng là một nỗi đau không riêng gì của cá nhân họ, cũng không riêng gì của giới văn học nghệ thuật. Mà là một vết thương cứa vào lòng người, những người cùng một thời sống với những “đoạn trường ai có qua cầu mới hay”. Và rồi cả những người có quan tâm theo dõi đời sống văn học nghệ thuật cùng với cuộc sống tinh thần của cái thời đoạn “phê phán Nhân văn Giai phẩm”, mà tên tuổi của các nhà văn đáng kính vừa được trao giải nói trên được nhắc đến như những tội đồ với những “miêu tả”, “tường thuật”, “hồi ký” cứ như thật, với những tội danh chính trị cũng như những sa đọa về nhân phẩm không thể nào tha thứ. Những sai lầm và tội lỗi đó luôn gắn liền với thành phần lý lịch bất hảo, được truy xét như là “nguồn gốc giai cấp” của những sai lầm, tội lỗi ấy. Điều này gắn liền với một thứ lý luận đặc biệt nhấn mạnh về giai cấp tính, phê phán quyết liệt sự thiếu kiên định lập trường trong nhận thức về nhân tính một cách “mơ hồ trừu tượng” và lệch lạc trong văn học nghệ thuật. Thứ lý luận này được du nhập cùng với lý luận  về “chuyên chính vô sản” được hiểu một cách thô thiển và phiền diện, đượm màu “tả” khuynh, cùng với tư tưởng Maoít phản Mácxít. Giờ đây lần giở lại những trang viết trên những tác phẩm dày cộp, những tạp chí chính thống với đầy đủ sức nặng của quyền uy, do những nhà văn, nhà báo, nhà phê bình viết, trong số các tác giả đó, có không ít người vốn là những người bạn thân thiết của người mà họ đang say sưa và nghiêm khắc lên án . Suy ngẫm lại, mà bất giác không khỏi rùng mình cho sự ngột ngạt đáng sợ của một thời, khiến cho trong niềm hân hoan đón chào tin vui không khỏi không còn tâm trạng “vui này đã cất sầu kia được nào”! Cho nên, để có được niềm vui trọn vẹn, phải có sự sòng phẳng với những sai lầm.

 

Những câu thơ của Phùng Quán “Yêu ai cứ bảo là yêu, ghét ai cứ bảo là ghét, dù ai ngon ngọt nuông chiều cũng không nói yêu thành ghét, dù ai cầm dao dọa giết, cũng không nói ghét thành yêu” được không ít những thầy cô giáo dạy văn bình luận hùng hồn về sự “mơ hồ trong quan điểm”, về “sự lập lờ trong biểu tượng hai mặt” : “Ai dọa giết Phùng Quán? Đây là thói ngông nghênh, tự huyễn về tài năng, kiêu ngạo coi thường lãnh đạo và căm thù, xuyên tạc chế độ, đã tự giết mình”. Đó là một trong những lời bình còn hằn sâu trong trí nhớ của thời học phổ thông, một nhà báo vừa nhắc lại trong câu chuyện về Giải thưởng Nhà nước tặng cho Phùng Quán vừa rồi. Đó cũng là cung cách quen thuộc của kiểu phê phán, nhận định, lên án tác phẩm văn chương của Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt. Đọc những dòng viết về cha của chị Băng Kha, con gái nhà thơ Trần Dần trên Vietnamnet, mới càng thêm thấm nỗi đau của một thời đoạn khó quên : “…người đời đã hiểu gì về ông trước đây, và sau này. Cả cuộc đời “tận tụy chữ”, ai đã hiểu nổi và chia sẻ cùng ông. Với tôi, ông không chỉ là một người cha, bình dị, ông còn là một người cha trí tuệ, sâu sắc và tuyệt vời. …tôi “trộm” đọc những trang thơ ông viết-mỗi chữ mỗi dòng- trình bày như một bức tranh ngay từ khi còn là bản thảo. Tôi không hiểu hết ông, nhưng tôi cảm nhận được rằng trong thăm thẳm, cha tôi có cái đau quằn quại, cô đơn đến tận cùng pha lẫn chút bất lực. Chỉ có Biển, Trời, Atula là có thể hiểu và chia sẻ cùng ông. Ông không bao giờ ngâm thơ mà chỉ đọc. Giọng ông sang sảng, đôi mắt đau đáu trong sự trang nghiêm tuyệt đối…Ông có nhân cách độc đáo, mẫu mực : sống chân thực và hết mình. Nghĩ thế nào nói thế ấy, nói thế nào thì làm thế…Và chẳng bao giờ hại ai. Ông khinh những gì luồn lọt, gian trá”.

 
nhà thơ Trần Dần
Và quả thật người thơ ấy đã tạc vào cuộc đời một nỗi niềm bi phẫn cao cả : Tôi khóc những                          chân trời                                          không                                                    có                                                         người bay   Lại khóc những người bay                                               không có                                                               chân trời    Giờ đây, đọc lại những tác phẩm của bốn nhà văn từng bị bầm giập nói trên mới thấu hiểu được ý nghĩa của việc trao giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật cho họ, đã vượt xa hơn nhiều, cao hơn rất nhiều, chuyện đánh giá sự đóng góp của họ về văn chương! Liệu đây có phải là sự lặp lại tâm trạng của Nguyễn Trãi với Tô Đông Pha : “Cổ kim thức tự đa ưu hoạn”? Hay lại là sự khái quát cái quy luật muôn đời “Họa phúc hữu môi phi nhất nhật” mà nhà văn hóa lớn, người anh hùng dân tộc thế kỷ XV đã tiên đoán, nhưng rồi vẫn phải gánh chịu. Phải chăng đây là sự ghi nhận một thái độ trở về lại với sự thật, tôn trọng và nhìn thẳng vào sự thật, một ứng xử chính trị nhằm khẳng định một cách nhìn mới, một tư duy mới mở đường cho phát triển trong thời đoạn lịch sử mới? Đây không chỉ là chuyện “Đoạn trường sổ rút tên ra, Đoạn trường thơ phải đưa mà trả nhau” đối với bốn nhà thơ, trong đó hai đã không còn cơ hội đón Giải thưởng nữa. Đây là bước đầu của sự sòng phẳng với những sai lầm của quá khứ. Vì, cần phải có sự sòng phẳng với quá khứ, mới tạo dựng được niềm tin đối với hiện tại, và có sức mạnh hướng tới tương lai. Trong hành trình của đất nước, không sao tránh khỏi những bước gập ghênh, thậm chí những vấp ngã, những bước thụt lùi. Vấn đề là biết từ những gập ghềnh, những vấp ngã và những bước thụt lùi đó mà rút ra bài học để đi tới. Thông thường, người ta thich cứ lẳng lặng mà làm lành những vết thương, không muốn ai xát muối vào những nỗi đau của qúa khứ. Song, không dám nhìn thẳng vào sai lầm, công khai thừa nhận sai lầm, sòng phẳng với những nguyên nhân đẩy tới những sai lầm ấy, sẽ không có đủ nghị lực và sức mạnh để sửa chữa sai lầm đã qua, và biết cách tránh những sai lầm có thể xảy đến. Bản lĩnh dám nhìn thẳng vào những sai lầm của quá khứ , sòng phẳng với lịch sử, là bản lĩnh của người biết làm chủ hiện tại và vững tin vào tương lai. Phải chăng một chân trời mới của hội nhập và phát triển, cũng là chân trời của khát vọng dân chủ và tự do trong sáng tạo để góp phần đưa dân tộc bứt lên khi vận nước đang đến? Liệu có quá sớm để nói rằng đã đến lúc, “không phải khócnhững chân trời  không  có  người bay,  những người bay không có  chân trời? Dù sao, cứ đi theo những dòng sông thì sẽ dẫn đến biển. Làm sao sống mà không hy vọng?

 
Bài đăng trên “Người Đại biểu Nhân dân” ngày 26.2.2007

 
*

 
  

8.                                        


 

PHÁT HUY ĐẠO LÝ DÂN TỘC


 
Lễ cầu siêu là một nhu cầu tâm linh của người Việt, một nét văn hóa lâu đời trong sinh hoạt tinh thần của đông đảo nhân dân ta. Cầu sự siêu thoát cho người đã khuất mà đồng thời là tạo ra sự thanh thoát cho người đang sống và cũng là hướng đến sự hóa giải những xung đột nơi trần thế. Ở đây thể hiện rõ triết lý âm dương giao hòa trong tâm thức người Việt. Năm 2005, tại Nghĩa trang Trường sơn, Giáo hội Phật giáo Việt nam tổ chức đại lễ cầu siêu cho anh hùng liệt sĩ và đồng bào chiến sĩ trận vong tại Nghĩa trang Liệt sĩ Trường Sơn với trên một vạn ngôi mộ liệt sĩ nằm trên đất Quảng Trị. Gần một vạn tăng ni, phật tử và đồng bào cả nước đã về đây thành kính dâng hương. Trong dịp đó, hoà thượng Trưởng ban trị sự Phật giáo tỉnh Quảng Trị cho biết : “con đường quốc lộ đoạn qua Hải Lăng bây giờ được gọi là “Đại lộ kinh hoàng”, người chết la liệt. Tháng 8 năm 1973, tại đó đã diễn ra một đại lễ cầu siêu kéo dài 7 ngày 7 đêm; hơn 3000 tăng ni và hàng ngàn phật tử đã về đò tìm xác, cất bốc, chôn cất người chết; chỉ riêng số xác tìm được phải trên năm, sáu ngàn. Trong số đó, dân thường cũng có, lính của chế độ Sài Gòn cũng có, bộ đội ta cũng có …Tất cả đều được chôn cất đàng hoàng và được làm lễ cầu an sinh linh. Đồng bào về dự lễ đông lắm.. Bây giờ đi trên quốc lộ 1A, qua đó vẫn thấy Đài Địa tạng lưu giữ dấu ấn về đại lễ cầu siêu năm đó”. Phải chăng đó chính là dấu ấn của đạo lý Việt Nam, là chủ nghĩa nhân đaọ và tinh thần nhân bản trong truyền thống văn hóa Việt Nam mà “Cương lĩnh dựng nước” của Khúc Hạo, nhà cải cách đầu tiên trong lịch sử dân tộc, nêu lên năm 907 : “chính sự cốt chuộng sự khoan dung giản dị” để cho trăm họ “đều được yên vui”. Hòa giải , hòa hợp chính là triết lý sống,nhu cầu để tồn tại và phát triển của một dân tộc ở vào một vị trí địa-chính trị như ta. Phải chăng vì thế mà dân tộc ta không chỉ có ngày Giỗ Tổ Hùng vương mồng Mười tháng Ba mà còn có ngày Giỗ Trận Đống Đa vào ngày mồng Năm tháng Giêng! Ngày Giỗ Tổ là ngày giỗ quan trọng nhất trong năm, vốn ăn sâu vào tâm thức người Việt : “Dù ai đi ngược về xuôi, Nhớ ngày Giỗ Tổ mồng Mười tháng Ba” ghi nhớ nguồn cội và công đức của người dựng nước. Còn Giỗ Trận vốn bắt nguồn từ chỉ dụ của vua Quang Trung sau khi đại phá quân Thanh, tiêu diệt mấy vạn quân giặc vào tháng Giêng năm Kỷ Hợi (1789), làm lễ cúng cô hồn tử sĩ, cho quy tập xác giặc, lập đền thờ. “Sở dĩ gọi là ngày giỗ trận vì trong ngày hôm đó, dân làng Đồng Quang, nơi có bãi Đống Đa, có mở hội tại chùa để tụng kinh siêu độ cho mấy vạn quân Thanh đã bỏ mình nơi chiến địa. Có thể nói đây là ngày giỗ các oan hồn quân Thanh” (Toan Ánh). Đặt ngày “Giỗ Trận” vào trong đời sống tâm linh của dân tộc, cùng với việc thờ cúng tổ tiên còn có tục thờ cô hồn, lễ cầu siêu, mởi hiểu sâu được ý nghĩa nhân bản của nó. Trong tâm thức dân gian “nghĩa tử là nghĩa tận”, người ta sẵn sàng giải tỏa mọi uẩn khúc để mong đều được siêu thoát. Truyền thống này được ghi nhận từ đời Lý thế kỷ XI, cho đến sau khi thống nhất sơn hà năm 1862, vua Gia Long đã cho lập đàn “siêu độ cho tướng sĩ trận vong và cô hồn thập loại”. Chẳng thế mà, “Chiêu hồn thập loại chúng sinh” của đại thi hào Nguyễn Du đã từng làm xúc động biết bao trái tim Việt Nam “lòng nào lòng chẳng thiết tha, Cõi dương còn thế nữa là cõi âm. Trong trường dạ tối tăm trời đất, có khôn thiêng phảng phất u minh. Thương thay thập loại chúng sinh”. Phải chăng đó chỉ là chuyện quá khứ? Một phần ba thế kỷ đã trôi qua, trên cơ thể của Tổ quốc, nhiều vết thương được hàn gắn đã lên da non, nhưng vẫn còn biết bao nỗi đau của từng gia đình, của nhiều người mẹ vĩnh viễn không gặp lại con, người vợ không bao giờ gặp lại chồng. Câu chuyện về “đá vọng phu” không còn là huyền thoại, mà hiển hiện bằng xương, bằng thịt ở nhiều làng quê, ở trên nhiều hẻm phố, trong những mái nhà. Nỗi đau “chất độc da cam” đâu có phân biệt người bên này hay bên kia giới tuyến và trận tuyến. Lòng người mẹ Việt Nam càng quặn đau hơn khi thắp nén nhang cho hai đứa con mình mà anh là liệt sĩ, còn em lại là lính phải cầm súng cho phía bên kia. Những người mẹ ấy chắc sẽ khát khao một lễ cầu siêu cho tất cả những ai đã nằm xuống trong chiến tranh. Và chắc không riêng gì những người mẹ có số phận éo le đó, mà trong sâu thẳm những tấm lòng của người Việt Nam ta đều cảm nhận được rằng, “máu chảy ruột mềm”, đaọ lý ấy mách bảo cho chúng ta cần  có một nghĩa cử thấm đượm ý nghĩa nhân văn và triết lý khoan dung của ông cha ta. Nguyễn Trãi đã từng mong mỏi “khắp thôn cùng xóm vắng không có tiếng oán hận sầu than, như  thế mới không mất cái gốc của nhạc”. Thấm nhuần sâu sắc tinh thần ấy trong đạo lý của dân tộc, với Hồ Chí Minh Mỗi người, mỗi gia đình đều có một nỗi đau khổ riêng và gộp cả những nỗi đau khổ riêng của mỗi người, mỗi gia đình lại thì thành nỗi đau khổ của tôi”. Nếu chúng ta “gộp cả những nỗi đau khổ riêng của mỗi người, mỗi gia đình lại thành nỗi đau khổ của dân tộc, để tổ chức một lễ cầu siêu chung trên cả nước sẽ là một hành động thiết thực “khép lại quá khứ, hướng tới tương lai”, đó là vấn đề gợi ra cần suy nghĩ. Thật ra thì ý tưởng này từng được đặt ra từ lâu, và rồi cách đây hai năm, vần đề “tổ chức một lễ cầu siêu cho vong linh những người đã chết trong chiến tranh” đã được nêu lên trong thư của nguyên Thủ tướng Võ văn Kiệt gửi Chủ tịch Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam Phạm Thế Duyệt. Nghi thức có nhiều cách, song giản đơn và màu nhiệm nhất là quy định một thời khắc chung, trên cả nước, các chùa chiền, nhà thờ, các nơi thường tiến hành những nghi thức tôn giáo, tín ngưỡng…đều thỉnh chuông cầu nguyện, các cơ quan công sở cũng như mọi tầng lớp nhân dân có một phút mặc niệm những người đã khuất. Làm được như vậy sẽ có một ý nghĩa lớn trong đời sống tinh thần của đất nước, tạo nên một động lực hòa hợp sâu sắc. Liệu có phải cũng trên tinh thần ấy, ngày 16.3.2006 “đại trai đàn bình đẳng chẩn tế” đã khai mạc tại chùa Vĩnh Nghiêm, TPHCM do Thành hpội Phật giáo TPHCM phối hợp với thiền sư Thích Nhất Hạnh cùng Tăng đoàn Làng Mai (Pháp) tổ chức. Trai đàn chẩn tế cầu “âm siêu dương thái” cũng sẽ được tổ chức từ 2 đến 4.4.2007 tại chùa Diệu Đế ở Huế và từ 20 đến 22.4.2007 tại Học viện Phật giáo Việt Nam tại Hà nội. “Trai đàn chẩn tế” là một nghi lễ truyền thống của Phật giáo Việt Nam. Trong tư liệu còn lưu giữ được, thì nghi thức này đã được Thiền sư Huyền Quang, vị tổ thứ ba của Thiền phái Trúc lâm biên soạn. Đây không chỉ là một nghi lễ của những người theo đạo Phật mà còn là sự thể hiện một nhu cầu của đời sống tâm linh của nhân dân ta, thấm đượm sâu sắc đạo lý dân tộc : “thương người như thể thương thân”. Song “trai đàn chẩn tế” trong nghi thức Phật giáo không chỉ tổ chức vào mùa Vu Lan báo hiếu, hay ngày rằng tháng Bảy “xá tội vong nhân”, mà có thể tổ chức vào bất cứ thời gian nào trong năm, nhằm phổ độ những linh hồn không có ai thờ tự, không nơi nương tựa, không phân biệt thân xa, đang bị trầm luân trong cành giới cô hồn chưa được siêu thoát. Nói như Thiền sư Thích Nhất Hạnh : “Đại lễ được diễn ra vào đầu năm mới, mùa của tăng trưởng sự sống và cũng là mùa bắt đầu cho một năm mới thịnh đạt, an vui”. Theo giải thích của những người tổ chức thì “trai đàn bình đẳng chẩn tế” là một công trình thực tập tập thể. “Đàn trai” không phải là thuần túy tôn giáo mà còn là một pháp thực tập tâm lý trị liệu rất khoa học tuy nó có tính cách lễ hội dân gian” . Đã là “trị liệu” thì tính “bình đẳng” phải nổi lên : không phân biệt tôn giáo, tín ngưỡng, tuổi tác, chủng tộc.  Theo Thiền sư Thích Nhất Hạnh khi trả lời báo chí : “Tôi đã đi qua cuộc chiến tranh ở Việt Nam, tôi biết phía nào cũng có người trực tiếp hoặc gián tiếp gánh chịu đau khổ. Những vết thương lòng nếu không trị liệu có thể sẽ truyền lại cho con cháu”. Ở đây, trong sâu thẳm triết lý Phật giáo trong việc tổ chức “trai đàn chẩn tế” đã bắt gặp được sự rung cảm sâu sắc của đạo lý dân tộc ta, một dân tộc vốn có hơn ngàn năm văn hiến mà đức khoan dung, hòa hiếuthương người như thể thương thân”, “máu chảy ruột mềm” là nét văn hóa nổi bật. Cũng vì thế, tổ chức trai đàn để cầu siêu cho “tất cả những đồng bào tử nạn trong chiến tranh, trong đó có những người chết trận, nạn nhân chiến tranh; những người mất tích mà hài cốt chưa tìm ra được; những người đã chết trong tù ngục và những thuyền nhân không may bỏ mình trên biển cả” như chủ đích của những người đứng ra làm lễ, là sự kế tục truyền thống nhân ái của ông cha trong bối cảnh mới của đất nước. Đó là lúc mà “hòa giải, hòa hợp” đang là những nhân tố quan trọng nâng cao sự đồng thuận xã hội , động lực của phát triển đất nước.
  Trong bối cảnh của những xung đột tôn giáo và sắc tộc ở trên nhiều vùng lãnh thổ, quốc gia, dân tộc trên quả đất này đang có chiều hương gia tăng, ngẫm nghĩ kỹ càng thấy rõ ý nghĩa sâu nặng của lòng nhân ái, tinh thần khoan dung của chủ nghĩa nhân văn Việt Nam. Những gì đang diễn ra ở một số nơi trên thế giới cho thấy “chủ nghĩa” tôn giáo cực đoan, biệt phái, cực quyền cùng với sự kỳ thị và xung đột tôn giáo là những nguyên nhân gây mất ổn định, góp phần làm nẩy sinh ra nạn khủng bố, phá hoại rất tàn khốc. Nỗi đau này của loài người dường như chưa có thuốc chữa trị một khi mà tinh thần khoan dung tôn giáo chưa chiếm lĩnh vị thế cần thiết trong tâm thế con người, và một bộ phận của loài người vẫn còn bị đầu độc bởi những cực đoan, biệt phái, cực quyền cùng với sự kỳ thị và xung đột tôn giáo.
Chúng ta đang sống trong một thế giới mà nền chính trị vừa mang tính chất đa cực vừa mang tính chất đa văn minh, đa văn hoá, vì thế, “ nếu các tôn giáo bắt đầu làm cho nhau trở thành phong phú hơn thì chúng sẽ cấp cho linh hồn điều mà thế giới đang tìm kiếm. Một trong những vấn đề đó chính là vấn đề tôn giáo. Giữa thế kỷ XX, A.Malraux đã tiên đoán rằng : “Vấn đề then chốt  của cuối thế kỷ này sẽ là vấn đề tôn giáo được diễn ra dưới một dạng khác hẳn với sự hiểu biết của chúng ta”. Đến năm 1990, tác giả của“Các xu thế lớn năm 2000” với tham vọng “chuẩn bị cho thế giới sắp đến”, đã cho rằng : “Sự hồi sinh của của tôn giáo vào thiên niên kỷ thứ ba”là một xu thế tất yếu của thế kỷ XXI. Các tác giả của cuốn sách gây chấn động dư luận lúc bấy giờ đã đưa ra dự báo: “Buổi bình minh của giai đoạn lịch sử mới này, sự trở về với đức tin này là dấu hiệu cho thấy rằng chúng ta đã được chuẩn bị để tiếp nhân cả hai mặt của bản chất con người”. Liệu có phải “loài người sẽ ra khỏi những tôn giáo để trở lại cái tôn giáo” (Sortie des religions, retour du religieux) như tên của một cuốn sách bàn sâu về vấn đề này xuất bản năm 1993 không? Tôn giáo, và rộng hơn thế, tín ngưỡng là một hiện tượng người, một biểu thị nhân bản, một thực tế xã hội rộng lớn và sâu xa, kết tinh chẳng những tâm linh và tình cảm, mà cả nhận thức lý trí của nhiều người. Tín ngưỡng hoặc không tín ngưỡng là một quyền cơ bản của con người cần được thể chế hoá và được thực sự tôn trọng. Hiểu thật đúng, thì tôn giáo sẽ là một sức mạnh xây dựng và một động lực tích cực của cá nhân và cộng đồng. Thực tế đã cho thấy, đạo đức và chính sách khoan dung tôn giáo là một nhân tố quan trọng tạo nên sự đồng thuận và cố kết xã hội. Nếu làm ngược lại, cái giá phải trả sẽ là sự phân rã và hỗn loạn của đời sống xã hội rất khó hàn gắn. Khi tiến trình hội nhập của đất nước đang đi vào chiều sâu, những sinh hoạt xã hội mang đậm nét tâm linh vốn ẩn sâu trong truyền thống của một nước “vốn xưng văn hiến đã lâu” như những sự kiện “trai đàn chẩn tế” này được tổ chức, là sự thể hiện một nét mới, một tầm nhìn mới trong sự cởi mở và dân chủ hóa xã hội cần được phát huy.
 
Bài đăng trên “Người đại biểu Nhân dân” ngày 19.3.2007

 
 
*

 

9.  

HIỆN TƯỢNG BILL GATES
 

Gọi là “hiện tượng”, vì con người này đánh dấu một cột mốc trong hành trình tư duy của loài người. Bill Gates là minh chứng tuyệt vời của nền kinh tế tri thức, thời đại của bộ não con người, đặc điểm của thế kỷ XXI. Người giàu nhất hành tinh cũng là người có tấm lòng nhân ái rộng mở nhất hành tinh. Quỹ từ thiện tư nhân mang tên ông và vợ ông đứng đầu thế giới với gần 30 tỷ USD được trích ra từ lợi nhuận, tập trung vào các lĩnh vực giáo dục, y tế toàn cầu, cải thiện thư viện công cộng và hỗ trợ những gia đình gặp nạn. Cuối năm 2004, ông đã ký thoả thuận với UNESCO về việc hỗ trợ phổ cập máy tính, internet, đào tạo công nghệ thông tin cho các nước thuộc thế giới thứ ba. Khởi nghiệp với Microsoft lúc 20 tuổi, đến nay, tài sản của ông được đánh giá là 56 tỷ, trở thành người giàu nhất thế giới kể từ năm 1973.  Ông đã đến Việt Nam và đã được đón tiếp nồng hậu, đặc biệt là sự mến mộ cuồng nhiệt của tuổi trẻ Việt Nam dành cho ông. Không phải chỉ vì ông là người giàu nhất hành tinh, mà vì ông là biểu tượng cao đẹp của con người, sống không chỉ cho mình mà cho cả mọi người. Trái tim ông biết rung động với những nỗi đau của con người, và ông đã tìm thấy hạnh phúc của mình trong việc làm giảm bớt nỗi đau của con người, của loài người. Việc làm của ông gợi ta nhớ lại V.Hugo, đại văn hào Pháp đã ghi trong đề từ mở đầu kiệt tác “Những người khốn khổ” của mình : “khi trên mặt đất, dốt nát và đói khổ còn tồn tại, thì những quyển sách như loại này còn có thể có ích”. Mà dốt nát và đói khổ thì vẫn còn tràn lan trên mặt đất, cho nên, loài người luôn cần những trái tim nhân ái biết rung động với nỗi đau của con người. Đừng quên rằng, loài người trong thế kỷ XX bước sang thế kỷ XXI này đang có hơn 1 tỷ người có mức sống dưới mức tối thiểu để tồn tại. Trong gần 5 tỷ người sống ở các nước đang phát triển thì 3/5 không được chăm sóc sức khỏe, 1/3 không có nước sạch, 1/5 không có được mái nhà che mưa nắng, 1/5 trẻ em không được học đến lớp 5. Hiện đang có 2 tỷ người suy dinh dưỡng. Đại dịch AIDS dễ tấn công và lan tràn, đặc biệt là đối với bộ phận người suy dinh dưỡng đó, những người nghèo đang không có điều kiện lo toan chạy chữa cho bệnh tật của mình. Và Bill Gates quyết định góp phần mình vào ngăn chặn đại dịch đó cũng như những bệnh tật khác đang giày vò con người, trước hết là “những người khốn khổ”, hầu mong giảm đi phần nào nỗi đau của con người. Đó là một nỗi đau ghê gớm trong một thề giới còn dư thừa bất công và quá thiếu lòng nhân ái dành cho nỗi khổ của con người, trước hết là người nghèo. Chính vì thế mà công việc cao cả do trái tim mách bảo của nhà tỷ phú Bill Gates có ý nghĩa sâu xa. Thế rồi, vào đầu tháng tư này, ông bà Bill Gates lại thầm lặng đến Việt Nam để trực tiếp đến tận trạm y tế xã để tìm hiểu mô hình thực hiện chương trình tiêm chủng mở rộng, vì theo ông, “Việt Nam là tấm gương về chương trình tiêm chủng mở rộng cho trẻ em”. Ông muốn giới thiệu mô hình này cho các nước châu Phi, nơi mà quỹ từ thiện mang tên  ông và vợ ông, “Quỹ Bill và Melinda Gates” đang hỗ trợ văcxin tiêm chủng cho trẻ em. Đến “thầm lặng”, ba ngày đầu được giữ bí mật đến phút chót, phóng viên các báo trong nước và quốc tế đều không được tham dự các buổi làm việc, ông bà Bill Gates muốn thiết thực hỗ trợ một cách có hiệu quả từ qũy từ thiện của mình, làm sao những người nghèo được tiếp nhận có hiệu quả cao nhất, trực tiếp nhất. Cũng giống như, phần mềm máy tính Microsoft của ông đã trực tiếp làm thay đổi diện mạo cuộc sống trên trái đất, kéo sát con người lại gần nhau từ những khoảng cách không gian xa vời vợi của “ngôi làng toàn cầu” ngày càng gần gũi. Liệu với hiện tượng Bill Gates, người đứng đầu danh sách những tỷ phú của thế giới mà trong lịch sử của chủ nghĩa tư bản, chưa bao giờ có một nhà tư bản tài phiệt nào có được một tài sản lớn đến như vậy, có gợi lên những suy tư mới gì về thời đại chúng ta đang sống?  Bằng hiện tượng Bill Gates, và không chỉ mỗi một Bill Gates, một số nhà tỷ phú khác cũng có ứng xử tương tự, liệu có cung cấp những thông tin gì mới về chủ nghĩa tư bản dưới tác động của những thành tựu lớn lao của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ mà loài người đã đạt được và nền kinh tế tri thức đang chi phối mọi hoạt đông trên thế giới ?  Năm 2006, người giàu thứ hai của thế giới, Warren Buffett với tài sản trị giá chừng 52 tỷ USD đã cam kết dành 85% tài sản của mình cho việc làm từ thiện. G.Soros, theo ước tính thì cho đến năm 2003 đã dành cho hoạt động từ thiện là 4 tỷ USD từ tài sản của mình, và hằng năm đóng góp thêm chừng 400 triệu USD nữa. Liệu có phải những nhà từ thiện của thế kỷ XXI đã theo gương các nhà từ thiện thế kỷ XX như “ông vua thép” của một thời, Andrew Carnegie, đã đóng góp vào quỹ từ thiện tổng cộng hơn 350 triệu USD từ năm 1901 đến đến 1915 (mà tính theo thời giá hiện nay thì khoảng trên 4 tỷ USD). Lùi xa hơn một chút, trước Andrew Carnegie, ông “trùm tư bản” Rockefeller cũng là một nhà triệu phú đóng góp vào quỹ hoạt động từ thiện tương tự như thế. Có thể giải thích một cách thật dễ hiểu là những đóng góp từ thiện ấy được thúc đẩy bởi các đạo luật về thừa kế và thuế tài sản. Thuế đánh rất nặng vào tài sản thừa kế và miễn giảm cho các khoảng đóng góp từ thiện. Không những thế, chi tiền vào các hoạt động từ thiện còn được lưu danh. Nhưng có lẽ nếu giải thích hiện tượng Bill Gates  dành phần lớn tài sản của mình để làm từ thiện và rồi năm tới sẽ dành toàn bộ thời gian và trí tuệ, sức lực  cho hoạt động từ thiện chỉ với lý do đơn giản như trên, thì e không đủ và không đúng. Đành rằng, không phải mọi nhà tư bản đều được như Bill, nhưng Bill là một nhân tố mới, hoàn toàn mới trong hành trình con người vươn lên để thực hiện những khát vọng vừa bình thường, vừa cao cả. Bình thường ở chỗ phải giàu lên một cách chính đáng để cuộc sống vật chất và tinh thần ngày một xứng đáng với con người. Và cao cả là ở chỗ người ta không thể chỉ sống cho riêng mình, mà còn biết sống vì mọi người. Mà vì thế, biết chia sẻ với nỗi đau của những con người đang còn cơ cực. Phải chăng hiện tượng “làm từ thiện” của Bill và của nhiều nhà tỷ phú khác cho thấy chủ nghĩa tư bản thời hiện đại, trên một số biểu hiện, không hoàn toàn giống với chủ nghĩa tư bản của thời kỳ tích luỹ, khủng hoảng chu kỳ và chính sách thực dân tìm kiếm thuộc địa của thế kỷ XVIII, XIX, thời C. Mác viết bộ “Tư Bản”, khi “mỗi lỗ chân lông đều tiết ra bùn, máu và nước mắt của người lao động”.  Với những khuyết tật thâm căn cố đế của nó, như C.Mác đã từng vạch ra, chủ nghĩa tư bản đã phải tự điều chỉnh để tồn tại theo quy luật vận động của lịch sử . Thế kỷ XX bước sang thế kỷ XXI, loài người đang trải qua một hiện thực sống động và đầy kịch tính của những thành tựu kỳ diệu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ ngày càng dồn dập. Mặc dù đã có một dự phóng thiên tài là “khoa học đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp”, C.Mác cũng như Ph Angghen, tác giả của “Sự phát triển của Chủ nghĩa xã hội từ không tưởng đến khoa học” viết năm1892 sau khi C.Mác đã qua đời, những người đề ra ra lý luận về “chủ nghĩa xã hội khoa học” cũng không sao hình dung nổi những thành tựu của cuộc các mạng và công nghệ đang phát triển như vũ bão trong thế kỷ XX bước sang thế kỷ XXI như thế nào! Những “phá hủy sáng tạo” đang kích thích sự tìm tòi và khám phá không ngừng, khiến cho thành tựu tri thức đạt được trong mấy thập kỷ cuối thời kỳ này, bằng toàn bộ tổng số tri thức trước đo, kể từ khi con người xuất hiện trên trái đất. Và đúng như Ph Angghen đã từng phê phán trong tác phẩm nói trên về một thứ “lý luận chưa chín muồi…được sản sinh ra từ đầu óc con người”, đã “gán hệ thống ấy từ bên ngoài vào cho xã hội. Những hệ thống xã hội mới ấy ngay từ đầu đã không thể không rơi vào không tưởng; chúng càng được đề xuất tỉ mỉ bao nhiêu thì lại càng rơi vào ảo tưởng thuần túy bấy nhiêu”*. Đứng vững trên mặt đất hiện thực của thế kỷ XXI, dường như có thể áp dụng nhận định đó cho chính “chủ nghĩa xã hội khoa học” ra đời từ thế kỷ XIX. Vì vậy, nếu dừng lại ở những mệnh đề ký luận có từ thế kỷ ấy, tự bằng lòng với kết luận rằng chúng “vẫn còn nguyên vẹn giá trị”, không biết thanh lọc và tuyển chọn để giữ lại những gì còn còn có ý nghĩa cho sự vận động và phát triển của cuộc sống hôm nay, vứt bỏ những gì đã lỗi thời, lạc hậu; nếu vẫn nhắm mắt “tụng niệm”, sẽ gây nên những phản tác dụng khó lường cho sự nghiệp cách mạng hôm nay.  Phải chăng “hiện tượng Bill Gates” đã ghi nhận những nhân tố mới, giúp tìm hiểu sâu thêm về sự vận động phức tạp của cuộc sống con người nói chung, và sự vận động của chủ nghĩa tư bản hiện đại nói riêng?
Nhân tố mới ấy đánh dấu một chặng mới của con người trên con đường dài dằng dặc, mà từng chặng đều thấm đẫm mồ hôi, nước mắt và máu của những người đi tìm hạnh phúc với những giục giã của khát vọng công lý. Từ hai bàn tay lao động với một khát vọng mãnh liệt và niềm say mê tìm tòi khám phá, chàng sinh viên 20 tuổi Bill Gates tạm ngừng việc hoc tại đại học, mở đầu sự nghiệp bình thường để trở thành hiện tượng phi thường là người giàu nhất hành tinh. Con người từ chối đỗ xe ô tô tại khách sạn mà đến đỗ tại bãi công cộng chỉ để tiết kiệm 20 USD, nhưng đã bỏ ra 750 triệu USD để hỗ trợ việc tiêm phòng dịch cho trẻ em châu Phi.
Thì ra, con người có thể làm những việc phi thường bằng sự khởi đầu lương thiện rất bình thường. Và hiện tượng Bill Gates, có lẽ không chỉ hỗ trợ cho việc phòng trừ bệnh AIDS, cho tầm nhìn xa về tiêm chủng mở rộng, về việc phổ biến tri thức về tin học và trang bị hệ thống máy tính cho học sinh phổ thông… mà có khi cũng hỗ trợ khá nặng ký cho cuộc tranh cãi về “bóc lột”, về “giá trị thặng dư”, thậm chí về “đảng viên làm kinh tế tư nhân với quy mô không hạn chế”. Vì đơn giản là khái niệm “bóc lột” sẽ buộc phải có nội hàm mới tương ứng với cách nhìn nhận về “giá trị thặng dư” mà trong phạm vi bài viết ngắn này chưa thể đề cập sâu.  Vì thế, cùng với những cách hiểu mới, xuất phát từ đời sống đang diễn ra, mà có những giải pháp và quyết sách mới phù hợp với đòi hỏi của phát triển.
Quả thật hiện tượng Bill giúp thúc đẩy việc xác lập một cách nhìn mới bằng một đôi mắt mới để tiếp cận với một thế giới đầy biến động dưới tác động của nhiều nhân tố, đặc biệt là sự tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang phát triển như vũ bão.
Và người ta hiểu ra rằng, tương lai không là sự nối tiếp giản đơn của quá khứ, kiểu tư duy tuyến tính không còn phù hợp trước những phát triển mới mẻ với những hợp trội bất ngờ của cuộc sống. Với cách hiểu đó mới có thể độc lập và sáng tạo được. Bởi lẽ, chỉ có thể độc lập và sáng tạo khi lý luận gắn kết với thực tiễn, biết dựa vào sự vận động của thực tiễn mà điều chỉnh lý luận một cách thông minh và sống động, chứ không chỉ hoài công phủi bụi thời gian trên những trang sách ra đời từ nhiều thế kỷ trước , nhằm biện hộ cho những lạc hậu của chính mình. Trong tri thức sơ đẳng của lý luận về nhận thức, người ta buộc phải hiểu rằng, thực tiễn cao hơn nhận thức lý luận không chỉ vì nó có ưu điểm của tính phổ biến và cả tính hiện thực trực tiếp mà vì thực tiễn là phương thức đầu tiên và chủ yếu trong mối tương tác giữa con người với thế giơí. Cũng vì vậy mà C.Mác đã khẳng định “chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý”. Xuất phát từ mệnh  đề đó mà, khi chuyển sang thời kỳ “Chính sách kinh tế mới (NEP)”,  V.I Lenin không ngần ngại phải tuyên bố rõ “toàn bộ quan điểm của chúng ta về chủ nghĩa xã hội đã thay đổi về cơ bản”.
Cuộc sống đang dồn dập phát triển, thật hạnh phúc biết bao khi được sống và được suy nghĩ về những cái mới đang nảy sinh trong sự dồn dập và phát triển của thời đại chúng ta đang sống. Được độc lập suy nghĩ bằng chính cái đầu của mình và sáng tạo trong hành động thiết thực và dũng cảm nhằm góp phần vào sự nghiệp lớn lao của đất nước đang bứt lên tiến cùng thời đại chính làhạnh phúc lớn, trước hết là hạnh phúc của thế hệ trẻ đang nhìn vào Bill Gates với sự ngưỡng mộ chính đáng.
___________________________
·       C.Mác &Ph Angghen toàn tập. Tập 19. NXBCTQG. HàNội.1995, tr.282

 

 
      Bài đăng trên “Người Đại biểu Nhân dân”ngày 16  4.2007.

 


 
 
  10.                   

SUY NGẪM VỀ SỨC NGHĨ CỦA MỘT NHÀ VĂN LỚN
 

Nhà văn  Nguyễn Khải


   
Trôi theo tự nhiên”, tuy là một lựa chọn thật minh triết, nhưng sao cứ như một ám ảnh định mệnh, vì dễ gì cuộc sống chung quanh chịu tuân phục cái lẽ tự nhiên mà Anh đã ngộ ra được để cùng chọn một cách thế ứng xử mà Anh mong muốn, anh Nguyễn Khải ơi. Thì cũng chính Anh đã viết như vậy :  “Trong mọi cảnh ngộ trớ trêu, tính cách và nghị lực con người chỉ làm chủ một nửa, còn một nửa là những rủi ro không thể tính trước”.  Đọc câu ấy trong tác phẩm cuối cùng Anh tặng tôi, “Hồi ức về sự hình thành một bút pháp” mà Anh đặt tên là “Trôi theo tự nhiên” tôi cảm nhận được chiều sâu dự cảm của một sức nghĩ, một tầm tư duy đang ở vào một bước ngoặt trong văn nghiệp của Anh. Càng ngẫm nghĩ, càng thấy sự nghiệt ngã của thời gian và định mệnh. Anh đã cố làm chủ lấy sự trôi chảy của thời gian đang càng ngày càng hối hả thúc giúc, để rồi Anh vẫn không vượt qua được cái khắc khoải của định mệnh. Và, cái “không thể tính trước” đã xảy ra, cho dù Anh đã toan tính chối bỏ. Đó chính là nỗi đau chúng tôi phải chịu đựng hôm nay. Ám ảnh định mệnh ấy đã là sự thực đau đớn, con người tài hoa và trung thực ấy đã tuyệt đối nằm xuống. Cho dù Anh từng chiêm nghiệm “năm tháng đã qua đi nhưng vẫn còn lưu lại mùi hương đã nhạt của một thời, và cả những vệt nước mắt vừa khô của một thời” thì , anh Khải ơi, một thời ấy, cuộc đời còn muốn nhận được từ sự tái hiện sống động bởi văn tài và ý thức công dân của người cầm bút có trách nhiệm và đủ minh triết để làm điều đó nơi Anh.  Thật xót xa cho cuộc đời đã không được tiếp nhận trọn vẹn những tìm tòi, những đúc kết nghĩ suy và đưa ra những thẩm định chính trị sau cả một quãng đường dài hơn nửa thế kỷ của một nhà văn tài hoa và có trách nhiệm với chính cuộc đời ấy. Tôi muốn nói đến tập “Tùy bút chính trị” mà Anh đã cho tôi đọc và dặn hãy giữ cẩn thận giúp Anh. Chỉ nói đến một tùy bút dở dang đang ở trước mắt tôi đây,  vì viết về sự nghiệp đồ sộ của Anh, sức tôi không kham nổi và chắc chắn sẽ có nhiều người làm việc đó tốt hơn nhiều. Đã có lần tôi hỏi Anh, tại sao lại đặt tên cho tập “tùy bút chính trị” ấy là “Nghĩ muộn”.  Một thoáng trầm ngâm, và rồi Anh cười : “Thì cả cuộc đời sống và viết, bây giờ mới nghĩ ra và viết được ra, mà cũng đã xong đâu, vẫn còn nghĩ tiếp đấy, thì chẳng muộn quá là gì”. Anh Khải ơi, “Nghĩ muộn” của Anh không hề “muộn” , ngược lại, nó còn “sớm” hơn với nhiều người cầm bút, và đáng tiếc, và đau đớn đối với tôi lúc này, chính là ở đấy. Thẫn thờ, tôi lần mở tập bản thảo, ngẫm nghĩ về câu Anh viết mà nghẹn ngào không cầm được nước mắt : “Với một người viết văn cũng như những người làm nghề thuộc về trí tuệ, là lãnh vực tự do nhất, độc lập nhất trong xã hội, thì bạn bè là tất cả. Trong bạn bè, sẽ tìm ra tri kỷ, trò chuyện với tri kỷ vừa là đối thoại vừa là độc thoại để cân nhắc, xem xét, lật trái lộn phải một nghi vấn, một cách trả lời, một khẳng định còn rụt rè, một kết luận còn chưa đủ tự tin”.  Tôi may mắn được là người bạn muộn mằn của anh, và e rằng không là người “tri kỷ” mà anh lựa chọn, tôi tự hiểu được điều không lấy gì làm vui đó đối với mình. Nhưng duyên do là mỗi tháng chúng tôi lại có dịp gặp nhau một lần. Tận dụng thời gian hiếm khi gặp được nhau, vào những dịp ấy, Anh hay tranh thủ nán lại cùng chúng tôi, say sưa bộc bạch những suy tư nghiêm cẩn dưới cái dạng hài hước nhưng rất tinh tế và khiêm nhường của một sức nghĩ lớn. Nhân việc Anh muốn đọc một tiểu luận “Chân lý là cụ thể, Cách mạng là sang tạo” tôi viết đã lâu song ngại làm mất thì giờ của một nhà văn lớn, hơn nữa, chắc gì anh đã muốn đọc nên tôi không gửi cho anh. Nhưng rồi chính anh trách tôi về chuyện ấy! Tôi vội vã đem đến nhà Anh và không ngờ lại là sự giục giã một ý tưởng đã định hình trong Anh. Tôi rất xúc động khi Anh nói với tôi điều đó. Chúng tôi thân nhau từ đó, tuy biết Anh thì đã mấy chục năm và đã từng say mê đọc Anh. Tôi kính trọng tài văn và sự trung thực, cởi mở của anh, trân trọng tình bạn “vong niên” mà Anh dành cho tôi, một người kém Anh đến sáu tuổi. Dưới ngòi bút tài hoa, tinh tế của Anh, bằng con mắt của chuyên ngành tôi đeo đuổi, triết học và xã hội học, tôi cảm nhận ở anh những suy tư triết lý với cái nhìn xã hội học sắc sảo. Trong sự thụ cảm riêng tư, tôi nghiệm ra rằng, văn tài của Anh vượt cao lên trong văn đàn nước ta “một thời”, chính là do có sự suy tư ấy, có cái nhìn ấy. Vì thế mà tôi thích đọc Anh, say mê những trang viết của Anh, nhớ kỹ và chiêm nghiệm những độc thoại, đối thoại của các nhân vật trong tác phẩm của Anh. Còn Anh, tôi hiểu, Anh muốn có người để bộc lộ những suy nghĩ “động trời” mà tôi chỉ là một cái kênh bé nhỏ hạn hẹp. Và nay thì một ý nghĩ cứ dày vò tôi, đáng lý ra, phải làm cách nào để giục giã hơn nữa để anh viết tiếp tập “tùy bút chính trị” mà xem ra bút lực của anh còn quá dư thừa để đưa ra những vấn đề có ý nghĩa rất lớn đến sự nghiệp của chúng ta, mà mỗi người, từ góc nhìn và sự trải nghiệm của mình, đều có thể có những đóng góp, như Anh đã viết : “Họ góp đóm, làm khô củi, tất cả đã sẵn sàng, người phát minh chỉ việc thổi bùng lên ngọn lửa sáng tạo”. Có sức nghĩ nào là muộn đâu? Muộn hay sớm là tùy độ chín của tư tưởng mà mình nung nấu đấy thôi. Với anh, cả một đời cầm bút, tôi hiểu độ chín của tư tưởng Anh đang ấp ủ đáng phải sớm đưa ra để “góp đóm làm khô củi” khiến ngọn lửa nhanh chóng bùng lên, ngọn lửa của sáng tạo, ngọn lửa của tư duy. Đành rằng rồi cũng phải chấp nhận sự nghiệt ngã của sự sống, dù nghị lực sung sức đến mấy cũng không sao cưỡng lại được quy luật của tự nhiên, nhưng “Hồi ức về sự hình thành một bút pháp” đã xong đâu. Mới đây thôi Anh còn hồn nhiên, vui vẻ bông đùa “họ lên đường cả, mình rồi cũng phải chuẩn bị thôi, cho nên nghĩ được đến đâu là tôi viết ngay, đánh máy ngay”. Bàng hoàng lật lại những trang viết, càng cảm được cái sung sức của bút lực, sự mạnh mẽ tinh nhạy của bút pháp để đưa ramột kết luận còn chưa đủ tự tin”, đấy là Anh khiêm nhường mà nói thế, chứ thực ra, Anh đã rất tự tin về độ chín của những câu chảy ra đầu ngọn bút, ở những con chữ hiện hình chầm chậm song chắc nịch từ chiếc máy chữ quen thuộc của Anh.  Chính vì thế mà lại càng đau đớn nghĩ về một công trình đang dang dở trong sự trăn trở. Đấy là sự trăn trở của một ngòi bút trung thực nhưng thận trọng, đang viết ra những dồn nén trong khối óc và trái tim Anh, tuy đã chín trong suy ngẫm, song vẫn còn muốn có thời gian để dòng tư duy mạnh mẽ đủ sức thanh lọc những tạp chất, để chưng cất lại những ý tưởng đúc kết từ chính sự trải nghiệm của cả cuộc đời. Đó là những suy tư quyết liệt và dằng xé : “trong từng cá nhân vẫn còn bao nhiêu năng lực chưa được khai mở, còn bao nhiêu của cải chưa được khai thác, còn bao nhiêu yếu tố của cái phi thường chưa được nuôi dưỡng đúng như nó phải có. Tất cả tùy thuộc vào lòng can đảm ta có dám cởi trói cho chính ta không, ta có dám đối mặt với những thơ ngây, lầm lẫn của chính ta không? Trước hết hãy tự giải phóng mình ra khỏi những định kiến, những nguyên lý, những quy tắc từ lâu đã chả có tác dụng gì nhiều tới những hoạt động thực tiễn cả”. “Nghĩ muộn” là cái tên Anh đặt cho công trình còn dang dở ấy, đã nói lên phần nào động lực thôi thúc Anh viết “Tùy bút chính trị”, mà theo tôi, là một hứa hẹn độc đáo về giá trị tìm tòi và thẩm định của một người cầm bút có trách nhiệm bằng cả chiều dài thời gian và bề dày trải nghiệm. Sự trải nghiệm của một nhà văn từng lăn lộn trên chiến trường và trong nhiều trận địa của cuộc sống. Rồi, “như chợt thức giấc sau một giấc ngủ dài, giương mắt nhìn ra xung quanh, nhìn vào lòng mình bỗng thấy mọi quang cảnh như đã thay đổi. Tất cả đều ẩn giấu những câu hỏi hết sức mới mẻ, hết sức lạ lùng, buộc mình phải có cách trả lời, có trả lời xuôi thì mình mới sống yên ổn được với xung quanh, với chính mình”. Rồi, Anh đã tìm cách trả lời. Trước hết là trả lời cho mình. Từ trả lời cho mình mà góp phần trả lời cho những khúc mắc, dằn xé của cuộc sống, mà tựu chung lại cũng là xoay quanh chuyện con người. “Con người hiện tại là tổng thể của một quá khứ sâu thăm thẳm, làm sao có thể biến cải họ thành người khác trong vòng vài thập kỷ! Mọi bước nhảy, mọi sự rút ngắn, mọi cuộc cách mạng quá khích ở lãnh vực này là vô nghĩa, nghĩ là thành công mà rồi sẽ có ngày phải làm lại cả, lại phải bắt đầu từ cái bắt đầu theo một phương hướng khác”. Những dòng ý tưởng Anh viết trong “Trôi theo tự nhiên”, với cảm thức còn mơ hồ của tôi, chính là nhằm chuẩn bị cho việc hoàn thiện những suy tư kết đọng lại trong “Nghĩ muộn” mà Anh dự định sẽ còn phải chỉnh sửa, còn phải “lật trái lộn phải một nghi vấn, một cách trả lời, một khẳng định còn rụt rè để có đủ sức gạt bỏ sự rụt rè đó, nhằm đưa ra sự khẳng định khi trao nó cho công chúng. Có chăng,“muộn” chính là sự đắn đo khiêm nhường của một ngòi bút có trách nhiệm không cho công bố những suy ngẫm đã đến độ chín, chứ không hề “muộn” những dằn vặt sáng tạo của Anh để hình thành những ý tưởng cần đưa ra vào lúc này. Vả chăng, căn cứ vào đâu để thẩm định về “độ chín của một tư tưởng” nếu không đưa nó ra cọ xát với đời sống thực của con người, của xã hội. Chính cuộc sống thực ấy mới có đủ sự tường minh để mà thẩm định một tư tưởng, một luận điểm, chứ không phải một ai đó nhân danh cho sự độc quyền chân lý để đưa ra những phán quyết. Chân lý là cụ thể, vì thế nó không đứng yên một chỗ, nó phải vận động như chính dòng sông cuộc sống cuồn cuộn tuôn chảy. Quyết định vận tốc của dòng sông ấy là sức cuộn chảy từ bên dưới. “Rút ngắn thời đoạn, đổi người chuyển giao là sẽ bị lịch sử phủ nhận ngay”, đó chính là câu kết tạm thời của cái “tùy bút chính trị” còn dang dở của Anh.  Nhưng anh Nguyễn Khải ơi, công trình nào của cuộc sống mà chẳng dang dở! Có dang dở mới có phát triển. Công trình dang dở của Anh rồi cuộc sống sẽ tiếp tục, và biết đâu, sự dang dở trong tìm tòi và sáng tạo của Anh lại là khởi nguồn cho những bước đi tới mạnh mẽ hơn, quyết liệt hơn. Thì Anh đã những muốn “để cái nghĩ của mình còn giữ được một chút cái tươi, cái mới lúc ban đầu, khỏi bị xơ cứng trong cái chính xác giả tạo, gò ép” đấy sao? Thì Anh chẳng đã “hy vọng những gì mình mong muốn trước sau gì cũng sẽ tới” mà ngay trang đầu của “Nghĩ muộn” như Anh đã viết. Sức nghĩ của Anh chẳng những không “muộn” mà còn thổi vào cuộc đời một làn gió mới có khả năng “làm thay đổi chiều hướng một đời người” mà Anh viết đăng lên báo như một tuyên ngôn trong “Trôi theo tự nhiên” rồi đấy thôi “Sống bằng sự tỉnh táo, không có đam mê lớn, không có hoang tưởng, không có lãng mạn, không dám vươn tới những cái đích không thể với tới, không có những thất bại, những mất mát làm thay đổi chiều hướng một đời người, thì cuộc đời sẽ rất nhạt”. Quả đã có những cuộc đời rất nhạt, nhưng văn nghiệp của Anh, sức “Nghĩ muộn” của Anh sẽ cung cấp năng lượng cho con người vươn tới những cái đích không thể với tới, mà theo lôgic của tư duy trong “Trôi theo tự nhiên”, mà trong suy ngẫm của tôi, chính là nhằm chuẩn bị cho sự hoàn thiện tùy bút “Nghĩ muộn”, thì không có cái đích nào không thể với tới, nếu người ta biết và dám sông với hy vọng những gì mình mong muốn trước sau gì cũng sẽ tới !


 
Bài đăng trên “NDBND”ngày 18.1.2008

 

         ©             http://vietsciences.free.fr   và http://vietsciences.org    Tương Lai