Là một quốc gia
bên bờ biển Đông ngay từ những ngày
đầu dựng nước, quốc gia Đại Việt đã
chú trọng mở rộng lãnh thổ ra biển.
Trong quá trình mở cõi, các chúa
Nguyễn đã phát hiện và khai thác các
đảo thuộc Hoàng Sa, Trường Sa từ khi
chúng chưa thuộc chủ quyền của quốc
gia nào.
Theo Toàn tập
Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư do tác
giả Đỗ Bá soạn vào thế kỷ XVII, ít
nhất đến thế kỷ XVII bản đồ Việt Nam
đã gọi hai quần đảo bằng cái tên
chung là Bãi Cát Vàng và ghi nó vào
địa hạt huyện Bình Sơn, phủ Quảng
Nghĩa. Lúc đó Bãi Cát Vàng còn được
gọi bằng nhiều tên gọi khác như:
Hoàng Sa, Cồn Vàng, Trường Sa, Đại
Hoàng Sa, Đại Trường Sa, Vạn Lý
Trường Sa… và nay là Hoàng Sa và
Trường Sa.
Việt Nam làm chủ
Để thực thi chủ quyền
của mình, các chúa Nguyễn đã cho thành
lập đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải để tiến
hành bảo vệ và khai thác ở hai quần đảo
này từ rất sớm. Việc chiếm hữu của Nhà
nước Việt Nam là thật sự, rõ ràng và đã
thiết lập được một cơ chế thích hợp để
kiểm soát, quản lý, bảo vệ hai quần đảo
và trên thực tế đã thực hiện quyền tài
phán ở đó.
Trong số các tài
liệu, Phủ biên tạp lục của Lê Quý
Đôn là tài liệu cổ, mô tả kỹ càng
nhất về Trường Sa. Lê Quý Đôn là
quan dưới thời nhà Lê, phụ trách
vùng Thuận Hóa, Quảng Nam (nay là
vùng đất thuộc tỉnh Quảng Bình,
Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế, Quảng
Nam, Quảng Ngãi và Bình Định). Ông
đã viết Phủ biên tạp lục vào năm
1776, tại Quảng Nam.
Trong quyển 2 của
Phủ biên tạp lục, Lê Quý Đôn đã xác
định một cách rõ ràng vị trí của
“Đại Trường Sa gần xứ Bắc Hải”. Mà
Côn Lôn với Hà Tiên cũng thuộc phạm
vi hoạt động của đội Bắc Hải. Như
thế Đại Trường Sa hay Hoàng Sa vào
cuối thế kỷ XVIII kéo dài đến ở phía
Nam của biển Đông, tức vị trí của
Trường Sa hiện nay.

Tàu tên lửa hải quân Việt Nam tập luyện
bảo vệ chủ quyền biển đảo. Ảnh: VNE
Tất cả các sách
sử chính thức của Nhà nước do Quốc
sử quán triều Nguyễn biên soạn như
Đại Nam thực lục, Đại Nam nhất thống
chí, Quốc triều chính biên toát yếu,
Việt sử cương giám khảo lược… đều có
mô tả về Hoàng Sa lớn bao gồm hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Điều
đó cho thấy về tổ chức hành chính,
từ thế kỷ XVII, cả hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa đã được các
chính quyền phong kiến Việt Nam
phiên thuộc vào phủ Quảng Nghĩa,
trấn Quảng Nam.
Ngoài các tư liệu
mô tả về địa lý, về các sản vật trên
đảo, các nguồn tư liệu lịch sử để
lại còn cho thấy nhà nước phong kiến
đã chủ đích khẳng định chủ quyền của
mình trên hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa, khảo sát, đo đạc và vẽ
bản đồ khu vực hai quần đảo này. Đặc
biệt là từ thế kỷ XIX, triều đình
nhà Nguyễn đã thực thi nhiều biện
pháp tích cực nhằm thực hiện chủ
quyền của Nhà nước Việt Nam đối với
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Các nước thừa nhận
Bên cạnh các tài
liệu của Việt Nam, chủ quyền của
Việt Nam ở hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa còn được đề cập trong các
tài liệu nước ngoài. Nhiều nhà hàng
hải, nhà nghiên cứu phương Tây đã
từng đến Việt Nam xác nhận Bãi Cát
Vàng, Hoàng Sa, Vạn Lý Trường Sa
thuộc chủ quyền lãnh thổ Việt Nam.
Tác giả Thích Đại
Sán - một vị lão tăng Trung Quốc đến
Việt Nam năm 1695 đã viết cuốn Hải
ngoại kỷ sự có ghi rõ việc các chúa
Nguyễn đã tổ chức khai thác quần đảo
Hoàng Sa. Trong bài Địa lý Vương
quốc An Nam của Gutzlaff có đề cập
việc lập trạm thu thuế và đóng đồn ở
đây.
Đáng chú ý có thể
kể đến An Nam đại quốc họa đồ của
giám mục Taberd xuất bản năm 1838 đã
khẳng định Bãi Cát Vàng là Paracels
và nằm trong lãnh hải Việt Nam. Bản
đồ này là một tài liệu phản ánh sự
tổng kết những hiểu biết sâu sắc và
chính đáng của người phương Tây từ
thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX về mối
quan hệ giữa quần đảo Hoàng Sa và
nước Đại Việt mà tác giả gọi là An
Nam đại quốc.
Như vậy, khi phân
tích các dữ liệu Việt Nam và các tư
liệu nước ngoài cũng như của Trung
Quốc, chúng ta thấy rõ hầu hết các
tư liệu Việt Nam đưa ra đều là tư
liệu chính thức của Nhà nước, minh
xác rõ việc xác lập và thực thi chủ
quyền Việt Nam.
Sau khi thực dân
Pháp thiết lập được ách đô hộ ở Việt
Nam, nhân danh Vương quốc An Nam
theo Hiệp ước Giáp Tuất (năm 1874)
cũng như Hiệp ước Patenôtre năm
1884, chính quyền thực dân Pháp ở
Việt Nam đã chính thức chiếm hữu
Hoàng Sa và Trường Sa trong tình
trạng không có nước nào chiếm hữu.
Sau đó, Bộ Ngoại
giao Pháp đã có một thông tri đăng
trên công báo Pháp ngày 26-7-1933 về
sự chiếm hữu hai quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa. Suốt thời gian từ 1927
đến 1945, chính quyền thực dân Pháp
ở Việt Nam luôn khẳng định chủ quyền
của Việt Nam, chưa bao giờ từ bỏ chủ
quyền Việt Nam ở hai quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa.
Khẳng định chủ quyền liên tục
Cách mạng Tháng
Tám thành công năm 1945, chấm dứt
chế độ thuộc địa và kết thúc sự tồn
tại của triều đình Huế, khiến cơ sở
pháp lý của các hiệp ước Giáp Tuất
1874 và Patenôtre năm 1884 không còn
giá trị. Sau đó, được sự giúp đỡ của
quân Anh, thực dân Pháp đã chiếm lại
Sài Gòn, rồi Nam Bộ từ ngày
23-9-1945, thành lập chính quyền Nam
Kỳ tự trị của người Việt thân Pháp
và sau đó thành lập chính phủ Bảo
Đại thân Pháp, ký kết với Bảo Đại
hiệp ước năm 1947 và tranh thủ sự
công nhận của các nước phương Tây để
chống lại Chính phủ do Chủ tịch Hồ
Chí Minh lãnh đạo.
Các chính quyền
thân Pháp ở Việt Nam hoặc thực dân
Pháp đã liên tục quản lý hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã chiếm
hữu kể trên. Cụ thể, ngày 4-9-1950,
Đổng lý văn phòng của Quốc trưởng
Bảo Đại, Hoàng thân Bửu Lộc, trong
một cuộc họp báo tại Sài Gòn đã công
khai khẳng định lại quyền của Việt
Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa.
Tại Hội nghị San
Francisco ngày 7-9-1951, Thủ tướng
kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Quốc gia
Việt Nam Trần Văn Hữu đã tuyên bố
rằng: “Khẳng định chủ quyền đã có từ
lâu đời của Việt Nam đối với hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa”.
Tuyên bố này đã không gặp sự phản
đối của bất kỳ đại biểu nào trong
hội nghị.
Đến năm 1956, khi
quân Pháp rút khỏi Việt Nam, Trường
Sa được bàn giao cho chính quyền ở
Việt Nam Cộng hòa quản lý đã bảo đảm
tính liên tục thực thi chủ quyền một
cách hòa bình của mình đối với Hoàng
Sa và Trường Sa. Chính quyền Sài Gòn
đã sáp nhập quần đảo Trường Sa vào
xã Phước Hải, quận Đất Đỏ, tỉnh
Phước Tuy.
Trong thời gian
này, Trung Quốc lợi dụng sự xáo trộn
về chính trị ở Việt Nam, đã dùng vũ
lực lần lượt chiếm đóng phần phía
Đông (1956) và sau đó là phần phía
Tây của quần đảo Hoàng Sa (1974),
rồi xâm chiếm toàn bộ quần đảo này.
Chính quyền Sài Gòn đã kịch liệt
phản đối sự xâm chiếm này và đã
thông báo cho các nước và Hội đồng
Bảo an Liên Hiệp Quốc.
Cũng trong thời
gian đó, Chính phủ Cách mạng lâm
thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã
ra tuyên bố lập trường ba điểm về
vấn đề chủ quyền trên hai quần đảo,
bao gồm việc các bên phải cùng nhau
thương lượng để giải quyết vấn đề.
Ngày 14-2-1975, Bộ Ngoại giao chính
quyền Sài Gòn công bố Sách trắng về
các quyền lịch sử và pháp lý của
Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa.
Đến năm 1975, khi
giải phóng miền Nam, Quân đội Nhân dân
Việt Nam đã tiếp quản, tiếp tục trấn giữ
và Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam từ năm 1976 tiếp tục thực thi
chủ quyền của Việt Nam đã có từ lâu đời
trên quần đảo Trường Sa.
Vua Gia Long cho cắm cờ ở Hoàng
Sa
Bộ Đại Nam
thực lục chính biên chứng
minh rõ chủ quyền đối với
Hoàng Sa, Trường Sa: “Năm
Bính Tý, năm thứ 15 đời vua
Gia Long (1816) ra lệnh cho
lực lượng hải quân và đội
Hoàng Sa đổ bộ lên quần đảo
Hoàng Sa để thanh tra và
khám xét thủy trình”.
Sự chiếm hữu
hai quần đảo theo lệnh của
vua Gia Long cũng được chứng
nhận bởi các tài liệu của
phương Tây. Bài viết của
M.A. Dubois de Jancigny mô
tả: “…
Bản đồ Biển Đông Việt Nam do
người Hà Lan vẽ vào năm 1754
(ảnh do Lê Văn Trường chụp
lại)
Từ hơn 34
năm, quần đảo Paracel, mang
tên là Cát Vàng hay Hoàng
Sa, là một dải đảo quanh co
của nhiều đảo chìm và nổi,
quả là rất đáng sợ cho các
nhà hàng hải, đã do những
người Nam Kỳ chiếm giữ.
Chúng tôi
không biết rằng họ có xây
dựng cơ sở của mình hay
không, nhưng chắc chắn rằng
vua Gia Long đã quyết định
giữ nơi này cho triều đại
mình, vì rằng chính ông đã
thấy được rằng tự mình phải
đến đấy chiếm lấy và năm
1816 nhà vua đã trịnh trọng
cắm ở đây lá cờ của Nam Kỳ”.
|
http://nld.com.vn/20110612121640275p0c1002/viet-nam-som-xac-lap-chu-quyen-bien-dao.htm
Kỳ tới: “Đường lưỡi bò” hão huyền
TS Trần Nam Tiến (Trung tâm Nghiên cứu
biển đảo - Trường ĐH KHXH & NV TPHCM)