Những cú lừa trong thế giới đồ cổ - Kỳ 4
Bức tượng “mỗi ký 80 triệu USD”
TT - Tin theo lời đồn mỗi ký đồng đổi màu giá 80 triệu USD, chị Vũ Thị Hương bị cuốn vào một cuộc mua bán bức tượng, nhưng thực chất là một cuộc lừa bài bản và tinh vi đến không ngờ...
Những bức tượng giả của nhóm lừa đảo - nh: TÙNG TRẦM |
Phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ “lừa đảo tượng cổ đổi màu” tại TAND tỉnh Kiên Giang hôm 13-7-2015 thu hút sự quan tâm đặc biệt của rất nhiều người.
Sự thu hút không phải tính chất đặc biệt nghiêm trọng của vụ án mà nằm ở chiêu lừa, những chiêu lừa tinh vi và hoàn hảo đến không ngờ.
Cái kết cho những kẻ lừa đảo
Đứng trước vành móng ngựa là ba bị cáo: Trà Trung Tín, Nguyễn Văn Song (cùng trú tại huyện An Minh, tỉnh Kiên Giang) và Nguyễn Thị Tuyết Lan (trú ở thị trấn Gò Quao, Kiên Giang). Bảy người bị hại sống nhiều nơi như Bảo Lộc (Lâm Đồng), Bình Thạnh và Thủ Đức (TP.HCM), Tân Uyên và Thuận An (Bình Dương), Long Biên và Thanh Trì (Hà Nội).
Trà Trung Tín vốn buôn bán đồ đồng mỹ nghệ, sau đó đi cóp nhặt “bí kíp” làm tượng đồng đổi màu, rồi cùng câu kết với Lan và Song đóng giả làm người thân hoặc vợ chồng để lừa đảo. Chiêu thứ nhất mà Tín học được là làm tượng đồng “tự đổi màu”.
Tín mua tượng đồng mới, thuê thợ hàn gió đá đổ chì vào tượng cho nặng, dùng axit rửa sạch lớp xỉ, sau đó dùng một loại axit khác quét lên bề mặt rồi quét lớp thủy ngân lên.
Nếu dùng vật nhọn rạch hay giũa đi giũa lại thì chỉ sau ít phút thủy ngân sẽ kéo liền lại, che phủ dấu vàng màu bông bí của đồng bên trong. Tín lu loa với người mua là đồng tự đổi màu.
Chiêu thứ hai mà Tín tìm được là làm tượng đồng đen. Tín mua tượng giả cổ, thuê thợ đổ chì vào đầy bên trong cho nặng, rồi thoa dung dịch CuSO4 lên bề mặt và ngâm trong nước javel...
Tín móc nối với Nguyễn Thị Tuyết Lan và Nguyễn Văn Song, diễn giải chiêu trò cách biến đồng đổi màu và đóng giả làm người thân hoặc vợ chồng để tìm cách lừa bán tượng giả.
Với thủ đoạn trên, từ đầu năm 2013 đến tháng 5-2014, ba bị cáo đã tiến hành lừa đảo bốn vụ, chiếm đoạt tài sản của bảy người với số tiền hơn 2 tỉ đồng...
Đến cuối năm 2014, từ đơn tố giác của các nạn nhân, Công an tỉnh Kiên Giang đã vào cuộc điều tra, lật tẩy các trò lừa đảo. Ngày 12-8-2014 Song và Lan bị bắt. Hơn nửa tháng sau, ngày 30-8-2014, đến lượt Tín phải tra hai tay vào còng.
Cả ba bị cáo bị quy tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, Tín bị 17 năm tù, Song 12 năm tù và Lan 7 năm tù. Bản án cũng cho biết liên quan đến trò lừa đảo còn có một người tên Tuấn (ở La Gi, Bình Thuận) - theo lời khai của Tín, tuy nhiên nhân thân và lai lịch không chứng minh được.
Sập bẫy “tượng đồng đổi màu”
Nạn nhân Vũ Thị Hương - Ảnh: THÁI LỘC |
Cuối tháng 7-2015, lần theo bản án, chúng tôi tìm đến nhà một nạn nhân là chị Vũ Thị Hương (phường 2, TP Bảo Lộc, Lâm Đồng). Dù đã giới thiệu trước là nhà báo, nhưng chị Hương tiếp đón chúng tôi trong trạng thái rất căng thẳng vì lo sợ là người nhà phạm nhân đến trả thù.
Sau một hồi trấn an bằng thẻ nhà báo và những giấy tờ liên quan, cùng câu chuyện và sự chia sẻ, chị Hương mới trấn tĩnh để kể câu chuyện. Chị cho biết: “Chiêu lừa quá hoàn hảo, tinh vi đến mức quá dã man”...
Giữa năm 2012, một người bạn của chị Hương tên D. đến Bảo Lộc chơi và có nói nhiều về chuyện đồng đổi màu.
Cho dù chị bỏ ngoài tai nhưng D. cứ nằng nặc kể, nào là rất nặng, bằng nắm tay mà cả chục ký, dùng dao rạch qua thấy màu vàng bông bí bên trong rồi để một lát thì tự liền lại, nào là mỗi ký sẽ được một tập đoàn mua đến 80 triệu USD...
Nghe chuyện khó tin nên chị Hương để ngoài tai. Một thời gian sau qua Phan Thiết có việc, chị Hương ghé thăm bạn thì D. khuyên nên đi môi giới đồng đen, chỉ cần ít tiền đối ứng cho tập đoàn sẽ rất nhanh giàu.
Khi về lại Lâm Đồng, D. gọi điện nhờ chị Hương tìm mối bán thông tạp cho một người bạn tên Tuấn làm nghề san lấp mặt bằng. Sau khi được giới thiệu, trong khoảng mười ngày đầu, tối nào Tuấn cũng điện thoại chuyện trò, tạo cảm giác quen thân.
Đầu năm 2013 Tuấn lên Bảo Lộc. Trong bữa cơm chung, Tuấn chợt hỏi: “Có bao giờ Hương nghe chuyện đồng chưa?”. “Anh có hả?”. “Anh không có, nhưng người nhà bạn anh ở Rạch Giá cào được hai cái rương, trong có bức tượng gần cả tạ vàng 18k và mấy món tượng đồng rất quý!”.
Nghĩ đến bức tượng 80 triệu USD mỗi ký, chị Hương vặn hỏi và được nối máy cho Trung (Trà Trung Tín giả danh) ở Rạch Giá.
Nghe Tín diễn tả y chang như lời D. nói hôm nào. Diễn biến rất tự nhiên của sự việc đã khiến Hương tin ngay và đặt vấn đề giá cả để mua. Tín mời chị Hương về Kiên Giang để giao dịch.
Điện thoại lại cho D. kể về toàn bộ câu chuyện, D. khuyên nên đi ngay nên chị Hương thuê xe cùng Tuấn đi Kiên Giang liền trong đêm.
Tại Kiên Giang, Tín giới thiệu sang Tư (Nguyễn Văn Song giả danh), người giữ những bức tượng tại ấp 8, xáng 1, huyện An Minh. Sau nhiều lần “cò kè”, chị Hương mới tiếp cận được bức tượng và thử bằng giũa sắt.
“Tư lấy ra một pho tượng nhỏ màu sáng sẫm, cao chừng 15cm kể cả bệ ngồi. Tưởng nhẹ tôi cầm thử nhưng rất nặng, phải bê cả hai tay mới nổi. Tôi giũa qua thì thấy lộ ra màu vàng bông bí. Sau chừng năm phút, vết giũa tự lành trả lại màu sáng sẫm ban đầu. Tôi gọi về Bình Thuận cho D., cậu ấy nói cứ tìm cách giữ chân, để D. đưa người của tập đoàn xuống!”.
Sau hơn một tuần, chị Hương hỏi mượn và nhờ D. mang tiền về Kiên Giang mua tượng. Bức tượng sau đó được chị Hương mua với giá 545 triệu đồng, rồi đưa về Bình Thuận để “giao cho tập đoàn”.
Ngày 21-1-2013, tượng được khò qua máy và lộ rõ đồ giả, chị Hương tức tốc về Kiên Giang. Ngày 22-1-2013, chị trình báo Công an Kiên Giang toàn bộ vụ lừa đảo nói trên...
Chị Hương kể chuỗi ngày tiếp theo là khoảng thời gian kinh hãi nhất trong đời. Trước tiên, D. buộc chị phải trả gấp 400 triệu đồng, nếu không dọa kiện Hương cấu kết với nhóm lừa đảo. Chị phải bán toàn bộ xe cộ, vật dụng trong nhà và vay nóng bên ngoài để đủ tiền trả cho D..
Sau khi vay nóng hai tháng không có tiền trả, ngày nào cũng có nhóm “đầu gấu” đến đòi tiền với đủ trò dọa dẫm, đập phá đồ trong nhà. Sức ép quá lớn buộc chị xin chồng cầm cố ngôi nhà để vay ngân hàng trả nợ.
Cho đến cuối tháng 7-2015, chị cho biết vẫn còn nợ 300 triệu đồng, gồm ngân hàng 270 triệu đồng và 30 triệu đồng vay bên ngoài.
Tiền bạc mất chưa nói. Mất mát lớn nhất của chị Hương chính là khủng hoảng tinh thần suốt thời gian dài. Đặc biệt sau vụ việc, chuyện vợ chồng của chị cũng tan vỡ...
“Dù càng kể càng đau, nhưng tôi cũng mong chuyện của tôi được nhiều người biết để tránh những chiêu lừa tán gia bại sản này. Tôi cũng nhờ cơ quan pháp luật có biện pháp buộc bên lừa đảo trả lại số tiền mất mát mà tòa đã tuyên cho tôi!” - chị Hương chia sẻ.
_______________
Kỳ tới: Đồ giả ung dung vào... bảo tàng
Những cú lừa trong thế giới đồ cổ - Kỳ 5
Đồ cổ giả ung dung vào… bảo tàng
TT - “Thật buồn cười. Năm 2013, tôi đến nhà S. thăm thì thấy bức phù điêu này trong sân. Tôi hỏi thì S. nói là đồ mới để chơi vui, giá chỉ 2,5 triệu đồng. Giờ thì thấy nó nằm trong... Bảo tàng Quảng Trị rồi”!
Biên bản bàn giao hiện vật phù điêu Brahma cho Bảo tàng Quảng Trị
Nhà nghiên cứu B. gửi tôi hình scan bài báo đăng trên một tạp chí sử học uy tín và không quên đính kèm bức ảnh cũ do ông chụp bức tượng này lúc ấy và chỉ ra những điểm vô lý...
Bản lý lịch hoành tráng
Lần theo bài báo, chúng tôi đến Bảo tàng Quảng Trị và được ông giám đốc Lê Đình Hào giới thiệu tác giả bài báo Hoàng Ngọc Thiệp, đang là cán bộ phòng nghiệp vụ của bảo tàng. Ông Thiệp dẫn chúng tôi tiếp cận bức phù điêu đang lưu kho bảo tàng.
Nhìn qua, có thể nhận ra ngay đây chính là bức phù điêu ở nhà anh S. từ mấy năm trước.
Từ hình chạm nổi thần Brahma, hình dáng những góc vát quanh phù điêu, rồi vết vỡ nhỏ trên ngón cái của bàn chân phải bức tượng; những vết mòn trên gờ của hai đồ vật mà vị thần này nắm trên tay; nốt màu vàng chừng 2cm2 ở viền phù điêu...
“Biên bản giao nhận” hiện vật có cả xác nhận của chính quyền địa phương ghi rõ: “Phù điêu thần Brahma được tạo tác trên một khối đá hình vòm cuốn, màu xám, có ba đầu, một mặt chính diện và hai mặt hướng về hai phía.
Tóc búi tó về phía sau, đầu đội mũ hình cánh sen, thân hình nở nang, rắn chắc, hai tay được tạc trong tư thế ép sát hông, khuỷu tay tựa lên hai bắp đùi, hai bàn tay cầm hai binh khí. Ngang hông có quấn dải xămpốt dài”.
Bản “lý lịch hiện vật” của Bảo tàng Quảng Trị cũng xác định rõ là: “Phù điêu Brahma. Đá sa thạch, còn nguyên hình dáng, nhiều chi tiết bị bào mòn bề mặt”.
Người sưu tầm hiện vật là Nguyễn Cường và Trịnh Cao Nguyên, cán bộ Bảo tàng Quảng Trị. Phù điêu cao 85cm, rộng 49cm. Văn bản cũng khảo tả đặc điểm về chất liệu, nội dung, tình trạng...
Phù điêu Brahma do nhà nghiên cứu B. chụp tại nhà ông S. ngày 1-11-2013 - Ảnh: T.B
Hiện vật được sưu tầm vào ngày 25-12-2013. Theo hồ sơ hiện vật, bức tượng được Bảo tàng Quảng Trị mua lại của ông Nguyễn Trí Tý - một người buôn cổ vật ở khu phố 8, phường 5, TP Đông Hà, tỉnh Quảng Trị - với giá 17 triệu đồng.
Bản lý lịch hiện vật cũng cho biết: “Theo chỉ dẫn của những người chơi cổ vật trong Hội Di sản văn hóa Quảng Trị về một phù điêu Chăm, chúng tôi đã tiếp cận và nhận thấy đây là một tấm phù điêu tạc thần Brahma thường được thờ cúng ở các đền tháp Chăm.
Chủ nhân của tấm phù điêu, anh Nguyễn Trí Tý, cho biết trong lúc đào móng xây dựng nhà đã phát hiện nó nằm ở độ sâu hơn 1m, cách đây đã hơn 4 năm.
Khu vực phát hiện nằm kề khu đất gọi là cồn Giàng thuộc địa phận làng Trà Liên, xã Triệu Giang, huyện Triệu Phong; cũng trong khu vực này nhiều năm trước đây, Bảo tàng Quảng Trị đã đưa về và hiện đang trưng bày hai tấm phù điêu lá nhĩ, đầu tượng tu sĩ...
Nhận thấy đây là một hiện vật có giá trị cho nghiên cứu khoa học cũng như trong trưng bày và được sự đồng ý của chủ nhân, chúng tôi đã đưa hiện vật về bảo quản tại kho cơ sở của bảo tàng...
Qua nghiên cứu các họa tiết điêu khắc và căn cứ vào kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học về tháp Trà Liên, phù điêu Brahma này thuộc phong cách nghệ thuật Đồng Dương (nửa cuối thế kỷ thứ IX).
Với những giá trị đó của hiện vật, chúng tôi đã làm hồ sơ khoa học và pháp lý để đưa hiện vật về bảo quản tại kho cơ sở bảo tàng, phục vụ cho công tác nghiên cứu và trưng bày về sau”.
Người đứng tên duyệt bản lý lịch này là ông Mai Trường Mạnh, khi ấy là giám đốc Bảo tàng Quảng Trị.
Phù điêu lưu kho Bảo tàng Quảng Trị chụp ngày 14-7-2015 - Ảnh: THÁI LỘC
Bảo tàng “dính” quả lừa
Vào tháng 11-2013, người viết bài này cũng đã ghé thăm nhà anh S., một nhà buôn đồ cổ ở xã Phú Thượng, huyện Phú Vang, Thừa Thiên - Huế, và thấy bức phù điêu nói trên nằm lăn lóc ở sân.
Anh S. cho biết bức phù điêu hoàn toàn là đồ mới, được đưa về từ một vườn tượng ở Tuy Phước, Bình Định. Theo diễn giải của anh S., ở Bình Định hiện có rất nhiều vườn tượng tương tự, làm các loại tượng theo kiểu tượng Chăm cổ để bán.
Rất nhiều chủ khu nhà vườn, biệt phủ của đại gia mua về bày biện, đặc biệt là những khu du lịch lớn mua hẳn cả bộ sưu tập về trang trí sân vườn... Nhiều cơ sở, vườn tượng có những bức dầm mưa dãi nắng đến 20 - 30 năm nên trông cũ kỹ, người không rành nhìn qua rất giống tượng cổ.
“Nó 100% là đồ mới. Thật ra thì tui không mua bức phù điêu này đâu. Nhưng khi đổi đồ cổ với anh B. ở Bình Định lấy một món đồ sứ, do còn thiếu 2,5 triệu đồng nên anh B. cáp thêm cái phù điêu này vào luôn. Tui thấy cũng bắt mắt nên đem về để ở sân vườn cho vui!”- anh S. cho biết.
Để trong sân nhà anh S. một thời gian, một dân buôn cổ vật ở thị xã Hương Thủy (Thừa Thiên - Huế) đến xin nhận đem đi bán.
Người này đưa phù điêu ra Quảng Trị và bán cho một dân buôn cổ vật ở TP Đông Hà. Bức phù điêu sau đó được “vẽ” nên một lý lịch, xuất xứ, rằng là đào được từ một khu vực có phế tích tháp Chăm nổi tiếng để bán.
Ông Mai Trường Mạnh, giám đốc Bảo tàng Quảng Trị giai đoạn ấy (nay là giám đốc Thư viện Quảng Trị), thừa nhận vì không có kinh phí nên không có điều kiện để mời các chuyên gia có chuyên môn giám định.
Do đó, trước khi mua hiện vật, ông chỉ quyết định thông qua sự thẩm định bởi hội đồng khoa học của đơn vị gồm các cán bộ của bảo tàng.
“Cũng phải khẳng định rằng hội đồng khoa học cấp cơ sở của bảo tàng tỉnh thì trình độ kiến thức anh em cũng có hạn. Trong khi để giám định được hiện vật cần phải có chuyên gia giỏi và thiết bị máy móc.
Do đó, rất hạn chế trong chuyện trao đổi hiện vật”, ông Mạnh chia sẻ. Theo ông, mỗi năm nguồn của tỉnh Quảng Trị cấp cho việc sưu tầm hiện vật (gồm cả công tác phí và kinh phí họp hội đồng khoa học...) chỉ 50 triệu đồng. Do đó, “không thể mua được tư liệu hiện vật có giá trị được”.
Khi chúng tôi đưa thông tin từng tiếp cận với bức phù điêu này trước đó, và biết rõ nó là đồ mới kèm theo xuất xứ, ông Mạnh chua chát: “Có thể anh em bị lừa. Cũng do trình độ năng lực anh em đi sưu tầm hạn chế nên mới có thể nhầm. Đó là tai nạn nghề nghiệp, là điều không ai mong muốn!”.
Sai về phong cách
“Khuôn mặt của phù điêu tạc bị “bẹt”, không đúng phong cách, tạc không sắc sảo, không mang vẻ Chăm. Đây hẳn là tư thế thần Shiva múa điệu “Vũ trụ” mà đưa mặt thần Brahma vào là sai rồi.
Hai bầu vú tạc cũng không cân đối, vả lại phù điêu tạc ngực phụ nữ trong khi Brahma là nam thần. Xămpốt cũng rất lạ, mang phong cách Khmer nhiều hơn. Người tạc tượng sai kiến thức. Brahma thường cầm pho kinh Vệ Đà chứ không phải cầm những vật đang cầm.
Cách đây mấy năm, anh T.B. đã gửi tôi hình bức phù điêu này qua thư điện tử, tôi đã nói rõ những điều này và khuyên anh không nên mua, vì nhìn chung nó kiểu lấy râu ông nọ cắm cằm bà kia!”- tiến sĩ B., chuyên gia về hiện vật Champa và Óc Eo ở TP.HCM (vì lý do tế nhị nên xin giấu tên), cho biết.
_____________
Kỳ tới: Nghi vấn quanh lô đồ sứ ký kiểu
THÁI LỘC - thailoc@tuoitre.com.vn
Nghi vấn quanh lô đồ sứ ký kiểu tại bảo tàng
TT - Nhắc đến lô đồ sứ ký kiểu (do triều đình đặt các lò sứ ở Trung Quốc làm) đang lưu kho Bảo tàng Lịch sử cách mạng Thừa Thiên - Huế, giới văn hóa và cổ ngoạn ở Huế đều “chì chiết” là đồ giả.
Ông Nguyễn Xuân Yến và cái tô đồ sứ ký kiểu thời các vua Nguyễn - Ảnh: Thái Lộc
Nghi vấn quanh lô đồ sứ ký kiểu tại bảo tàng
Nghi vấn này có từ suốt hơn mười năm qua, trong khi cơ quan chức năng vẫn “chọn giải pháp” im lặng.
Một buổi chiều muộn của năm 2001, ông
Nguyễn Xuân Yến - chủ nhân tiệm đồ lưu niệm - cổ vật tại số
51 Lê Lợi, TP Huế (bây giờ) - chuẩn bị đóng cửa tiệm thì có
một thanh niên bước vào.
Lô đồ cổ gây choáng
Anh ta đứng tần ngần trước tủ đồ cổ bằng sứ. Sáng sớm hôm sau, vừa mở cửa hàng, cũng người thanh niên ấy với balô trên vai bước vào cười chào ông Yến bằng giọng Bắc.
Sau lời thăm hỏi, người thanh niên cho biết quê gốc Nam Định, vào Huế bán lô đồ sứ ký kiểu cổ cho một người thân.thi người này lấy đồ ra khỏi balô, ông Yến thấy choáng vì đây đều là những món ước mơ lâu nay của ông: chín đĩa trà tuyệt đẹp và hai tô hiệu đề Nội phủ thị trung vẽ đôi rồng và Nội phủ thị đoài vẽ cảnh sông núi.
Người này cho biết lô đồ xuất xứ từ một gia đình dòng dõi ở một xã biển bên kia phá Tam Giang, do hoàng thái hậu Từ Dũ trong cung gửi về nhờ cất giữ. Sau một hồi săm soi, ông Yến tin chắc là đồ thật và quyết định mua với giá 38 triệu đồng.
Sau khi mua, một số người trong giới đến xem, người thì gật gù, tán dương; người thì im lặng, dò dẫm. Ông Nguyễn Văn Thắng, chủ một tiệm đồ cổ gần đó, cũng đến xem và bị “hớp hồn” ngay vì nó quá đẹp.
“Nói thật khi ấy tôi tin là đồ thật vì nó hoàn hảo và đẹp tuyệt vời. Nhưng vì số lượng nhiều quá nên cũng sinh nghi, tôi khuyên ông Yến nên thận trọng rồi ra về”, ông Thắng nhớ lại.
Cũng trong buổi sáng ấy, một chuyên gia phục chế đồ gốm sứ đến xem. “Anh ấy không khẳng định là đồ thật hay giả mà chỉ cầm lên nhìn, giở mấy cái trôn lên nói “nghi nghi bác à!”, rồi đi. Nghi ngờ ấy tác động rất mạnh vào tôi nên tôi tiếp tục săm soi và nhận ra đây là đồ giả!”, ông Yến kể.
Đến 2g chiều cùng ngày, người thanh niên bán hàng lúc sáng tiếp tục đến với chiếc balô, hỏi ông Yến có mua hàng nữa không.
Người này tiếp tục soạn ra mấy đĩa sứ, đặc biệt là bốn tô ký kiểu thời Lê -Trịnh: Nội phủ thị đông vẽ ba con lân, Nội phủ thị nam vẽ sen cua, Nội phủ thị bắc vẽ sông núi và Nội phủ thị hữu vẽ rồng phượng.
Ông Yến khẳng định đây là đồ giả và yêu cầu người thanh niên phải trả lại 38 triệu đồng đã mua lô hàng hồi sáng.
Một mặt ông điện thoại báo công an, đồng thời ông cử người theo dõi người thanh niên trên đường về. Người thanh niên vừa về đến phòng trọ trong con hẻm đường Nguyễn Thái Học, trước sân vận động Tự Do, Huế thì cũng là lúc lực lượng công an của TP Huế ập vào.
Người này và một thanh niên khác trong phòng được mời về đồn công an cùng toàn bộ tiền bạc và một số đồ sứ chưa kịp bán.
Đĩa Nội phủ thị hữu, đường kính gần 30cm, được làm nhái nhưng đạt hơn 90% các tiêu chí của đồ thật. Nếu là đồ thật thì hiện vật này có giá bạc tỉ - Ảnh: N.V.M. |
Tỉnh mua và lưu kho
Tại trụ sở công an, cuộc đối chất giữa ông Yến và hai người bán đồ không có điểm dừng. Ông Yến khẳng định toàn bộ là đồ giả và ông bị lừa. Còn hai người bán thì khẳng định là đồ thật, có nguồn gốc xuất xứ hẳn hoi.
Công an khi ấy đã lập biên bản, tịch thu hiện vật lẫn 38 triệu đồng tiền hai thanh niên bán hàng cho ông Yến.
Để xác định thật hay giả, Công an TP Huế khi ấy đã mời Sở Văn hóa thông tin (cũ) đến giám định.
Giám đốc Sở Văn hóa thông tin khi ấy là ông Nguyễn Xuân Hoa đã quyết định thành lập hội đồng giám định do chính ông Hoa làm chủ tịch hội đồng. Hội đồng còn có một nhà nghiên cứu, lãnh đạo Công an TP Huế và hai vị cán bộ sở văn hóa.
“Thật ra lúc ấy chúng tôi cũng thấy ngờ ngợ. Nhưng vì nó đủ bộ và đẹp quá. Nhìn các chi tiết thì thấy nó như là đồ thật. Trước một số ý ngần ngại, chúng tôi yêu cầu chứng minh nguồn gốc.
Chủ nhân của lô hàng đã chứng minh nguồn gốc xuất xứ cũng khá rõ ràng, có cả chứng nhận của chính quyền địa phương. Vì vậy quyết định mua cho bảo tàng. Giá cả cũng không phải là đắt, thậm chí còn rẻ hơn so với thị trường”, ông Nguyễn Xuân Hoa nhớ lại.
Ông Nguyễn Xuân Yến cho biết có mấy lý do để ông xác định nó là đồ giả, đó là: sự nghi ngờ của chuyên gia phục chế gốm sứ; nhiều nét ở đuôi rồng có khác đôi chút so với đồ Lê - Trịnh; nước men cũng hơi non so với đồ cũ; không thể có chuyện đồ “nội phủ” vốn rất quý hiếm, vừa nguyên lành vừa đủ bộ đến mức như vậy...
Sau cuộc giám định, ông Yến tiếp tục khẳng định là đồ giả và nằng nặc đòi lại tiền của mình. Ông Nguyễn Xuân Hoa báo cáo UBND tỉnh và được tỉnh này duyệt chi 45 triệu đồng để mua mấy cái tô Nội phủ nọ.
Vài ngày sau, tại trụ sở Công an TP Huế, ông Yến nhận lại 38 triệu đồng, hai người bán đồ cũng đã được thả ra. Theo ông Văn Đình Thanh, khi ấy là giám đốc Bảo tàng Lịch sử cách mạng tỉnh, sáu cái tô khi ấy được tỉnh mua 44 triệu đồng, sau đó chuyển sang bảo tàng và lưu kho cho đến nay.
Ông Văn Đình Thanh cũng cho biết hơn một năm sau vụ việc kể trên, có thông tin cho biết kẻ bán món đồ đó (người Nam Định) đã bị bắt vì tội lừa bán rất nhiều đồ sứ ký kiểu giả ở miền Bắc.
Lúc đó thông tin về việc Sở Văn hóa thông tin mua đồ giả mới rộ lên. Nhiều người trong giới chuyên môn, kể cả một vị tiến sĩ chuyên ngành đồ sứ ký kiểu, nhiều lần nói thẳng về “vụ mua đồ giả” này.
Theo ông Thanh, lúc ấy tất cả chỉ dừng lại ở thông tin về người Nam Định lừa đồ giả bị bắt chứ không ai có đơn kiện tụng.
Khi chúng tôi đặt vấn đề vì sao nghe thông tin là đồ giả mà không lật lại vụ việc, ông Nguyễn Xuân Hoa cho biết:
“Trước thông tin đồ giả, tôi cũng nghe vậy thôi chứ không có chứng cớ gì. Lúc đó đã mua (hiện vật) được 1 - 2 năm rồi. Sở dĩ không lật lại vụ việc đó vì không có đơn thư kiện tụng hay phản ảnh nên không có cơ sở để xem xét. Còn nếu là đồ giả thì chúng tôi, hội đồng cũng không tránh được trách nhiệm!”.
Ông Hoa cũng cho rằng trong số những người khẳng định là đồ giả, không phải ai cũng chứng kiến tận mắt hiện vật. Họ chỉ nói đến người bán đồ giả bị bắt rồi suy luận mà thôi.
“Tất nhiên một người mà nhân thân như vậy thì vụ (bán cổ vật) ở Huế có thể đã bị đánh tráo”, ông Hoa nói. Một vị nguyên giám đốc một bảo tàng ở Huế khẳng định: “Tôi chắc chắn đó là đồ giả 100%. Hồi đó tôi phản ứng ngay từ đầu, khi mua".
Sẽ kiểm tra việc này
“Đây là lần đầu tiên tôi nghe đặt vấn đề về vụ việc này. Bây giờ cũng rất khó, vì chuyện đã lâu rồi, mà hồi đó (khi mua) tôi đang làm ở Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế. Khi sang tiếp quản ở sở thì không nghe ai đề cập đến chuyện này.
Tôi sẽ kiểm tra lại thông tin, sẽ hỏi lại các bên, các bộ phận thụ lý sự việc và người trong hội đồng thẩm định xem như thế nào”.
_________
Kỳ tới: Câu hỏi quanh chiếc Linga bằng vàng
THÁI LỘC (thailoc@tuoitre.com.vn)Câu hỏi quanh chiếc Linga bằng vàng
09/09/2015TT - Giới chuyên môn đang xì xào nghi chiếc linga bằng vàng được Bảo tàng Lịch sử VN tại TP.HCM mua với giá tương đương 4 lượng vàng chỉ là đồ giả.
Câu hỏi quanh chiếc linga bằng vàng
Linga bằng vàng và nhóm hiện vật được cho là thuộc văn hóa Óc Eo thế kỷ thứ 5 - 6 đang trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử VN ở TP.HCM - Ảnh: THÁI LỘC
Một sinh thực khí nam (linga) bằng vàng nhỏ cỡ ngón tay út nhưng gây được sự chú ý đặc biệt của nhiều người tham quan tại gian trưng bày văn hóa Óc Eo (nền văn hóa của vương quốc Phù Nam từ thế kỷ 1 đến thế kỷ 7) thuộc Bảo tàng Lịch sử VN tại TP.HCM.
Đồ Óc Eo thế kỷ thứ 5 - 6
Cuối năm 2007, phái đoàn của Bảo tàng Lịch sử VN tại TP.HCM đã lên đường về thị trấn Óc Eo (Thoại Sơn, An Giang) để mua linga vàng, được cho là phát hiện trong vườn nhà dân. Người bán là bà Đỗ Thị Luyến (ấp Tân Hiệp B, thị trấn Óc Eo).
Ngoài người của bảo tàng, cùng đi còn có một vị giáo sư chuyên ngành khảo cổ và ông Vũ Kim Lộc, nhà chuyên môn về cổ vật bằng kim loại quý.
Một người trong đoàn khi ấy kể: đến nhà, bà Luyến đưa ra linga bằng vàng và mấy mảnh vàng vụn, đất bên trong cái hộp vẫn còn lõm hình linga.
Sau khi hỏi han gia chủ và trao đổi chuyên môn, lãnh đạo bảo tàng quyết định mua với giá tương đương bốn lượng vàng...
Hồ sơ hiện vật cho biết chiếc linga bằng vàng dài 25,51mm, cạnh dưới 7,47 x 7,29mm, nặng 5,38 chỉ, một miếng lá hình hoa cùng một số lá vàng “phèo” mỏng và một hộp đồng hình tròn bị vỡ nắp đường kính gần 7cm...
Biên bản giám định lập tháng 11-2007 ghi rõ: “Sau khi xem xét kỹ các hiện vật và thảo luận (hội đồng) nhất trí như sau. Các hiện vật số thứ tự một (linga), hai (miếng vàng) và ba (“phèo” vàng) đều là vàng thật. Hiện vật số một và hai ở tình trạng nguyên vẹn.
Hiện vật thứ ba và bốn (hộp đồng) bị mủn nát, không có khả năng phục nguyên... Kỹ thuật tạo tác và trang trí hiện vật thuộc văn hóa Óc Eo. Kết luận: các hiện vật trên thuộc văn hóa Óc Eo, thế kỷ thứ 5 - 6”.
Kèm theo hồ sơ này còn có giấy cam đoan viết tay của bà Đỗ Thị Luyến với nội dung cam kết là đồ thật đào được trong vườn nhà: “Là đồ chính tay tôi đào được, không trao đổi, sửa chữa. Tôi chịu trách nhiệm trước pháp luật và hoàn lại số tiền nếu cơ quan chức năng giám định là đồ giả”...
Khi nhóm hiện vật này được đưa ra trưng bày thì bắt đầu xuất hiện nhiều lời xì xào trong giới chuyên môn.
Theo một người chuyên đồ cổ kim loại quý ở TP.HCM: “Người trong nghề nhìn qua là biết ngay đồ mới vì đường nét rất thô, kỹ thuật chế tác rất thường, sơ đẳng, đặc biệt là cái này không có lớp patin (thường được gọi là lớp thời gian, tương tự một dạng “phong hóa”- PV) phủ bên ngoài”.
Một vị cán bộ thuộc Bảo tàng Lịch sử VN tại TP.HCM cho biết rất nhiều bạn bè, đồng nghiệp của ông và người nước ngoài đến tham quan đều bảo sao bảo tàng trưng bày đồ giả. “Họ nói nặng lời lắm. Tôi biết chứ sao không...” - vị này bức xúc.
Về chuyên môn, vị này nhận xét: “Hồi xưa vật thiêng như thế này người ta thường đúc liền khối rất đẹp. Chất vàng xưa cũng rất khác, màu vàng xưa cả ngàn năm thì sậm lại, nhìn qua ấn tượng ngay liền.
Trong khi hiện vật này làm không đạt, vết mài giũa rất cẩu thả. Riêng phần cuối, bốn cạnh tượng trưng cho bốn mặt của thần Brahma thì làm quá vụng và dấu vết làm mới quá lộ liễu!”.
|
Có bị đánh tráo?
Nhà bà Đỗ Thị Luyến ở trên đường mòn vào chân núi Vọng Thê (Ba Thê) tại ấp Tân Hiệp B, thị trấn Óc Eo. Tiếp chúng tôi, bà vui vẻ kể lại chuyện đào được vật quý:
“Khoảng giữa năm 2006 khi đào trong sân vườn để trồng cây, tôi cuốc nhằm những tảng đá cứng. Kinh nghiệm cho thấy đây có thể là một ngôi mộ cổ, tôi trao đổi với người con rể hi vọng tiếp tục đào sẽ có nhiều hiện vật quý.
Hết lớp đá cứng đến lớp đá mục, tôi tiếp tục đào và gặp lớp gạch chất theo hình vuông. Tách lớp gạch ra là gặp một chiếc hộp bằng kim khí hình tròn.
Cầm hộp lên mở ra thì nắp hộp vỡ vụn, bên trong có một vật màu vàng và nhiều mảnh vàng rất mỏng. Tôi cũng có ý đào quanh nhưng chẳng gặp thứ gì quý giá nên lấp lại”.
Thời gian đầu rất nhiều thương lái đồ cổ đến hỏi mua. Có người trả đến hai, ba lượng vàng nhưng bà không bán. Một bảo tàng của An Giang được một người giới thiệu đến, bà Luyến đòi bốn lượng vàng, đơn vị này không mua.
Sau đó, một vị phó giám đốc bảo tàng này giới thiệu cho Bảo tàng Lịch sử VN tại TP.HCM về xem, họ đồng ý mua giá bốn lượng vàng, lúc ấy là 52 triệu đồng.
Chúng tôi may mắn tìm gặp được người giới thiệu, đó là ông Út Hoa (tên thật là Phạm Ngọc Hoa, chủ một cơ sở kinh doanh vật liệu xây dựng) tại thị trấn Núi Sập, huyện Thoại Sơn.
Ông Hoa cho biết rất nhiều lần đến coi và trả giá đến 30 triệu đồng nhưng bà Luyến không bán, do đó mới giới thiệu cho bảo tàng.
“Hồi đó ai muốn chụp thì chụp, ai muốn làm gì thì làm à. Tôi đến cầm trên tay rất nhiều lần. Nhưng muốn lấy về thì phải chồng tiền đủ cho bà mới lấy được”, ông Út Hoa kể.
Khi chúng tôi đưa ảnh cho xem, ông Hoa cho rằng hiện vật này sao quá lạ, nhất là cái nốt trắng nằm ở dưới trước đây không có sao bây giờ lại có.
Từ sự nghi ngờ này, ông Hoa cho rằng lúc trước nếu muốn đánh tráo thì rất dễ, chỉ cần đến xin đo vẽ rồi về làm lại một cái y chang, đến xin xem, nhanh tay là đánh tráo được liền.
“Cầm đi cầm lại nhiều lần nhưng tui là người uy tín. Hồi đó tui không suy nghĩ chứ muốn đánh tráo cũng không khó lắm!”.
Điều này phù hợp với lời của bà Luyến: “Hồi đó cứ hai ba ngày là có người buôn, rồi người ngoài tỉnh, ngoài huyện vào xin coi, tôi cho coi hết. Nhưng ai trả đúng tiền tôi mới cho đem đi!”.
Ông Hoa cung cấp một thông tin đáng lưu ý: có ông vốn là “siêu sao” về đồ giả Óc Eo, “đồ gì làm cũng như thật”. Người này cũng nhiều lần lui tới nhà bà Luyến xem hiện vật. Người thứ hai mà ông nghi ngờ chính là ông Vũ Kim Lộc, người chuyên đồ vàng cổ đi theo đoàn về mua hiện vật.
Trước sự nghi ngờ của ông Út Hoa, ông Vũ Kim Lộc khẳng định: “Tôi có theo đoàn đi mua hiện vật nhưng chỉ được mời miệng và đi theo dạng tham quan.
Khi xem qua, bằng kinh nghiệm của mình tôi thấy đây không phải đồ thật. Và tôi cũng đã có ý kiến về điều này. Nhưng những người có trách nhiệm trong đoàn không quan tâm đến ý kiến của tôi và họ quyết định mua.
Có lẽ do tôi là một người không có bằng cấp. Song những người có bằng cấp xác định đồ thật và mua thì đó là việc của họ. Tôi không chịu trách nhiệm!”.
Tin ai đây?
Ông Hoàng Anh Tuấn, giám đốc Bảo tàng Lịch sử VN tại TP.HCM, rất ngạc nhiên trước thông tin hiện vật linga bằng vàng bị nghi là đồ giả.
Ông cho biết mình về làm giám đốc sau này nên chỉ là người kế thừa. Ông nói nên hết sức thận trọng vì điều nghi ngờ chưa biết đúng hay sai.
“Đây là chuyện rất tế nhị vì hội đồng là những người có trách nhiệm. Trong thời điểm hiện tại có những nhà chuyên môn thì mình phải tin vào nhà chuyên môn chứ. Bây giờ có nghe người này nói cái này là đồ giả, người kia nói là đồ thật thì tin vào ai?
Tin vào hội đồng thẩm định của Nhà nước hay là tin vào những tư nhân bên ngoài? Cái đó cũng khó!”.
Tuy nhiên, ông Tuấn cho biết sẽ trao đổi lại với hội đồng thẩm định về nghi vấn này.
_____________
Kỳ tới: Để tránh những “quả lừa”
Để tránh những “quả lừa” đồ cổ giả
TT - Cùng với chia sẻ kinh nghiệm phân biệt cổ vật thật giả, nhà nghiên cứu và sưu tập cổ vật Trần Đình Sơn còn khuyên cách ứng xử trước “thế giới” cổ vật vốn đầy rẫy những chiêu trò tinh vi.
Nhà nghiên cứu Trần Đình Sơn trong một triển lãm cổ vật tại Huế - Ảnh: T.Lộc
Nhà nghiên cứu Trần Đình Sơn nhận xét rằng trước năm 1975, đồ giả cổ từ Hong Kong đưa về giống đồ thật chừng 70% nên người có chút kiến thức rất dễ nhận biết.
Nhưng hiện nay việc làm đồ giả cổ, nhất là đồ sứ, giống hơn 95%; chưa đầy 5% còn lại là vài tiêu chuẩn về cách chợt vẹt, mòn mờ của lớp men bên ngoài. Những điều này chỉ có người lão luyện với thời gian chơi cổ vật lâu năm mới có thể nhận biết được.
Phải nghe ngóng thị trường đồ giả
Đồ sứ cổ trải qua thời gian thì lớp men phần nào cũng xuống màu, soi kính vào thấy chỗ vẹt chỗ mòn rất tự nhiên do lau chùi. Còn đồ giả người ta chà giấy nhám hoặc phun cát làm cho mờ, nhìn thật kỹ thấy vết mờ ấy rất đều.
Cũng nên chú ý đến những chỗ vỡ bịt đồng hay bịt bạc. Đồng hay bạc bịt lâu ngày thì lớp ten sẽ dày vì đã ăn sâu vào trong.
Trong khi phần bịt giả cổ, người ta thường dùng hóa chất tạo lớp đen bên ngoài; lớp này sẽ mỏng nên chỉ cần dùng vật nhọn gí vào, vết rạch phía trong sáng chất kim loại thì đích thị là đồ mới.
Người ta cũng dùng hỗn hợp axit clohydric và thuốc tím phết lên mặt sứ trong ít phút, rửa sạch rồi đem phơi nắng. Cần tinh ý, cẩn trọng sẽ nhận ra sự khác biệt của “lớp thời gian” thật với sự mòn mờ, xỉn màu mới tạo này.
Riêng với đồ sứ ký kiểu, thị trường đồ giả khá sôi động. Từ đầu thế kỷ 20, đã có một gia đình người Hoa ở phố cổ Gia Hội (Huế) đem mẫu đồ Lê - Trịnh và đồ thời Minh Mạng sang Trung Quốc đặt làm rồi đưa về bán cho du khách.
Đến giai đoạn 1965 - 1975, một nhà buôn tên H.V.C. đem nhiều mẫu sang Hong Kong đặt hàng rồi đưa về bán.
Gần đây có đến hai người khá quen thuộc trong giới cổ vật đưa mẫu đồ ký kiểu, cả thời Lê - Trịnh lẫn thời Nguyễn, sang Trung Quốc đặt làm. Những mẫu này làm giống đến hơn 90% so với đồ thật nên rất nhiều người bị nhầm.
Ở đồ đồng cổ, lớp gỉ đồng tự nhiên thường rất dày. Những cổ vật đồng của VN thường có nhiều chì nên lớp gỉ có màu xanh lá cây nghiêng về màu sáng. Trong khi lớp gỉ giả thường có màu xanh lá cây tươi hơn.
Khi làm người ta thường phết lên một hợp chất mua từ Trung Quốc rồi đem đi chôn lâu ngày trong đất tưới nước tiểu và giấm. Do đó nên thận trọng với những đồ cổ đào loại này, thường có lớp gỉ màu xám khá đậm, đồng đều trên các bề mặt.
Ngoài ra, nên quan sát kỹ những cạnh sắc hoặc phần mép dưới đáy đồ vật vì đây thường là chỗ dễ lộ nhất của đồ giả cổ. Nếu quen mắt, “màu thời gian” của đồ đồng cổ rất khác so với đồ giả ở những vị trí này. Điều này rõ nét hơn cả từ những đồ đồng cổ chìm dưới nước ngọt lâu ngày.
Những đồ gỗ sơn thếp, người ta thường dùng keo pha loãng phết lên những khe hở hay góc sâu, để keo hơi khô rồi dùng muội nhang rắc lên... Khi bề mặt đã khô, người ta lau qua tạo nên bề mặt có sự “tích tụ thời gian” khá giống đồ cổ.
Tuy nhiên, chiêu lừa này sẽ khó qua mặt được người rành. Với người mới vào nghề phải nên xem kỹ, nếu những chỗ tích tụ thời gian khá đều đặn thì rất dễ ăn phải “quả lừa”...
Với những loại cổ vật bằng kim khí như tiền vàng, tiền bạc, tiền đồng và khánh vàng... cũng nên thận trọng vì rất dễ nhầm lẫn giữa đồ cổ với đồ cũ.
Tại Huế trước năm 1975, một nhà buôn chuyên làm giả các loại hiện vật này để bán cho du khách khiến những người sưu tập về sau rất dễ nhầm lẫn.
“Cổ vật thì tự bản thân chứa đựng những tiêu chí về đồ thật, đồ quý hiếm hay không chứ không chỉ do xuất xứ mang lại. Nhiều món đồ xuất xứ từ hoàng gia, nhưng thực tế vì những lý do trong cuộc sống mà những hiện vật rất tầm thường vẫn có mặt xen lẫn vào đó.
Ngoài ra, phải hết sức tỉnh táo, đừng chủ quan vì giới lừa không chỉ nhắm vào sự thiếu hiểu biết, mà còn nhằm chủ yếu vào lòng tham của người mua nữa!” - ông Sơn cho biết.
Theo ông Sơn, để tránh vấp phải tình trạng bị lừa cổ vật, điều trước tiên cần phải có kiến thức lẫn thực tế. Nếu không, dù có chơi đồ cổ lâu năm, sở hữu sưu tập lớn hay quản lý một bảo tàng hàng đầu cũng bị lầm như thường.
Ngoài việc phải học hỏi, tích cóp kinh nghiệm thì dù có là giám đốc bảo tàng hay tiến sĩ khảo cổ đi nữa cũng phải theo dõi, nghe ngóng và quan sát cả hiện vật lẫn thị trường đồ giả cho kỹ, biết giai đoạn nào người ta làm giả đồ gì, làm như thế nào.
|
Nhà nghiên cứu văn hóa Hồ Tấn Phan (phải) trong một buổi trao đổi về cổ vật với nhạc sĩ Dương Thụ - Ảnh: T.Lộc |
Phải đưa đồ giả ra khỏi bảo tàng!
Nhà nghiên cứu Hồ Tấn Phan, người có hơn 40 năm chuyên sưu tầm cổ vật trục vớt, cho rằng tất cả bảo tàng khi sưu tầm các hiện vật đều lập ra một hội đồng giám định.
Và thường hội đồng này gồm những người có uy tín, cả về học hàm, học vị lẫn uy tín trong nghề. Trước một hiện vật, có khi hội đồng họp đi họp lại nhiều lần.
Ông Phan nói: “Đáng tiếc tình trạng bảo tàng mua phải hiện vật giả không phải là ít. Bởi vì có trường hợp người trong giới nghiên cứu lẫn người học hàm học vị cao nhưng lại thiếu kinh nghiệm trong nghề, được mời vào hội đồng và góp phần quan trọng quyết định.
Theo tôi, hội đồng nên dung hòa giữa một bên là bằng cấp, một bên là người có kinh nghiệm trong nghề. Điều quan trọng là phải thống nhất với nhau những tiêu chí để dựa vào đó mà giám định”.
Thật ra, theo ông Phan, không chỉ có bảo tàng trong nước mà các bảo tàng lớn, nổi tiếng của nước ngoài đôi khi vẫn mua phải đồ cổ giả, đồ nhái. Thậm chí có cuộc đấu giá quốc tế, hiện vật được giám định bởi một hội đồng chuyên sâu mà cũng bị lầm đồ giả.
Thường những công ty đấu giá phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về công tác giám định và sẽ chịu sự đền bù. Tuy nhiên ở nhiều nước, người ta có chuyên ngành về cổ vật, được đào tạo bài bản, từ việc phân tích cho đến kinh nghiệm được truyền đạt từ những người thầy giỏi nghề.
Các học viên được đào tạo chuyên sâu một lĩnh vực như đồ (cổ) đồng, đồ đá, đồ gốm sứ châu Á hay châu Âu... Còn ở nước ta, ngành học này đang còn thiếu điều kiện, quan trọng nhất là nhiều thầy dạy lại không phải là người giỏi trong nghề.
Bảo tàng có vai trò rất quan trọng, là nơi lưu giữ các hiện vật nguyên gốc. Những hiện vật bảo tàng là nguyên mẫu để người ta dựa vào đó giám định những hiện vật khác.
Hiện vật bảo tàng phải bảo đảm tính khoa học vì đây vừa là cơ quan văn hóa, đồng thời là cơ quan giáo dục khoa học. Do đó, theo ông Phan, nếu bảo tàng nào có bất kỳ hiện vật nào nghi ngờ là đồ giả thì phải đưa ngay hiện vật đó ra khỏi nơi trưng bày.
Hiện vật bày trong bảo tàng phải được giám định lại một cách kỹ càng. Sau giám định lại vẫn xác định đó là đồ giả thì phải đưa ra khỏi bảo tàng.
Cũng có thể bày những món đồ giả ấy vào một chỗ riêng của bảo tàng để người ta biết thế nào là đồ giả, dựa vào đó rút kinh nghiệm, và trở thành một trong những công cụ trực quan để huấn luyện, đào tạo những thế hệ học viên bảo tàng khác - ông Phan nói.
Hồ sơ Những cú lừa trong thế giới đồ cổ