Một trong những vấn đề
nổi cộm của nền kinh tế
Việt Nam năm 2011 là lạm
phát. Đã có những tháng,
Việt Nam nằm trong số các
quốc gia có lạm phát cao
nhất thế giới.
RFA
PHOTO
Rau
quả bán tại một chợ ở TPHCM,
ảnh chụp tháng 4-2011.
Vì sao hiện tượng này
diễn ra và tác động của
nó đến đời sống của
người dân và các doanh
nghiệp ra sao? Vũ Hoàng
ghi nhận lại bức tranh
tổng quát về lạm phát
trong năm 2011 vừa qua.
Thưa quí thính giả,
“lạm phát” “giá cả leo
thang”, “hàng hóa đắt
đỏ”… là những câu chữ
mà chúng ta nghe thấy
hàng ngày và dĩ nhiên
là tác động trực tiếp
đến túi tiền của chúng
ta. Nhưng vì sao hiện
tượng này diễn ra và
lạm phát là gì mà trong
suốt năm qua, Việt Nam
phải “đấu tranh”, phải
“chống lại” như một vấn
nạn.
Xin được trả lời ngay
rằng, “lạm phát” hay chỉ số giá tiêu dùng
là mức tăng của giá cả
hàng hóa và dịch vụ tại
thời điểm này so với
một khoảng thời gian
trước đó, thường được
tính theo tháng hoặc theo
năm.
Nhưng chắc hẳn, quí
vị sẽ tự hỏi, tại sao
“lạm phát” lại xuất
hiện, chẳng nhẽ người ta
không thể loại bỏ được
nó hay sao? Xin thưa rằng,
giá cả hàng hóa tăng hay
giảm là một quy luật
không thể tránh trong một
nền kinh tế thị trường,
khi mọi hoạt động mua
bán đều được quyết định
qua nhu cầu tiêu thụ của
xã hội và mức cung cấp
của nhà sản xuất. Nói
một cách khoa học, “lạm phát” xảy ra khi có
nhiều tiền hơn được lưu
thông và trao đổi trong
một nền kinh tế.
Bài tổng kết của
chúng tôi không đi vào
giải thích cụ thể từng
thuật ngữ, mà chỉ muốn
đem lại đến quí vị một
bức tranh tổng thể về
hiện tượng kinh tế này
trong năm 2011, để phần
nào quí vị hình dung
được vì sao trong năm qua,
đã có lúc chúng ta thấy
như bị “mất cắp” khi đi
chợ, còn doanh nghiệp
thì không thể chống đỡ
nổi “cơn bão giá.”
Thất bại
Thịt heo được bán
theo giá niêm yết
tại siêu Big C ở Hà
Nội, ảnh chụp hôm
14/08/2011. RFA
PHOTO.
Nếu tháng giêng năm 2011,
lạm phát Việt Nam khởi
điểm 7% so với cùng kỳ
năm 2010 thì đúng 3 tháng
sau đó, cuối tháng
4/2011, Tổng cục Thống kê
Việt Nam chính thức thông
báo lạm phát hay chỉ số
giá tiêu dùng (gọi tắt
là CPI) nhảy vọt lên mức
gần 18% so với một năm
trước đó.
Nghe các con số thì
khô khan, nhưng chỉ cần
hình dung thế này, nếu
quí vị, tháng tư năm
trước bỏ ra 100,000 cho
một ký lô thịt heo, thì
đến tháng tư năm nay, quí
vị phải bỏ ra gần
118,000 đồng cũng chỉ để
mua một ký lô thịt heo.
Trong khi lương tháng vẫn
không hề thay đổi, hàng
hóa thì tăng, còn tiền
lương lại cố định, làm
cho quí vị có cảm giác
như như mình vừa bị “lấy
trộm” mất gần 18,000
đồng.
Với mức tăng xấp xỉ
gần 18%, tốc độ leo thang
của giá cả được cho là
tăng nhanh nhất kể
từ hồi năm 2008.
Tuy nhiên, lạm phát
Việt Nam vẫn chưa dừng
lại ở đó. Lạm phát
tháng 7 lên đến đỉnh
điểm, tăng hơn 22% so với
cùng kỳ năm 2010 và tăng
xấp xỉ 15% so với ngày
đầu tiên của năm 2011. Lạm phát tháng 7 của
Việt Nam lúc này ở mức
cao nhất Châu Á và đứng
thứ nhì thế giới, chỉ
sau Venezuela.
Sau những tháng ngày
được coi là hết sức khó
khăn chống chọi với mức
tăng giá cả, lạm phát
bắt đầu có dấu hiệu
chững lại và tốc độ
tăng chậm hơn trong quí 3
và đến những tháng cuối
cùng của năm, lạm phát
được xem là bắt đầu
giảm từ từ, chẳng
hạn ở mức gần 22% trong
tháng 10, xuống gần 20%
trong tháng 11, và 18%
trong tháng 12. Cho đến
khi chúng tôi thực hiện
bài viết này, lạm phát
trung bình cả năm 2011,
là xấp xỉ 19% so với năm
2010.
Như vậy, so với mục
tiêu đề ra ban đầu, khống
chế lạm phát toàn năm ở
mức 7% đã hoàn toàn
thất bại. Mọi câu chuyện
giờ đây là làm rõ trách
nhiệm và chất lượng bộ
máy điều hành vì sao
lại để chỉ số vĩ mô
này không đạt được như
mục tiêu đề ra.
Sản phẩm của chính sách
tiền tệ/tài khóa
Dãy hàng bún tươi ở
một chợ nhỏ HN. AFP
photo
Cũng xin được nhắc lại,
dưới góc độ vĩ mô, có 2
công cụ chính được áp
dụng để điều tiết nền
kinh tế là chính sách
tiền tệ và chính sách
tài khóa mà chúng ta
thường được nghe.
Chính sách tiền tệ
là việc Chính phủ, thông
qua ngân hàng Trung ương
nới lỏng hoặc siết chặt
dòng tiền lưu thông trong
nền kinh tế bằng biện
pháp tăng hoặc giảm lãi
suất và tỉ giá hối
đoái. Còn chính sách
tài khóa là việc áp
dụng tăng hoặc giảm thuế
và chi tiêu của chính
phủ (mà chúng ta thường
nghe là đầu tư công).
Nhắc lại vấn đề này,
TS Lê Đăng Doanh, nguyên
Viện trưởng Viện quản
lý Kinh tế Trung ương cho
biết:
"Lạm phát trước hết là
sản phẩm của chính sách tài
khóa và chính sách tiền tệ,
bởi vì so với các nước trong
khu vực thì lạm phát của
Việt Nam cao nhất và cung
tín dụng, cung tiền của Việt
Nam cũng là cao nhất, và bội
chi ngân sách của Việt Nam
cũng là cao nhất."
Còn nhớ hồi đầu năm,
hàng loạt những sự kiện
lớn của thế giới xảy ra
như những biến động
chính trị ở Trung Đông,
Bắc Phi và thiên tai ở
Nhật Bản đẩy giá tiêu
dùng toàn thế giới lên
cao và Việt Nam cũng bị
ảnh hưởng. Giới hữu
trách cho rằng những yếu
tố khách quan đó ảnh
hưởng đến lạm phát Việt
Nam, nhưng theo lời bà
Phạm Chi Lan, một chuyên
gia kinh tế độc lập hàng
đầu cho biết để lạm
phát xảy ra vẫn là do
yếu tố nội tại trong
nước. Bà nói:
“Tôi cho những nguyên
nhân khách quan đó nó chỉ là
những lý do rất nhỏ thôi. Nó
tác động cả những nền kinh
tế khác nhất là các nước
chung quanh Việt Nam và Đông
Nam Á nhưng họ không có tình
trạng lạm phát như Việt Nam.
Lạm phát trước hết là
sản phẩm của chính sách
tài khóa và chính sách
tiền tệ, bởi vì so với
các nước trong khu vực
thì lạm phát của Việt
Nam cao nhất và cung tín
dụng, cung tiền của Việt
Nam cũng là cao nhất, và
bội chi ngân sách của
Việt Nam cũng là cao
nhất.
TS Lê
Đăng Doanh
Không nên đổ thừa do
những lý do bên ngoài mà
Việt Nam không kiểm soát
nổi. Những lý do chính làm
cho lạm phát cao trong mấy
tháng gần đây tôi nghĩ tất
cả các người nghiên cứu quốc
tế ở tại Việt Nam đều thừa
nhận do những lý do khác,
những lý do nằm trong nội bộ
nền kinh tế Việt Nam.”
Chúng ta còn nhớ việc
phá giá đồng nội tệ hơn
9%, tăng giá xăng dầu lên
gần 3,000 đồng/lít, cho
đến việc điều chỉnh giá
điện sinh hoạt hơn 15%
được thực hiện một cách
liên tục, dồn dập và
thiếu đồng bộ trong một
thời gian ngắn đầu năm
khiến chỉ số CPI tăng
không ngừng ở những
tháng tiếp theo.
Hơn nữa, với nền kinh
tế tăng trưởng quá nóng
từ các năm trước đó,
Chính phủ liên tục bơm
tiền vào nền kinh tế qua
các biện pháp tín dụng
mở rộng, khiến lượng
tiền dư thừa, đẩy giá
cả hàng hóa lên cao một
cách chóng mặt.
Với chính sách
tiền tệ mở rộng,
tổng phương tiện thanh
toán toàn xã hội tính
đến giữa năm lên xấp xỉ
130% lượng GDP. Đi đôi với
tốc tăng trưởng cao là
cái giá phải trả cho
lạm phát cũng bị kéo
lên theo.
Tạp chí kinh tế
Economist hồi tháng 7, đã
xếp Việt Nam vào một
trong 7 nền kinh tế mới
nổi, có nguy cơ tăng
trưởng nóng nhất thế
giới. Riêng về góc độ
“nóng” của nền kinh tế,
trong lần trả lời phóng
viên Nam Nguyên, TS Võ Trí
Thành, Viện trưởng Viện
Kinh tế quản lý Trung
ương nhận xét:
“Theo tôi mức độ tăng
trưởng của kinh tế Việt Nam
còn hơi dưới mức tiềm năng
một chút, xét về góc độ tiềm
năng thì có lẽ nền kinh tế
Việt Nam không phải quá
nóng. Cái ‘nóng’ ở đây là do
sự sai lầm nhất định trong
điều hành chính sách cộng
với việc nền kinh tế trở nên
mở hơn rất nhiều, việc điều
hành cũng khó hơn. Do đó làm
cho lạm phát cao, rủi ro bất
ổn kinh tế vĩ mô cao.”
Minh họa chương
trình bình ổn giá
tại một siêu thị ở
SG tháng 2/2011. RFA
photo.
Với nền kinh tế quá
nóng dẫn đến lạm phát
là điều khó tránh khỏi,
chính sách tài khóa mở
rộng cũng là nguyên nhân
chính khác khiến tổng
lượng tiền chung của
toàn bộ nền kinh tế bị
đẩy lên cao. Cụ thể, là
việc đầu tư công của
chính phủ thông qua chi
tiêu quá nhiều cho khối
doanh nghiệp Nhà nước.
Một lần nữa, bà Phạm
Chi Lan giải thích:
"Chi tiêu công của
Việt Nam trong suốt mấy
năm vừa qua ở một tỷ lệ
khá cao và là một trong
những nguyên nhân gây ra
lạm phát. Chính vì vậy,
trong 6 nhóm giải pháp cơ
bản để chống lạm phát
ở Việt Nam, thì Chính
phủ đề ra việc cắt giảm
chi tiêu công và hạn chế
chi tiêu công xuống. Trên
thực tế, sở dĩ trong
thời gian vừa qua nó chưa
có tác động gì được là
bởi vì việc chi tiêu công
chưa thực sự được cắt
giảm với yêu cầu cần
thiết của nó.
Tôi cho rằng quan
trọng nhất là làm sao giảm
mức tín dụng quá nhiều và
quá lớn ở các doanh nghiệp
Nhà nước cũng như các dự án
liên quan đến đầu tư công.
Bởi vì đây là khu vực
thường gây ra lãng phí
lớn nhất, hiệu quả của
nó thấp nhất và có cả
những nhân tố tham nhũng
ở đó nữa."
Với con số khoảng
300,000 dự án đầu tư công
mỗi năm, lượng tiền đổ
ra cho các dự án này lên
đến nhiều ngàn tỉ đồng
cộng với số tiền thất
thoát 68,000 ngàn tỉ
đồng của Vinashin hay
3,000 tỉ đồng của công ty
cho thuê Tài chính 2 của
Ngân hàng NN và PTNN
khiến lượng tiền đổ ra
thị trường quá nhiều
khiến lạm phát bùng nổ
là điều dễ nhận thấy.
Do đó, vấn đề tái cấu
trúc nền kinh tế hiện
nay với mục tiêu cắt
giảm chi tiêu công đang là
trọng tâm hàng đầu mà
Chính phủ Việt Nam phải
nỗ lực.
Có thể nói rằng, quá
trình đấu tranh chống
lạm phát sẽ còn là câu
chuyện dài hơi, với
quyết tâm kiềm chế lạm
phát, thậm chí đánh đổi
tăng trưởng đang là những
ưu tiên hàng đầu mà
Chính phủ Việt Nam thực
hiện. Hi vọng rằng, sang
năm mới 2012, bức tranh
chung về lạm phát sẽ có
những mảng sáng hơn là
những gam mầu tối như năm
nay.