Những bài cùng tác giả
- Sáng nay, 18/10, Hội thảo quốc gia về "Chúa
Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam
từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX" đã diễn ra tại Thanh
Hóa quy tụ hàng trăm nhà khoa học trong nước và quốc
tế đến dự. Trong lời khai mạc, GS sử học Phan Huy Lê đã đề
xuất các ý kiến tranh luận nên vì sự thật khách quan
của khoa học và trách nhiệm của mỗi chúng ta trước
hậu thế bằng một câu ngắn gọn: Khách quan, trung
thực và công bằng. Chúng tôi xin trân trọng giới
thiệu bài đề dẫn của GS Phan Huy Lê cùng độc giả.
Đầu đề do chúng tôi tạm đặt: Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử
Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX: 1. Quá trình nhận thức và yêu cầu của hội thảo
Nhận thức lịch sử là một quá trình tiến tới tiếp cận
lịch sử một cách càng ngày càng khách quan, trung
thực, gần với sự thật lịch sử nhất trong khả năng
của các nhà sử học. Tôi nói gần với sự thật lịch sử
nhất trong hàm ý là giữa lịch sử khách quan và lịch
sử được nhận thức bao giờ cũng có một khoảng cách mà
mục tiêu và ước vọng của các nhà sử học là rút ngắn
khoảng cách đó. Khả năng này tùy thuộc vào rất nhiều nhân tố, trước
hết năng lực của nhà sử học biểu thị ở trình độ lý
thuyết và phương pháp luận, cách tập hợp và xử lý
các nguồn thông tin, mặt khác là cách nhìn và động
cơ của nhà sử học liên quan đến những tác động chi
phối hay ảnh hưởng của bối cảnh chính trị của mỗi
thời kỳ lịch sử. Do đó, không có gì đáng ngạc nhiên
khi chúng ta cùng nhau thảo luận để nhìn nhận, đánh
giá lại một số sự kiện, nhân vật lịch sử hay cả một
giai doạn, một thời kỳ lịch sử. Thời kỳ các chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn từ thế
kỷ XVI cho đến thế kỷ XIX là một trong những thời kỳ
lịch sử đã trải qua những cách nhìn nhận và đáng giá
hết sức khác nhau, có lúc gần như đảo ngược lại. Vương triều Nguyễn để lại những bộ chính sử đồ sộ
của vương triều biểu là bộ Đại Nam thực lục[1]và
Đại Nam liệt truyện[2].
Những bộ chính sử của vương triều bao giờ cũng chép
theo quan điểm chính thống của vương triều đang trị
vì và nhằm tôn vinh công lao, sự nghiệp của vương
triều. Trên quan điểm chính thống đó, Sử quán triều
Nguyễn phê phán những thế lực đối lập như chúa Trịnh
ở Đàng Ngoài, các lực lượng chống đối như coi Tây
Sơn là "ngụy triều"... Trong xu hướng canh tân phát triển mạnh thời Tự Đức,
một số nhà trí thức cấp tiến đã dâng lên triều đình
nhiều bản điều trần đầy tâm huyết. Trong số điều
trần này, một số tác giả đã nêu lên trên tinh thần
phê phán những mặt tiêu cực, lạc hậu của đất nước
thời Nguyễn, nhất là về kinh tế, quốc phòng và giáo
dục. Tiêu biểu nhất là Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ
Trạch, Đặng Huy Trứ. Như vậy là trong thời kỳ các chúa Nguyễn và vương
triều Nguyễn, bên cạnh quan điểm chính thống tôn
vinh vương triều, cũng đã có những góc nhìn khác từ
những đề nghị canh tân của những trí thức cấp tiến.
Trong thời Pháp thuộc, xuất hiện nhiều công trình
nghiên cứu của người Việt Nam, người Pháp, phần lớn
theo xu hướng vận dụng phương pháp luận hiện đại của
phương Tây. Các công trình nghiên cứu tập trung
nhiều nhất vào việc khảo tả các di tích lịch sử, văn
hóa, các nghi lễ, các công trình nghệ thuật và các
nhân vật lịch sử cùng quan hệ giao thương với nước
ngoài, các thương cảng, đô thị, nhất là kinh thành
Huế. Những kết quả nghiên cứu này, ngoài những ấn
phẩm in thành sách, thường là các luận văn đăng tải
nhiều nhất trên Bulletin des Amis du Vieux Hue
(BAVH), Bulletin de l’ Ecole française d’
Extrême-Orient (BEFEO) và trên tạp chí tiếng
Việt như tạp chí Tri tân, Nam phong, Trung Bắc
chủ nhật"[3]....Một
số bộ sử An Nam của người Pháp như Histoire
moderne du pays d’ Annam của Charles Maybon[4],
Lecture sur l’ histoirre d’ Annam của Ch.
Maybon và H. Russier[5]
cũng nhấn mạnh công thống nhất đất nước và những
thành tựu của triều Nguyễn, đồng thời có xu hướng
nêu cao vai trò trợ giúp của một số sĩ quan và kỹ
thuật Pháp. Trong những nghiên cứu cụ thể về từng phương diện
như vây tuy không đưa những nhận xét đánh giá chung
về các chúa Nguyễn hay vương triều Nguyễn, nhưng tạo
ra cơ sở khoa học cho những khái quát về thời kỳ
lịch sử này. Những nhận xét mang tính đánh giá thể
hiện rõ hơn trong những một số công trình về thông
sử Việt Nam. Ví dụ Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim, trong đó
một mặt tác giả biện giải triều Tây Sơn không phải
là "ngụy triều" như cách nhìn nhận chính thống của
sử triều Nguyễn, mặt khác nêu cao công cao thống
nhất đất nước "đem giang sơn về một mối, nam bắc một
nhà, làm cho nước ta thành một nước lớn ở phương nam
vậy"[6]
Tác giả đánh cao những thành tựu thời Gia Long, Minh
Mệnh, nhưng cũng phê phán triều Tự Đức để cho đất
nước suy yếu và lâm vào"sự nguy vong. Sau cách mạng tháng 8 năm 1945 cho đến năm 1975,
trong thời kỳ chiến tranh, công việc nghiên cứu nói
chung có bị hạn chế, số lượng các công trình nghiên
cứu chuyên đề không nhiều. Nhưng chính trong bối
cảnh này đã xuất hiện một khuynh hướng phê phán gay
gắt các chúa Nguyễn cũng như các chúa Trịnh và đặc
biệt là vương triều Nguyễn thế kỷ XIX. Khuynh hướng
này phát triển ở miền Bắc trong thời gian từ 1954
phản ánh trên một số luận văn trên tạp chí Văn sử
địa, Đại học sư phạm, Nghiên cứu lịch sử và biểu thị
tập trong những bộ lịch sử, lịch sử văn học, lịch sử
tư tưởng Việt Nam... Mỗi tác giả và tác phẩm tuy có mức độ khác nhau,
nhưng tựu trung đều chung khuynh hướng phê phán các
chúa Nguyễn (cũng như các chúa Trịnh) đã chia cắt
đất nước, vương triều Nguyễn mở đầu bằng hành động
cần viện tư bản Pháp, phong kiến Xiêm để tiến hành
cuộc chiến tranh chống Tây Sơn và kết thúc bằng sự
đầu hàng quân xâm lược Pháp. Thời kỳ nhà Nguyễn bị
kết án là thời kỳ chuyên chế phản động nhất trong
lịch sử phong kiến Việt Nam. Khuynh hướng đó gần như
trở thành quan điểm chính thống trong biên soạn sách
giáo khoa đại học và phổ thông. Thái độ phê phán gay gắt trên có nguyên do sâu xa
trong bối cảnh chính trị của đất nước thời bấy giờ
và trong cách vận dụng phương pháp luận sử học của
các nhà nghiên cứu. Quan điểm trên nẩy sinh, xác lập trong những năm từ
1954-1956 và phát triển mạnh cho đến những năm 70
của thế kỷ XX. Đó là thời kỳ cả dân tộc đang tiến
hành cuộc chiến tranh vô cùng ác liệt hoàn thành
nhiệm vụ giải phóng đất nước, thống nhất tổ quốc.
Trong thời kỳ đó, độc lập dân tộc và thống nhất quốc
gia là mục tiêu cao cả, có ý nghĩa thiêng liêng của
cuộc chiến đấu. Vì vậy khi nhìn lại lịch sử, bất cứ
hành động nào xúc phạm hay đi ngược lại độc lập và
thống nhất đều bị phê phán. Cuộc tranh luận về sự
thống nhất đất nước thời Tây Sơn và nhà Nguyễn cũng
tiến hành trong không khí chính trị đó và đã xuất
hiện quan điểm cực đoan cho rằng Tây Sơn đã hoàn
thành, thậm chí hoàn thành triệt để nhiệm vụ khôi
phục quốc gia thống nhất. Bối cảnh lịch sử của cuộc
chiến tranh đã tác động đến thái độ của nhiều nhà sử
học trong nhìn nhận và đánh giá về các chúa Nguyễn
và vương triều Nguyễn, nhất là các cơ quan khoa học
trong hệ thống chính trị đương thời. Nguyên nhân về vận dụng phương pháp luận là thuộc
trách nhiệm của các nhà sử học. Đây là thời kỳ nền
sử học hiện đại xây dựng trên hệ tư tưởng Mácxít
đang hình thành và trong vận dụng phương pháp luận
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nhĩa duy vật
lịch sử phạm những sai lầm của chủ nghĩa giáo điều,
công thức, máy móc. Theo lý thuyết về hình thái kinh
tế xã hội, thời bấy giờ đang thịnh hình quan điểm
cho rằng chế độ phong kiến Việt Nam hình thành trong
thời Bắc thuộc, phát triển đạt đến độ cực thịnh ở
thời Lê sơ thế kỷ XV và bắt đầu suy vong từ thế kỷ
XVI, rồi lâm vào tính trạng khủng hoẳng trầm trọng
vào thời cuối Lê và nhà Nguyễn. Như vậy là thời kỳ các chúa Nguyễn và vương triều
Nguyễn được đặt vào khung suy vong, khủng hoẳng của
chế độ phong kiến và trong bối cảnh đó thì giai cấp
phong kiến không còn vai trò tích cực, không còn đại
diện cho lợi ích dân tộc. Áp dụng lý thuyết hình
thái kinh tế xã hội và đấu tranh giai cấp một cách
giáo điều đã dẫn đến những hệ quả đưa ra những phân
tích và đánh giá lịch sử thiếu khách quan, không phù
hợp với thực tế lịch sử. Không riêng các chúa Nguyễn
và vương triều Nguyễn mà những nhân vật lịch sử liên
quan, và rộng ra cả vương triều Mạc trước đó, đều bị
đánh giá theo quan điểm chưa được khách quan, công
bằng như vậy. Công cuộc Đổi mới khởi đầu từ năm 1986, bắt đầu từ
đổi mới tu duy kinh tế, sau đó dần dần được mở rộng
sang các lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn. Năm
1988 Hội Khoa học lịch sử Việt Nam được tổ chức lại
trên phạm vi cả nước và một trong những hoạt động
khoa học đầu tiên là tổ chức cuộc Hội thảo khoa học
"Sử học trước yêu cầu Đổi mới của đất nước"
tại Hà Nội năm 1989 và tại thành phố Hồ Chí Minh năm
1990 với sự tham gia của nhiều nhà sử học và những
ngành liên quan của khoa học lịch sử như khảo cổ
học, dân tộc học, bảo tàng và bảo tồn học, văn hóa
học. . Hội thảo đã đạt được sự đồng thuận cao trong khẳng
định những thành tựu của nền sử học hiện đại Việt
Nam, vai trò và cống hiến của sử học trong thắng lợi
của sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất
nước, trong cuộc sống xã hội đồng thời nghiêm khắc
nêu lên những mặt hạn chế, những yếu kém và khuyết
tật để khắc phục. Về mặt này, hội thảo đã nêu lên ba
mặt yếu kém quan trọng nhất về tư duy sử học là: -
Khuynh hướng giáo điều, công thức trong vận dụng các
nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, - Khuynh hương "chính trị
hóa lịch sử", dùng lịch sử để minh họa một số quan
điểm chính trị có sẵn, tự hạ thấp tính độc lập, vai
trò sáng tạo của khoa học lịch sử, - Khuynh hướng
"hiện đại hóa lịch sử" theo ý nghĩa là trình bày
lịch sử quá khứ như hiện đại, không tôn trọng tính
đặc trưng của từng thời kỳ lịch sử[7] Trong hội thảo, nhiều tham luận và phát biểu cũng đã
nêu lên yêu cầu đổi mới tu duy sử học theo hướng
tiếp cận và nhận thức đối tượng một cách khách quan,
trung thực nhất trong khả năng cao nhất của sử học.
Một loạt vấn đề, trong đó có những giai đoạn lịch sử
như triều Hồ, triều Mạc, các chúa Nguyễn, triều
Nguyễn được đưa ra phân tích để minh chứng cho những
nhận định phiến diện, thiếu tính khách quan, khoa
học trước đây. Từ cuối những năm 80, nhất là từ những năm 90 của
thế kỷ XX trở lại đây, công việc nghiên cứu về thời
kỳ các chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn đã được
triển khai và đạt nhiều thành tựu mới theo xu hướng
tư duy khách quan, trung thực. Ngoài các công trình
nghiên cứu của cá nhân, một đề tài Khoa học cấp nhà
nước mang tiêu đê " Khảo cứu kinh tế và tổ chức bộ
máy nhà nước triều Nguyễn, những vấn đề đặt ra trong
thực tiễn đổi mới đất nước hiện nay", mã số KX-ĐL:
94-16 do PGS Đỗ Bang làm chủ nhiệm đã được thực hiện
năm 1995-1996 với sự tham gia gần như của giới sử
học cả nước. phạm vi nghiên cứu dần dần được mở rộng
trên tất cả lĩnh vực của thời kỳ lịch sử này, từ
kinh tế, xã hội đến chính trị, văn hóa, tôn giáo,
nghệ thuật...Nhiều công trình khoa học được xuất bản
hay đăng tải trên các tạp chí khoa học, gần hai chục
cuộc hội thảo khoa học đã được tổ chức ở thành phố
Huế, thành phố Hồ Chí Minh và thủ đô Hà Nội[8].
Một số luận án Tiến sĩ đã chọn đề tài trong thời kỳ
lịch sử các chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn. Một
số học giả nước ngoài cũng quan tâm nghiên cứu thời
kỳ này và khá nhiều công trình đã được công bố,
trong đó có một số công trình đã được dịch và xuất
bản tại Việt Nam[9].
Trong nhận định và đánh giá về các chúa Nguyễn và
vương triều Nguyễn thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX dĩ
nhiên còn có những khác biệt giữa các tác giả và còn
nhiều vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu, thảo
luận. Nhưng mẫu số chung của những công trình nghiên
cứu trong vài thập kỷ trở lại đây ở trong nước cũng
như nước ngoài là thống nhất cần phải khai thác
những nguồn tư liệu phong phú, phân tích và xử lý
một cách khoa học để nâng cao nhận thức về thời kỳ
này một cách khách quan, trả lại các giá trị đích
thực cho các triều vua chúa, các nhân vật lich sử,
nêu cao những cống hiến tích cực, đồng thời phân
tích cả những mặt hạn chế, tiêu cực. Về cơ sở tư liệu thì trong lịch sử Việt Nam cho đến
cuối thế kỷ XIX, chưa có thời kỳ nào có những nguồn
tư liệu phong phú, đa dạng như thời kỳ các chúa
Nguyễn, nhất là thời kỳ vương triều Nguyễn. Ngoài
các bộ chính sử và địa chí của vương triều, còn có
nhiều nguồn tư liệu gốc mang giá trị thông tin rất
cao như Châu bản[10] ,
địa bạ[11],
văn bia[12],
gia phả và các tư liệu do người nước ngoài ghi chép.
Các nguồn tư liệu trên đang được sưu tầm và khai
thác có hiệu quả cung cấp những dữ liệu mới cực kỳ
phong phú để nghiên cứu sâu các vấn đề của thời kỳ
lịch sử các chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn. Các nguồn tư liệu và kết quả nghiên cứu cho đến nay
đã tạo lập một cơ sở khoa học vững chắc để giới sử
học và các nhà khoa học trên các lĩnh vực liên quan
cùng nhau nhìn nhận và đánh giá một cách công bằng
đối với vai trò và cống hiến của các chúa Nguyễn và
vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ
XVI đến thế kỷ XIX, phân tích một cách khách quan
mặt tích cực và cả mặt hạn chế, mặt mạnh và cả mặt
yếu. Đó chính là lý do và yêu cầu của cuộc Hội thảo
khoa học tầm cỡ quốc gia của chúng ta tổ chức nhân
dịp 450 năm chúa Nguyễn Hoàng rời quê hương xứ Thanh
vào mở cõi phương Nam.
2. Phạm vi và nội dung chủ yếu của hội thảo
2.1. Về khung thời gian
Thời kỳ các chúa Nguyễn bắt đầu từ năm 1558 khi chúa
Nguyễn Hoàng rời quê hương xứ Thanh vào nhậm chức
Trấn thủ xứ Thuận Hóa rồi năm 1570 kiêm Trấn thủ xứ
Quảng Nam. Vương triều Nguyễn khởi đầu từ khi chúa
Nguyễn Ánh sáng lập vương triều năm 1802. Giữa thời
kỳ các chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn có thời kỳ
Tây Sơn tính từ khi cuộc khởi nghĩa bùng nổ năm 1771
cho đến khi chính quyền Tây Sơn cuối cùng là triều
vua Nguyễn Quang Toản thất bại năm 1802. Rõ ràng
thời Tây Sơn nằm giữa liên quan đến sự thất bại của
chúa Nguyễn cuối cùng là Nguyễn Phúc Thuần năm 1776,
Nguyễn Phúc Dương năm 1777 và sự thắng lợi của
Nguyễn Ánh năm 1802. Tuy nhiên, vừa rồi nhân dịp kỷ
niệm 320 năm lễ đăng quang Hoàng đế của Quang Trung
Nguyễn Huệ (1788-2008), Ủy ban nhân dân và Hội khoa
học lịch sử tỉnh Thừa Thiên-Huế đã tổ chức Hội thảo
khoa học tại thành phố Huế ngày 06-06-2008 nên trong
Hội thảo này chúng ta không bàn về thời Tây Sơn để
tập trung vào nội dung chủ yếu của Hội thảo. Nhưng
dĩ nhiên trong những mối quan hệ như sự thất bại của
chúa Nguyễn, kháng chiến chống Xiêm, thắng lợi của
Nguyễn Ánh, chúng ta vẫn đề cập đến thời Tây Sơn
trong mức độ cần thiết. Vương triều Nguyễn còn kéo dài cho đến năm 1945, kết
thúc với thắng lợi của Cách mạng tháng 8 và sự thóai
vị của vua Bảo Đại năm 1945. Nhưng từ khi đất nước
đã bị chủ nghĩa thực dân Pháp thống trị thì vai trò
và tính chất của triều Nguyễn đã thay đổi hoàn toàn.
Vì vậy trong Hội thảo này, vương triều Nguyễn chỉ
giới hạn trong thời kỳ độc lập của vương triều cho
đến khi bị thất bại trước cuộc xâm lược của thực dân
Pháp năm 1858-1884. Tuy nhiên trong Hội thảo chúng
ta cũng không đi sâu vào cuộc kháng chiến chống chủ
nghĩa thực dân mà chỉ làm sáng tỏ nguyên nhân và
trách nhiệm của triều Nguyễn trong thất bại của cuộc
kháng chiến. Như vậy về thời gian, chúng tôi đề nghị giới hạn từ
giữa thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XIX, trong phạm vi
thời kỳ trị vì của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong và
vương triều Nguyễn trên cương vị quốc gia Việt Nam
rồi Đại Nam độc lập, có chủ quyền. Thời gian trước
và sau ranh giới thời gian này cũng như thời Tây Sơn
ở giữa chỉ đề cập trong mức độ liên quan cần thiết. Trong giới hạn thời gian như trên, dĩ nhiên cũng cần
đặt Việt Nam trong mối quan hệ với các nước trong
khu vực và thế giới. Thế kỷ XVI-XIX là thời kỳ phát
triển mạnh mẽ của hệ thống thương mại châu Á và cũng
là thời kỳ bành trướng dữ dội của chủ nghĩa tư bản
phương Tây sang phương Đông. Bối cảnh lịch sử đó tác
động đến mọi nước Đông Nam Á và Đông Á, nhưng mỗi
nước lại có cách ứng phó khác nhau và dẫn đến hệ quả
khác nhau, ảnh hưởng đến sự tồn vong của mỗi quốc
gia-dân tộc. 2.2. Về thời kỳ các chúa Nguyễn
Những kết quả nghiên cứu đã cho phép khẳng định công
lao mở mang bờ cõi từ Thuận Hóa, Quảng Nam vào đến
vùng đồng bằng sông Cửu Long của các chúa Nguyễn ở
Đàng Trong trong thời gian từ giữa thế kỷ XVI đến
giữa thế kỷ XVIII. Công cuộc khai phá với những
chính sách và biện pháp tích cực của chính quyền
chúa Nguyễn, đã biến vùng Thuận Quảng còn hoang sơ
vào giữ thế kỷ XVI, trở thành một vùng kinh tế phát
triển làm bàn đạp cho công cuộc mở mang bờ cõi về
phía nam. Vào thế kỷ XVII-XVIII, vùng đồng bằng sông
Cửu Long là một vựa lúa của Đàng Trong với năng xuất
đạt tới 100, 200, 300 lần như Lê Quý Đôn đã ghi
chép. Các nghề thủ công, quan hệ hàng hóa tiền tệ
trong nước và quan hệ mậu dịch với nước ngoài đều
phát triển nhanh chóng. Một loạt đô thị, thương cảng ra đời thu hút nhiều
thuyền buôn và thương gia nước ngoài, kể cả các công
ty tư bản phương Tây như Hà Lan, Anh, Pháp...trong
đó nổi lên các cảng thị Phú Xuân-Thanh Hà (Thừa
Thiên-Huế), Hội An (Quảng Nam), Nước Mặn (Bình
Định), Vũng Lấm (Phú Yên), Gia Định (thành phố Hồ
Chí Minh), Cù Lao Phố (Đồng Nai), Mỹ Tho, Hà Tiên...
Các chúa Nguyễn Hoàng (Chúa Tiên, Đoan Quận công:
1558-1613), Nguyễn Phúc Nguyên (Chúa Sãi, Thụy Quận
công:1613-1635), Nguyễn Phú Lan (Chúa Thượng, Nhân
Quận công: 1635-1648), Nguyễn Phú Tần (Chúa Hiền,
Dũng Quận công: 1648-1687)...có công lớn trong sự
nghiệp khai phá và phát triển vùng đất mới, mở rộng
lãnh thổ phía nam bao gồm cả các hải đảo ven bờ và
quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa trên Biển Đông. Vấn đề cần đi sâu nghiên cứu làm sáng tỏ là phương
thức khai phá có hiệu quả kinh tế cao kết hợp với
việc xây dựng và củng cố chủ quyền quốc gia trên
vùng đất mới của các chúa Nguyễn. Đối với vùng đất
Nam Bộ, cần chú trọng vai trò của các lớp lưu dân
người Việt, sự tham gia của một số người Hoa và các
cộng đồng cư dân tại chỗ như người Khmer, người Mạ,
Xtiêng, Chơ Ro...cùng quá trình cộng cư và giao thoa
văn hóa tạo nên sắc thái đặc trưng của vùng đất
phương nam này. 2.3. Về vương triều Nguyễn
Từ khoảng giữa thế kỷ XVIII, chính quyền chúa Nguyễn
thời chúa Nguyễn Phúc Thuần (Định vương: 1765-1776)
trở nên suy yếu và bị phong trào Tây Sơn lật đổ.
Nhưng cuộc chiến tranh giữa Tây Sơn với người kế tục
chúa Nguyễn là Nguyễn Ánh vẫn tiếp tục và cuối cùng
kết thúc bằng thắng lợi của Nguyễn Ánh năm 1802. Hội
thảo không đi sâu vào lịch sử Tây Sơn, nhưng không
thể không đề cập và xem xét một số vấn đề liên quan
với Tây Sơn, cụ thể là ba vấn đề sau đây: - Cắt nghĩa sự thành bại của mỗi bên trong cuộc
chiến tranh giữa Tây Sơn với chúa Nguyễn. Từ năm
1771 khởi nghĩa Tây Sơn bùng nổ và cho đến năm 1777
đã đánh bại toàn bộ hệ thống chính quyền chúa Nguyễn
ở Đàng Trong mà đại diện cuối cùng là chúa Nguyễn
Phúc Thuần và Nguyễn Phúc Dương. Đây là cuộc chiến
tranh giữa một bên là phong trào Tây Sơn tiêu biểu
cho sức mạnh quật khởi của nhân dân Đàng Trong và
bên kia là thế lực suy đồi của một chính quyền phong
kiến đã bị nhân dân óan ghét, bất bình. Thắng lợi
của Tây Sơn trong thời gian này là thắng lợi của một
cuộc khởi nghĩa nông dân, một phong trào đấu tranh
mang tính nhân dân rộng lớn, đang tập hợp được các
lực lượng của mọi tầng lớp xã hội bất bình với chế
độ chúa Nguyễn thời suy vong. Trên cơ sở thắng lợi của phong trào Tây Sơn, một
vương triều phong kiến mới được thiết lập gồm chính
quyền Đông Định vương Nguyễn Lữ ở Gia Định, Trung
Ương Hoang đế Nguyễn Nhạc ở Qui Nhơn và Bắc Bình
vương Nguyễn Huệ ở Phú Xuân. Trong ba chính quyền
Tây Sơn, chỉ có chính quyền Nguyễn Huệ tồn tại vững
vàng nhưng sau khi vua Quang Trung Nguyễn Huệ mất
năm 1792, vương triều Nguyễn Quang Toản cũng suy yếu
rất nhanh. Cuộc chiến tranh Nguyễn Ánh - Tây Sơn đã
thay đổi tính chất và chuyển hóa thành cuộc đấu
tranh giữa hai thế lực phong kiến mà thất bại của
Nguyễn Lữ, rồi Nguyễn Nhạc và Quang Toản là thất bại
của những chính quyền phong kiến đã suy yếu và mất
lòng dân. - Trong cuộc đấu tranh chống Tây Sơn, thời gian bị
thất bại nặng nề ở trong nước, Nguyễn Ánh phải nhờ
vào sự cứu viện của nước ngoài biểu thị tập trung
trong Hiệp ước Versailles ký kết năm 1787 với Pháp
và việc cầu cứu vua Xiêm đưa 5 vạn quân Xiêm vào Gia
Định năm 1784. Dù cho Hiệp ước Versailles không được
thực thi và lực lượng viện trợ do Bá Đa Lộc vận động
không bao nhiêu, quân xâm lược Xiệm cũng bị quân Tây
Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy, đánh tan trong trận Rạch
Gầm-Xoài Mút đầu năm 1785, nhưng hành động của
Nguyễn Ánh cần được đặt trong bối cảnh cụ thể lúc
bấy giờ và phân tích, đánh giá một cách công minh. - Giữa năm 1786 quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy
tiến ra bắc, đánh bại quân Trịnh và phong trào Tây
Sơn đã làm chủ cả nước. Tiếc rằng sau đó, do bất hòa
và mâu thuẫn giữa các thủ lĩnh Tây Sơn dẫn đến việc
thành lập ba chính quyền Tây Sơn. Vấn đề đặt ra và
đã từng gây cuộc tranh luận trong năm 1960, 1963 là
công lao thống nhất đất nước của Tây Sơn và Nguyễn
Ánh[13]. Lúc bấy giờ xuất hiện hai quan điểm hoàn
toàn đối lập, phủ định hay khẳng định công lao thống
nhất thuộc về Tây Sơn hay Nguyễn Ánh. Hai quan điểm
đối lập theo lối cực đoan đó không có sức thuyết
phục cao và gần đây xu hướng chung là không ai có
thể phủ nhận được công lao thống nhất đất nước của
vương triều Nguyễn mà người sáng lập là vua Gia Long
Nguyễn Ánh, nhưng từ đó phủ nhận luôn cả những cống
hiến của Tây Sơn thì cũng cần trao đổi thêm. Phong trào Tây Sơn đã đánh bại chính quyền chúa
Nguyễn ở Đàng Trong, chính quyền vua Lê- chúa Trịnh
ở Đàng Ngoài và đã xóa bỏ tình trạng phân chia đất
nước kéo dài trên hai thế kỷ, đánh tan quân xâm lược
Xiêm ở phía nam và quân xâm lược Thanh ở phía bắc,
đó là những thành tựu của Tây Sơn đã đặt cơ sở cho
công cuộc khôi phục quốc gia thống nhất mà sau này
Nguyễn Ánh và triều Nguyễn đã kế thừa. Như vậy là
hai kẻ thù không đội trời chung lại góp phần tạo lập
nên sự nghiệp thống nhất đất nước của dân tộc, bề
ngoài như một nghịch lý nhưng lại nằm trong xu thế
phát triển khách quan của lịch sử và yêu cầu bức
thiết của dân tộc. Vương triều Nguyễn trong thời gian tồn tại độc lập
từ khi thành lập cho đến khi bị thất bại trong cuộc
kháng chiến chống Pháp, đã có nhiều cống hiến tích
cực trên nhiều phương diện. Thời phát triển của
vương triều bao gồm các đời vua Gia Long
(1802-1820), Minh Mệnh (1820-1841) và Thiệu Trị
(1841-1847), tức khoảng nửa đầu thế kỷ XIX, thời
thịnh đạt nhất là dưới triều vua Minh Mệnh. Nước Việt Nam, quốc hiệu đặt năm 1804, và Đại Nam
năm 1838, là một quốc gia thống nhất trên lãnh thổ
rộng lớn gần như tương ứng với lãnh thổ Việt Nam
hiện nay, bao gồm cả Đàng Trong và Đàng Ngoài cũ.
Trên lãnh thổ thống nhất đó, triều Nguyễn đã xây
dựng một cơ chế quân chủ tập quyền mạnh mẽ với một
bộ máy hành chính và một thiết chế vận hành qui củ,
chặt chẽ, nhất là sau cải cách hành chính của Minh
Mệnh năm 1831-1832. Các công trình nghiên cứu gần
đây đều đánh giá cao công lao thống nhất đất nước
của triều Nguyễn và hệ thống tổ chức chính quyền với
qui chế hoạt động có hiệu lực của nhà Nguyễn. Trong
lịch sử chế độ quân chủ Việt Nam, cải cách của vua
Minh Mệnh năm 1831-1832 và vua Lê Thánh Tông năm
1471 là hai cải cách hành chính có qui mô toàn quốc
và đạt hiệu quả cao nhất. Các nhà nghiên cứu cũng ghi nhận một số thành tựu
khai hoang, thủy lợi, phát triển nông nghiệp thời
Nguyễn, nhất là vùng đồng bằng Nam Bộ và vùng đồng
bằng ven biển Bắc Bộ. Hệ thống giao thông thủy bộ
phát triển mạnh, nhất là hệ thống kênh đào ở Nam Bộ
và hệ thống đường dịch trạm nối liền kinh đô Huế với
các trấn/tỉnh thành trên cả nước. Các trạm dịch được
tổ chức rất chặt chẽ với những qui định về thời hạn
chuyển văn thư phân làm ba loại: tối khẩn, khẩn,
thường. Ví dụ loại "tối khẩn", từ kinh đô Huế vào
đến Gia Định là 9 ngày, ra đến Hà Nội là 4 ngày 6
giờ. Về phương diện văn hóa, giáo dục, triều Nguyễn cũng
lập Quốc tử giám, mở khoa thi Hương và thi Hội để
đào tạo nhân tài. Từ khoa thi Hội đầu tiên năm 1822
đến khoa thi cuối cùng năm 1919, triều Nguyễn tổ
chức được 39 khoa thi Hội, lấy đỗ 292 Tiến sĩ và 266
Phó bảng, cộng 558 người. Khu Văn Miếu tại kinh đô
Huế còn lưu giữ 32 tấm bia Tiến sĩ thời Nguyễn. Cùng
với các kỳ thi tuyển chọn Tiến sĩ Văn, nhà Nguyễn
còn nâng cấp đào tạo võ quan từ Cử nhân lên Tiến sĩ
Võ. Tại khu Võ Miếu còn bảo tồn hai tấm bia Tiến sĩ
Võ. Công việc biên soạn quốc sử, các bộ chính sử của
vương triều, các bộ tùng thư và địa chí được đặc
biệt quan tâm và để lại một di sản rất đồ sộ. Có thể
nói, trong thời quân chủ, chưa có Quốc sử quán của
vương triều nào hoạt động có hiệu quả và để lại
nhiều công trình biên soạn đến như thế. Trong bối cảnh chủ nghĩa tư bản phương Tây đang đe
dọa chủ quyền của các nước trong khu vực, vua Gia
Long và Minh Mệnh ý thức sâu sắc về nguy cơ đó và đã
tiến hành những hoạt động điều tra, thăm dò, đồng
thời lo củng cố quốc phòng, cố gắng tiếp thu thành
tựu kỹ thuật phương Tây. Từ thời chiến tranh với Tây
Sơn, Nguyễn Ánh đã học tập được khá nhiều kỹ thuật
phương tây, nhất là kỹ thuật xây thành kiểu Vauban,
đóng tàu, đúc vũ khí, phát triển thủy quân. Vua Minh
Mệnh là người có tầm nhìn xa và hướng biển khá cao.
Nhà vua đã cử nhiều phái đoàn vượt biển đến các căn
cứ phương Tây ở Đông Nam Á như Batavia (Jakarta,
Indonesia), Singapore, Pinang (Malaysia), Semarang
(Java), Luçon (Philippines), Tiểu Tây Dương; ở Ấn Độ
như Bengale, Calcutta; ở Trung Hoa như Macao...Những
chuyến vượt biển đó, bề ngoài là mua hàng hóa cho
triều đình nhưng chủ yếu nhằm thăm dò tình hình. Cầm đầu các phái đoàn thường là những quan chức cao
cấp, những trí thức có tầm hiểu biết rộng như Lý Văn
Phức, Hà Tông Quyền, Phan Thanh Giản, Phan Huy Chú,
Cao Bá Quát...Vua Minh Mệnh cho đo đạc độ sâu các
cảng biển, lập hệ thống phòng thủ ven biển, chế tạo
vũ khí, đóng thử tàu hơi nước kiểu phương Tây, phát
triển thủy quân, cho dịch một số sách kỹ thuật
phương Tây sang chữ Hán, đo đạc, vẽ bản đồ và cắm
cột mốc trên quần đảo Hoàng Sa, tăng cường quản lý
các hải đảo...Hình như vua Minh Mệnh đang nuôi dưỡng
một ý tưởng canh tân nào đó, nhưng đang ở trong tình
trạng hình thành, chưa thực hiện được bao nhiêu. Những cống hiến tích cực của vương triều Nguyễn đã
được nhìn nhận và đánh giá lại một cách khách quan,
công bằng. Nhưng bên cạnh đó, còn tồn tại một số vấn
đề cần nghiên cứu và thảo luận để đi đến những nhận
xét toàn diện: - Nhà Nguyễn chủ trương phục hội và củng cố hệ tư
tưởng Nho giáo. Không ai phủ nhận trong học thuyết
Nho giáo chứa đựng nhiều nội dung tích cực, nhất là
về mặt giáo dục và xử thế, coi trọng học vấn, đề cao
nhân cách, nhưng đứng về phương diện tư duy triết
học, vào thế kỷ XIX có còn khả năng giúp con người
nhận thức và giải thích thế giới trong bối cảnh mới
của thời đại hay không? Về vấn đề này còn những quan
điểm khác nhau. Có người cho đến thế kỷ XIX hệ tư
tưởng Nho giáo đã trở nên bảo thù và chủ trương phục
hồi Nho giáo của triều Nguyễn đã cản trở sự tiếp
nhận những tư tưởng và thành tựu mới của thế giới.
Nhưng cũng có người cho rằng vấn đề không phải là
bản thân Nho giáo mà là người vận dụng hệ tư tưong
đó. - Một thực trạng cần lưu ý khi nghiên cứu về vương
triều Nguyễn là dù ban hành nhiều chính sách khẩn
hoang tích cực, kể cả một số chính sách giảm nhẹ tô
thuế, nhưng xã hội thời Nguyễn không ổn định. Trong
gần như suốt thòi Nguyễn, khởi nghĩa nông dân nổ ra
triền miên và triều Nguyễn không thể nào giải quyết
nổi. Tại sao và đánh giá thực trạng đó như thế nào
cho thỏa đáng. - Từ triều Tự Đức (1848-1883), vương triều Nguyễn
càng ngày càng bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, làm
cho thế nước càng ngày càng suy yếu và cuối cùng
thất bại trước cuộc xâm lược của thực dân Pháp. Ở
đây có hai vấn đề quan trọng đặt ra là thái độ của
triều Nguyễn đối với xu hướng canh tân phát triển
khá mạnh dưới triều Tự Đức và trách nhiệm của triều
Nguyễn trong kết quả bi thảm của cuộc kháng chiến
thất bại. Canh tân đất nước và chống chủ nghĩa thực
dân là hai yêu cầu bức xúc, quan hệ mật thiết với
nhau. Vấn đề đặt ra không chỉ ở Việt Nam mà gần như
cả phương Đông và khi phân tích cũng cần nhìn rộng
ra trong góc nhìn so sánh với một số nước tương tự
trên phạm vi phương Đông, nhất là khu vực gần gụi
của Đông Nam Á và Đông Á. Làm sáng rõ những vấn đề trên sẽ đưa đến một cách
nhìn nhận và đánh giá toàn diện, cả mặt tích cực lẫn
mặt hạn chế đối với vương triều Nguyễn trong tiến
trình lịch sử Việt Nam. 2.4. Về di sản văn hóa
Trong thời gian trên 3 thế kỷ từ giữa thế kỷ XVI đến
cuối thế kỷ XIX, thời kỳ các chúa Nguyễn và vương
triều Nguyễn đã để lại cho dân tộc một di sản lớn
lao nhất là một giang sơn đất nước thống nhất bao
gồm cả đất liền và hải đảo về cơ bản tương ứng với
lãnh thổ Việt Nam hiện đại. Lãnh thổ đó vừa kế thừa
công lao xây dựng và bảo vệ của các thế hệ tổ tiên
từ khi dựng nước Văn Lang - Âu Lạc cho đến giữ thế
kỷ XVI, vừa tiếp tục mở mang, khai phá về phía nam
cho đến tận đồng bằng sông Cửu Long. Trên lãnh thổ
quốc gia đó, thời kỳ lịch sử này còn để lại một di
sản văn hóa đồ sộ bao gồm cả văn hóa vật thể và phi
vật thể. Di sản đó một phần đang hiện hữu trên đất
nước Việt Nam với những di tích kiến trúc, thành
lũy, lăng mộ... và tất cả đã hòa đồng với toàn bộ di
sản dân tộc cùng đồng hành với nhân dân, với dân tộc
trong cuộc sống hôm nay và mãi mãi về sau, góp phần
tạo nên bản sắc và bản lĩnh dân tộc, sức sống và sự
phát triển bền vững của đất nước. Cố đô Huế là nơi hội tụ và kết tinh các giá trị văn
hóa dân tộc trong một thời kỳ lịch sử khi mà kinh đô
này lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc trở thành
trung tâm chính trị, văn hóa của một quốc gia với
lãnh thổ thống nhất trải dài từ bắc chí nam, từ đất
liền đến hải đảo. Quần thể di tích cố đô Huế đã được
UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa Thế giới ngày
11-12-1993 và ngày 7-11-2003 Nhã nhạc cung đình lại
được công nhận là Kiệt tác truyền khẩu và Di sản văn
hóa phi vật thể của nhân loại. Trong số các đô thị hình thành và phát đạt trong
thời kỳ này, Hội An là cảng thị tiêu biểu nhất và
Khu di tích phố cổ Hội An cũng đã được UNESCO công
nhận là Di sản Văn hóa Thế giới ngày 4-12-1999.
Chưa có một thời kỳ lịch sử nào để lại cho dân tộc
ba di sản văn hóa được thế giới công nhận và tôn
vinh với những giá trị mang ý nghĩa toàn cầu như
vậy. Trong di sản văn hóa phi vật thể, có thể nói rất
nhiều đình, đền, miếu, nhà thờ họ trong tín ngưỡng
dân gian, chùa tháp của Phật giáo, đạo quán của Đạo
giáo..., còn lại đến nay phần lớn đều được xây dựng
hay ít ra là trung tu trong thời nhà Nguyễn. Nhiều
nhà thờ của Kitô giáo, trong đó có Nhà thờ Phát Diệm
nổi tiếng cũng được xây dựng trong thời kỳ này. Tất
cả di sản này rải ra trên phạm vi cả nước từ bắc chí
nam. Về di sản chữ viết, thời kỳ các chúa Nguyễn, nhất là
thời kỳ vương triều Nguyễn, để lại một kho tàng rất
lớn với những bộ chính sử, những công trình biên
khảo trên nhiều lĩnh vực, những sáng tác thơ văn của
nhiều nhà văn hóa lớn, những tư liệu về Châu bản
triều nguyễn, văn bia, địa bạ, gia phả, hương ước,
những sắc phong, câu đối trong các kiến trúc tôn
giáo, tín ngưỡng, những văn khắc trên hang núi, vách
đá... Văn học truyền khẩu của thời kỳ này cũng vô cùng
phong phú, gắn liền với ký ức của các thế hệ và hòa
quyễn vào các lễ hội dân gian, các phong tục tập
quán của các dân tộc mà gần đây công việc sưu tầm đã
đạt nhiều kết quả khả quan. Bàn về chúa Nguyễn và triều Nguyễn, không thể không
trở về Thanh Hóa, nơi có Quý Hương (Hà Trung), có
Gia Miêu Ngọai trang là quê hương của chúa Nguyễn
Hoàng, gốc tích của dòng họ Nguyễn Gia Miêu và xứ
Thanh cũng là quê hương của nhiều bề tôi trung
thành, nhiều người dân lao động đã theo chúa Nguyễn
vào mở cõi ở phương Nam trong những năm tháng khởi
nghiệp gian truân nhất. Vì vậy trên đất Thanh Hóa
còn để lại nhiều dấu tích về chúa Nguyễn và triều
Nguyễn, đặc biệt là Khu lăng miếu Triệu Tường với
nhiều kiến trúc nghệ thuật thời Nguyễn, mang ý nghĩa
linh thiêng của đất phát tích một vương triều. Nhưng
rất tiếc các di tích này hầu như đã bị phá hủy, chỉ
còn lại phế tích và gần đây, năm 2007 đã được xếp
hạng di tích quốc gia để mở đầu một kế hoạch nghiên
cứu, phục hồi, tôn tạo và phát huy giá trị. Các chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn đã đi vào lịch
sử, nhưng di sản văn hóa mà thời kỳ lịch sử đó đã
tạo dựng nên, kết tinh những giá trị lịch sử và văn
hóa của dân tộc, thì mãi mãi trường tồn cùng non
sông đất nước. Đó là bộ phận quan trọng của di sản
văn hóa dân tộc luôn luôn giữ vai trò động lực tinh
thần nội tại của công cuộc phục hưng dân tộc, của sự
phát triển bền vững của đất nước, nhất là trong thời
kỳ công ngiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập của đất
nước hiện nay. Phan Huy Lê Chú thích:
[1]Đại Nam thực lục, tiền biên và chính biên,
nguyên bản chữ Hán lưu giữ tại Viện nghiên cứu Hán
Nôm, bản dịch 38 tập, NXB Sử học và Khoa học xã hội,
Hà Nội 1962 đến 1978
[2] Đại Nam liệt truyện, tiền biên, chính biên sơ
tập và nhị tập, nguyên bản chữ Hán lưu giữ tại Viện
nghiên cứu Hán Nôm, bản dịch 4 tập, NXB Thuận Hóa,
Huế 1993
[3] Trần Trọng Kim: Việt Nam sử lược, NXB Tân Việt,
Hà Nội 1949, tr.405
[4] Trần Trọng Kim:
Việt Nam sử lược, Sđd, tr. 486
[5] Charles Maybon:
Histoire moderne du pays d’
Annam, Paris 1919
[6] Ch. Maybon, H. Rusiser:
Lecture sur l’ histoire
d’ Annam., Hà Nội 1919
[7]
Phan Huy Lê: Sử học Việt Nam trên đường đổi mới,
tóm tắt tổng kết hội thảo, báo Nhân dân ngày
15-1-1992.
[8]Tham khảo Thư mục triều Nguyễn
của đề tài
KX-ĐL:94-16 do PGS Đỗ Bang làm chủ nhiệm, gồm hai
tập. Huế 1997. Thời chúa Nguyễn có 414 đơn vị, thời
vua Nguyễn có 607 đơn vị, cộng 1.021 đơn vị thư mục
[9]Một số ví dụ: Yu Insun:
Political Centralisation and Judicial
Administration in 17 century Vietnam, Journal of
Asitic Studies , Seoul 1-1980 Yoshiharu Tsuboi: Nước đại Nam đối diện với Pháp
và Trung Hoa, Luận án Tiến sĩ bảo vệ tại Trường Cao
đẳng thực hành về khoa học xã hội, Paris năm 1982,
bản dịch tiếng Việt, thành phố Hồ Chí Minh 1990 Yang Baoyun:
Contribution à l’ histoire de la
principauté des Nguyen au Vietnam méridional (1600-1775), Etudes Orientales, Genève1992. Li Tana:
Xứ đàng Trong, lịch sử kinh tế-xã hội
Việt Nam thế kỷ 17 và 18, Luận án Tiến sĩ bảo vệ tại
Đại học quốc gia Australia năm 1992, bản dịch tiếng
Việt, NXB Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh, 1999 Li Tana, Anthony Reid: Southern Vietnam under the
Nguyen, Singapore 1993 Choi Byung Wook:
Southern Vietnam under the Reign
of Minh Mang (1820-1841), Luận án Tiến sĩ bảo vệ tại
Đại học quốc gia Australia, New York 2004. [10]Châu bản triều Nguyễn đang được lưu giữ tại Cục
Văn thư - Lưu trữ Nhà nước gồm 734 tập và 40 tập bị
kết dính đang xử lý.
[11] Hai sưu tập địa bạ
lớn nhất hiện lưu giữ tại
Cục văn thư - Lưu trữ Nhà nước và Viện Nghiên cứu
Hán Nôm, gồm 10.570 tập với 18.884 đia bạ các thôn
ấp, phần lớn thuộc thời nhà Nguyễn.
[12] Viện Viễn đông bác cổ Pháp (EFEO) đã dập được
11.651 tấm bia với 20.980 thác bản, năm 1958 chuyển
giao cho Thư viện Trung ương, sau chuyển cho Viện
nghiên cứu Hán Nôm quản lý. Sau đó Viện Nghiên cứu
Hán Nôm tiếp trục công việc dập văn bia, đưa tổng số
thác bản lên đến trên 5 vạn, trong đó số văn bia
thời Nguyễn chiếm một tỷ lệ quan trọng. Xem: Thư mục thác bản văn khắc Hán Nôm Việt Nam, 4 tập,
NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội 2007 Tổng tập thác bản văn khắc Hán Nôm, 10 tập, Hà Nội
2005. [13]Xem: Văn Tân: Trả lời ông Lê Thành Khôi, tác giả sách
"Nước Việt Nam, lịch sử và văn minh", Tạp chí Nghiên
cứu lịch sử số 12, 1960 Văn Tân: Ai đã thống nhất Việt Nam, Nguyễn Huệ hay
Nguyễn Ánh? Tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 51, 1963 Nguyễn Phương:
Chung quanh vấn đề ai đã thống nhất
Việt Nam, Nguyễn Huệ hay Nguyễn Ánh? Tap chí Đại học
số 35-36, 1963 |