Mãn Giác và bài thơ thiền nổi tiếng của ông |
Vietsciences- Nguyễn Huệ Chi 15/11/2007 |
Những bài cùng tác giả
Mãn Giác vốn tên là Lý Trường, người đất Lũng Triền, hương An Cách. Chưa rõ cái
tên An Cách đến lúc nào thì mất đi, nhưng cái tên Lũng Triền thì mãi thế kỷ
XVIII vẫn còn. Đó là một phần đất thuộc huyện Siêu Loại, trấn Kinh Bắc. Theo các
nhà địa lý học lịch s]r Hà Bắc thì ngày nay đó chính là xã Lũng Khê, huyện Thuận
Thành, tỉnh Bắc Ninh (1). Thật ra, căn cứ
vào sự trọng đãi của các vua nhà Lý đối với Mãn Giác cũng có thể đoán vị Thiền
sư này là một người thuộc dòng hoàng tộc, nghĩa là phải sinh trưởng trong vùng
đất quanh miền Từ Sơn - Đình Bảng, nơi phát tích của nhà Lý, chứ không thể ở đâu
khác.
Thân phụ Mãn giác là Lý Hoài Tố, từng làm đến chức Trung thư ngoại lang dưới hai
triều Lý Thánh Tông (1051-1072) và Lý Nhân Tông (1072-1128), và chắc là rất
thông hiểu chữ nghĩa, vì đã được Triều đình cử làm Chánh sứ trong đoàn sứ bộ
Việt Nam đi sang Trung Quốc vào năm 1073 để báo tin Lý
Thánh Tông mất. Thế nhưng, mặc dù xuất thân trong một gia đình như vậy, và mặc
dù cậu bé Lý Trường được vua Lý Nhân Tông rất mực sủng ái, cho vào cung học tập
từ nhỏ, lại đặt tên cho là Hoài Tín, Lý Trường vẫn không đi theo con đường của
cha. Ông không trở thành một người cận thần của nhà vua mà
tự chọn lấy con đường mình thích: rèn luyện kiến thức Phật giáo và Nho giáo đến
mức uyên bác, rồi kế thừa tâm ấn của Thiền sư Quảng
Trí ở chùa quán Đính, núi Không Lộ, đi vân du khắp nơi, trở thành một vị Thiền
sư tên tuổi, có rất đông học trò, được tôn là người tiêu biểu cho thế hệ thứ
tám, dòng Thiền Quan bích.
Trong suốt cuộc đời tu hành của mình, Mãn Giác chỉ để lại một tác phẩm duy nhất,
nhưng cũng là một tác phẩm độc đáo của nền văn học thời Lý còn lại đến nay. Đó
là bài kệ có tính cách di chúc viết dặn lại học trò trước lúc mất, một bài thơ
đã gây cho rất nhiều thế hệ bạn đọc trong gần chín thế kỷ qua những cảm xúc trái
ngược, và cho đến nay, sự tranh luận vẫn chưa phải đã ngã ngũ.
Bài kệ như sau:
Xuân khứ bách hoa lạc,
Xuân đáo bách hoa khai.
Sự trục nhãn tiền quá,
Lão tòng đầu thượng lai.
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận,
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai!
Sau đây là phần dịch nghĩa của chúng tôi:
Mỗi năm khi mùa xuân qua đi, trăm hoa đều rơi rụng,
Nhưng mỗi năm mùa xuân lại tới và trăm hoa lại nở.
Sự việc đuổi nhau qua trước mắt,
Cái già sồng sộc tới trên đầu,
Tuy nhiên, chớ bảo rằng xuân tàn hoa rụng hết,
Đêm qua đây thôi, trước sân, một cành mai lại nở.
Có thể nói, không ai là không có một ấn tượng mạnh mẽ, một sự xao xuyến với tất
cả tâm linh, khi đọc bài thơ. Nhưng cắt nghĩa sự xao xuyến đó như thế nào thì
mỗi người một khác. Bảo rằng người đọc bị bài thơ của Mãn Giác chinh phục là vì
bằng tâm thức nghiệm sinh mà mỗi người vẫn có, chúng ta lĩnh hội được trong bài
thơ đó những phát hiện tinh vi của tác giả về cái quy luật tiến hóa của sự sống
vẫn diễn ra không ngừng, nghe cũng thật có lý. Nhưng bảo rằng người đọc rung
động chỉ vì bị cấu trúc nghệ thuật của bài thơ đánh lừa, vì tác giả khéo hình
tượng hóa thời gian và đời người bằng hai đại lượng rất giàu thi hứng là xuân và
hoa, lại khéo đặt chúng trong mối quan hệ vừa thuận chiều, vừa có vẻ như tương
phản, chứ bản thân cách lý giải sự tiến hóa của sự sống trong bài thơ chưa có gì
vượt khỏi quan điểm tuần hoàn, hình như cũng không phải là sai.
Vậy thực chất bài thơ là như thế nào?
*
* *
Chắc chắn chúng ta đều nhất trí với nhau: đây là một tác phẩm giải thích về cái
sinh cái tử. Cái sinh cái tử là thông thường, đời người có sinh ra, có già đi,
và có chết, cũng là chuyện thông thường. Bốn câu đầu rõ ràng nói lên ý đó, cũng
tức là làm cho người đọc hiểu và cảm thông một cách thanh thản với tác giả, khi
tác giả đang trên giường bệnh, đang ở điểm mút cuối của cái hiện kiếp của mình.
Sự cảm thông này dĩ nhiên buộc phải dựa trên triết lý tuần hoàn của nhà Phật. Vũ
trụ này là tuần hoàn, là vĩnh viễn sinh sinh hóa theo luật nhân quả, và người
đời - sắc thân mà mỗi con người mang lấy, do nghiệp của kiếp trước chuyển hóa mà
có, cũng chỉ là một trong những hình thức biểu hiện lẽ tuần hoàn của vũ trụ, nó
là sự biến diệt không tránh khỏi và không trừ một vật gì ở trên đời này:
Xuân ruổi, trăm hoa rụng,
Xuân tới, trăm hoa cười.
Trước mắt, việc đi mãi,
Trên đầu già đến rồi... (2)
Chấp nhận lẽ tuần hoàn, để đừng có những cuồng vọng về sự trường sinh bất tử của
cá nhân, đừng bị lục tặc hành hạ, làm cho tâm trở nên rối loạn - âu đó cũng là
một biện pháp khai phóng tâm lý rất hay của người theo đạo Thiền, nó giúp người
ta dẹp bớt đi bao nhiêu tham, sân, si, ái, ố dục vô ích, không những làm khổ
mình còn làm khổ lây rất nhiều đồng loại khác nữa. Chỉ xét ở bình diện đầu tiên
ấy, bài thơ cũng đã có một tác dụng cảnh tỉnh không nhỏ, nhất là nếu ta mở rộng
phạm vi tiếp nhận đối với nó, nhìn tới cả những lực lượng đang nắm quyền lực
trong một xã hội, những lực lượng bao giờ cũng có thói quen sinh hoạt phi Thiền
cực đoan nhất, và luôn luôn có ảo tưởng về sự tồn tại trần tục của chính mình,
của phe nhóm, bầu đoàn thê tử của mình, của cả những tư tưởng mà mình muốn đóng
khung lên mọi người xung quanh, như một thứ ánh sáng dẫn đạo không bao giờ mờ,
phai, nhợt nhạt.
Tuy nhiên, chủ ý của bài thơ có lẽ lại không phải chỉ có chừng đó. Vấn đề là nếu
vũ trụ này chỉ là tuần hoàn, mọi hiện tượng, sự vật đều phải qua quá trình vận
động luẩn quẩn, lặp đi lặp lại, thì liệu kiếp người có trở nên vô nghĩa, và
không còn chỗ nào để ta bám lấy mà tin vào sự trường tồn và phát triển của sự
sống nhân loại nữa chăng? Đó chính là một điều băn khoăn thường có của thế nhân,
không thể phút chốc dùng lý trí mà dẹp đi được. Và nếu bài thơ chỉ giải đáp được
những điều vừa nói ở trên thì chắc chắn nó cũng chỉ mới như một sự áp đặt, bắt
người đọc phải trượt trên một đường rãnh đã mòn trong tư duy - một thứ giả
thuyết tuần hoàn có tính chất kinh nghiệm chủ nghĩa - chứ không thể gây được một
xúc động bất ngờ,
hứng thú, một đột biến thẩm mỹ có giá trị bền vững lâu dài trong nhiều thế kỷ
nay, như chúng ta đã biết qua lịch sử bài thơ.
May thay, bài thơ còn có hai câu cuối. Và hai câu cuối như một phản đề, đã lật
ngược lại, làm cho vấn đề tưởng chừng đã trọn vẹn theo lô-gich từ đầu của nó,
thì lại bỗng bật ra những tia sáng không ngờ. Người làm thơ khuyên giải đồ đệ
chấp nhận lẽ tuần hoàn. Nhưng biết rằng trong tâm hồn ưa chuộng sự hiện hữu của
người đời, và có lẽ ngay trong chiều sâu của tâm tưởng ông, giải thích tuần hoàn
vẫn chưa đủ để hoàn toàn thuyết phục. Người ta ghi nhận nó bằng lý trí, bằng
niềm tin ở Đạo, bằng tâm thế chịu đựng là cùng lắm, chứ không phải bằng tất cả
bản năng và xúc cảm sống. Và chính là từ trong các mối mâu thuẫn giằng xé, không
tự ý thức được ấy, một ánh sáng của trực giác đã đột ngột bật ra trong tâm linh
của vị Thiền sư họ Lý khiến cho trong phút chốc ông như được đốn ngộ. Ông vụt
nói to lên cái chân lý vừa lóe hiện rực rỡ trong lòng:
Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết,
Đêm qua, sân trước, một cành mai
(2).
Không! Tuần hoàn không phải là quy luật chi phối thế giới hiện hữu này! Mà thế
giới này thực chất là sinh sôi nẩy nở. Ngay khi mà rất nhiều hiện tượng tưởng
chừng như đều châu tuần vào cái vòng quay của tuần hoàn thì cũng vẫn có những
hiện tượng nào đấy chống lại nó. Và đó mới là thực chất của sự sống, cái đặc thù
đôi khi lại là biểu hiện của một cấp độ cao hơn của cái phổ biến.
Nghiêm túc mà xét, điều Mãn Giác nói với ta không có gì vượt khỏi nguyên lý của
cái Đạo mà ông đeo đuổi. Bởi vì theo Phật giáo thì vũ trụ này dù hiển hiện ra
dưới những sắc tướng mong manh đến thế nào, bản thể của nó vẫn là như như, là
cái tâm thường trụ. Sắc tướng thì vô thường, biến diệt trong chớp mắt, nhưng bản
thể vĩnh hằng của vũ trụ không bao giờ thay đổi. Vậy, nếu như người tu hành ngộ
được điều đó, biết đồng nhất tâm thức của mình với cái Tâm bản thể, cái chân như
bất sinh bất diệt của vũ trụ, thì có cái gì nằm trong thế giới lục trần - những
thanh, sắc, hương, vị, xúc, pháp - mà có thể làm xao xuyến được tâm thức anh ta,
làm cho anh ta rơi vào vòng luẩn quẩn của chúng sinh, mê muội trong mọi nỗi khổ
trần thế và bị sự tuần hoàn câu thúc nữa? Anh ta sẽ đạt đến trạng thái tĩnh lặng
của cái Tâm, sẽ hồn nhiên như cây cỏ, sẽ tự mình hòa làm một với cái Tâm của vũ
trụ, và sẽ cùng với vũ trụ cùng trường tồn...
Đối với Thiền, giác ngộ ra được chân lý về sự trường sinh bất tử đó không bắt
buộc phải trải qua một quá trình dài tu hành, trì giới, mà chỉ cần có một bước
nhảy vọt trong chiều sâu của tri giác, nhờ vào một hiện tượng bên ngoài (một
động tác giơ tay, một tiếng quát v.v...) mà lý trí thông thường không sao hiểu
nổi. Có thể nói đó là một cuộc đảo lộn về trực giác, ở đó yếu tố cảm hứng, trạng
thái xuất thần, đóng vai trò quan trọng. Cho nên, con người thấm nhuần Thiền đến
độ như Mãn Giác đã không dài dòng lý giải mà chỉ dùng hình ảnh một cành mai đột
ngột nở bung ra sau một đêm cuối xuân - khi trăm hoa đã hoàn toàn rơi rụng - để
làm biểu tượng cho sự ngộ đạo kỳ diệu này. Và đó không còn là tuần hoàn nữa.
Tuần hoàn dừng lại trước ngưỡng cửa của hiện tượng nở bừng đó. Người tu hành đã
đạt đến chân lý - anh ta đã trở thành Phật, tức là trường tồn cùng với bản thể
của vũ trụ, trong một tâm thế hân hoan, lâng lâng, xuất thần:
Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết,
Đêm qua, sân trước, nở cành mai
*
* *
Đó là đứng về góc độ triết lý Thiền mà tiếp cận bài thơ. Song lại còn phải tiếp
cận bài thơ ở một góc độ khác: góc độ của cảm xúc thực tiễn. Phần lớn người đọc
xưa nay đều đến với bài thơ từ góc độ này. Cành mai nở bung ra chỉ trong một đêm
cuối xuân chứng tỏ điều gì - nếu không là chứng tỏ cái ý nghĩa tiến hóa sâu xa
vượt lên khỏi phạm vi tuần hoàn của sự sống? Và điều Mãn Giác khuyên học trò của
mình là gì - nếu không là một lời khuyên ý nhị và tinh tế: hãy phát hiện cho
được sự sống ở cái khía cạnh tiến hóa sâu xa và quan trọng ấy, chứ không phải là
ở những biểu hiện thông tục lặp đi lặp lại, của lẽ tuần hoàn?
Có lẽ có người cho chúng tôi đã gán cho Mãn giác những điều nằm ngoài phạm vi
hiểu biết và suy tưởng của nhà thơ. Mãn Giác, như chúng ta biết, trong cuộc đời
là một người rất thực tiễn. Đặc biệt con người thực tiễn ấy chịu ảnh hưởng của
vua Lý Nhân Tông - một nhân vật tiêu biểu cho võ công văn trị cutra nhà Lý - từ
thuở nhỏ. Mà Lý Nhân Tông thì từng khuyên vị Thiền sư dòng dõi hoàng tộc này một
câu chí lý, được Thiền uyển tập anh trân trọng ghi lại, mà chính Mãn Giác cũng
ghi nhớ như một phương châm hành động trong suốt cuộc đời mình: Bậc chí nhân
hiện thân giữa cõi đời này tất phải tế độ chúng sinh. Không hanïh nào không đầy
đủ, không việc gì không chăm lo. Chẳng những đắc lực về Thiền định mà cũng còn
có công phò tá nước nhà nữa. Hãy nên kính cẩn gánh vác trách nhiệm đó
(3).
Đủ thấy, con người Mãn Giác không hề xa lạ với hoạt động thực tiễn, cũng là
người có con mắt tinh tường đáng kể, không bỏ qua dù chỉ là một hiện tượng nhỏ
nhặt của cái đẹp của sự sống, vốn từ trong thực tiễn mà nẩy nở, kết tinh. Cho
nên, hai câu cuối bài thơ không thể là cái gì khác, ngoài cái chân lý hiển nhiên
về sức mạnh của sự sống, sự vận động biến hóa không ngừng của thế gian này, mà
từ trong hoạt động thực tế của chính mình, Mãn Giác đã ngày càng hiểu dần ra và
một lúc nào đó, chân lý sống kia đã hoàn toàn chiếm lĩnh cảm thức của ông, làm
lay đảo quan điểm tuần hoàn của nhà Thiền học trong ông, và làm cho ông đốn ngộ.
*
* *
Để soi sáng thệm cho vấn đề mà chúng ta đang bàn luận, ta hãy nhìn sâu vào nhịp
điệu, tiết tấu, vào thi pháp của bài thơ. Một điều rất lạ là bài thơ
này không kết cấu một lèo theo thể thơ cùng kiểu câu 4 chữ, 5 chữ hay 7
chữ mà các bài kệ thời Lý - Trần thường dùng đến. Mà đây là sự kết hợp giữa thể
thơ 5 chữ với thể thơ 7 chữ. Ở phần trên, phải diễn đạt sự tuần tự trôi chảy của
thời gian, một chiều hướng tiến triển ngỡ như tuần hoàn, thì tác giả dùng thể
thơ 5 chữ. Nhưng khi nhà thơ lật lại triết lý tuần hoàn, xác nhận sự sống không
đều đều tiệm tiến như thường tục vẫn nghĩ, thì câu thơ 5 chữ đột nhiên kéo dài
ra, chuyển sang thơ 7 chữ. Không phải chỉ có vậy. Nhịp điệu và tiết tấu của từng
câu thơ còn đóng một vai trò quan trọng hơn. Bốn câu đầu, ngắt nhịp 2/3 đều đặn,
phù hợp với nội dung nói đến lẽ tuần hoàn:
Xuân ruổi / trăm hoa rụng,
Xuân tới / trăm hoa cười.
Trước mắt / việc đi mãi,
Trên đầu / già đến rồi.
Nhưng chuyển sang hai câu kết thúc thì khác. Đây là một mệnh đề đảo ngược, một
mệnh đề cần có lượng thông báo mới, do đó tác giả đã cấu tạo hai cách ngắt nhịp
khác nhau, khiến chúng biến hóa sinh động. Câu 7 thứ nhất là cả một mệnh đề y
nguyên, không ngắt một nhịp nào cả, gây cho người ta cái cảm giác mạnh mẽ, lôi
cuốn, về điều mà nhà thơ sắp thông báo:
Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết
Bao nhiêu dấu hỏi tại sao sẽ gợi lên trong trí chúng ta trước một mệnh đề chuyển
chiết sừng sững như vậy. Và đó sẽ là một dấu nối để chuyển xuống câu 7 thứ hai
cũng là câu thơ cuối cùng, là một thông điệp mới mẻ, với một sự ngắt nhịp trang
trọng: hai nhịp hai mở đầu để tạo cảm giác chậm rãi, giúp người đọc tiếp cận từ
từ với chân lý. Và một nhịp ba kết thúc, là sự hé mở đột ngột của chân lý, có
tác dụng nói với người ta rằng: sự sống là vĩnh cửu, quy luật tiến hóa của sự
sống là vĩnh cửu:
Đêm qua / sân trước / một cành mai
Tưởng không cần luận giải kỹ càng hơn nữa cũng đủ thấy, hình tượng cành mai nở
trong đêm cuối cùng của mùa xuân trong bài kệ tuyệt bút của Mãn Giác là một hình
tượng bất hủ của thơ ca Thiền đời Lý. Lượng thông báo của hình tượng này quả là
phong phú, đa nghĩa. Và Mãn Giác, nhà Thiền học, người sùng đạo, cũng đồng thời
là một nhà thơ biết phát hiện cái ý vị đẹp đẽ, cái ý nghĩa thẩm mý quý giá của
sự sống dài lâu của con người trên trái đất này.
______
(1) Việc đối chiếu địa danh cụ thể này do
nhà nghiên cứu Khổng Đức Thiêm giúp cho. Nhân đây xin cám ơn ông.
(2) Ngô Tất Tố dịch.
(3) Thiền uyển tập anh. Quyển thượng; Đệ bát thế lục nhân, Mãn Giác đại sư. Nguyên văn: Chí nhân thị hiện tất vụ tế sinh, vô hành bất cụ, vô sự bất tu; phi duy định tuệ chi lực, diệc hữu tán tương chi công, nghi kính nhậm chi.
© http://vietsciences.free.fr và http://vietsciences.org Nguyễn Huệ Chi
|