Những bài cùng tác giả
Nhân
200 năm sinh Cao Bá QuátCao Bá Quát là một tài thơ trác việt ở nửa đầu thế kỷ
XIX. Thơ ông có những cách tân nghệ thuật táo bạo,
không còn là loại thơ "kỷ sự" của thế kỷ XVIII mà đã
chuyển sang một giọng điệu mới, kết hợp tự sự với
độc thoại, cho nên lời thơ hàm súc, đa nghĩa, và
mạch thơ hướng tới những đề tài có ý nghĩa xã hội
sâu rộng. Có thể bắt gặp trong thơ ông nhiều chủ đề
khác nhau, chủ đề nào cũng mang những hàm nghĩa
phong phú, chẳng hạn chủ đề khát vọng của tuổi trẻ,
muốn đem hết năng lực tài trai ra đóng góp cho đời.
Hay chủ đề tình bạn, tình thầy trò, chủ đề lữ du, đi
tìm cái đẹp và lẽ sống của chàng thanh niên họ Cao
và những bạn bè cùng chí hướng. Lại cũng có thể nói
đến chủ đề giải phóng cá nhân ở một chiều kích không
trùng với người khác, ví như ý thức khẳng định chữ
danh như là bản lĩnh của cái "tôi", chữ danh gắn
liền với một tài năng có thực và một nhân cách cứng
cỏi: "Ðạp hướng danh đồ bất điệu đầu" / Bước
tới đường danh chẳng cúi đầu (Trường giang thiên
- Vịnh cái gông). Chủ đề ta thường gặp nhiều hơn
trong thơ Cao Bá Quát vào tuổi trung niên về sau là
mâu thuẫn giữa ước vọng và hiện thực, là sự chịu
đựng cảnh nghèo túng hoạn nạn mà mình và vợ con lâm
vào như một định mệnh... Nhưng có hai chủ đề gần như
xuyên suốt các thời kỳ sáng tác của ông dưới những
cấp độ khác nhau, ấy là chủ đề về nỗi bi phẫn của
một con người có tầm vóc quá khổ lại phải sống trong
một khuôn lồng chật chội, quay trở ngả nào cũng bế
tắc, không còn đường thoát, và chủ đề về cái nhìn
tỉnh táo, nhạy cảm đối với tấn bi kịch của lớp người
"dưới đáy"... Chủ đề nào đi vào thơ Cao Bá Quát cũng
có một giá trị nhân bản sâu sắc và một sự chiêm
nghiệm giàu ý vị triết lý. Dưới đây, từ góc độ tiếp
cận nghệ thuật, xin thử phân tích hai trong số những
chủ đề vừa lược dẫn ở trên: tiếng nói trữ tình bi
phẫn và sự cảm thông với mọi cảnh ngộ khốn cùng.
*****
Trước hết, hãy nói về chủ đề trữ tình bi phẫn. Khái niệm "bi
phẫn" dùng cho Cao Bá Quát bắt đầu từ Nguyễn Ðổng
Chi trong Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam
[1]. Bi phẫn là một trạng thái tâm lý / tư tưởng
không bình thường, một sự dồn nén phấn khích của con
người bất đắc chí với xã hội, bị thành kiến xã hội
đẩy đến chỗ có những phản ứng vượt khỏi các chuẩn
mực cảm xúc thường thấy. Trong phạm vi nghệ thuật,
bi phẫn là một loại tình cảm thẩm mỹ quá khổ, xuất
phát từ cách đánh giá bất thường về mối tương quan
giữa chủ thể và khách thể. Chủ thể tự thấy mình
không còn phù hợp với những điều kiện của khách thể,
quyết liệt phủ định mọi thước đo giá trị mà khách
thể dùng để áp đặt lên mình. Giới hạn ở phạm vi thơ
trữ tình, tiếng nói bi phẫn thường là những độc
thoại nội tâm, được thể hiện như những biểu tượng
nghệ thuật dồi dào tính ẩn dụ, trong đó các cung bậc
của tình cảm đều cách điệu đến kích cỡ cao nhất. Cao
Bá quát vốn là một "tài danh đất Bắc", học giỏi lừng
tiếng, "thơ văn rất hay, chữ viết cũng rất đẹp"
(Ðặng Huy Trứ - Ðặng Dịch Trai ngôn hành lục)
[2], là con người có hoài bão lớn "Tươi nét mặt thư
sinh lồ lộ, bưng mắt trần toan đạp cửa phù đồ / Rửa
buồng gan du tử nhơn nhơn, giương tay tạo rắp xoay
cơn khí số" (Phú tài tử đa cùng). Nhưng đấy
cũng là một người có cốt cách phóng khoáng, một kẻ
sĩ "bất cơ" - không chấp nhận khuôn khổ của chữ "lễ"
như người đời quan niệm. Va vào thực tế nghiệt ngã,
tài năng, ý chí của ông bị quăng quật và lần hồi bị
nghiền nát. Từ chỗ hồn nhiên muốn làm một người hữu
ích, muốn gánh vác những trách nhiệm khó khăn bậc
nhất (Tống Nghiêu Phong Nguyễn xuất tể chi lỵ
- Tiễn Nguyễn Nghiêu Phong đi nhậm chức ở quần đảo
Cát Bà), ông sa chân vào "bể hoạn" "Sấm ran chớp
giật làm mắt người kinh hãi" (Hoành Sơn vọng hải
ca - Bài ca đứng trên núi Hoành Sơn trông ra bể)
và trở thành người "ngoài lề" lúc nào không hay. Sự
tương phản giữa nghị lực phi thường của cá nhân và
sức ép xã hội tàn nhẫn, giữa mộng ước cao xa và thực
tế bi thảm đã tạo nên một âm hưởng thơ kỳ lạ, nó là
điệpï khúc tuyệt vọng của một con người biết mình
thất bại trước gông xiềng của cơ chế song cũng biết
chống chọi đến cùng. Chủ đề trữ tình bi phẫn trong
thơ Cao Bá Quát thể hiện ở không ít bài thơ nhưng
hai bài tiêu biểu nhất theo chúng tôi là Sa hành
đoản ca (Bài ca ngắn đi trên cát) và Trà giang thu
nguyệt ca (Bài ca trăng thu trên sông Trà). Một bài
làm cuối những năm ông vào kinh đi thi Hội, và một
bài làm sau khi ông đã bị giam ở lao Thừa phủ (1841)
và đã đi "dương trình hiệu lực" trở về (1843), bị
thải hồi về quê hương mấy năm, được bổ lại vào Viện
Hàn lâm một thời gian ngắn rồi lại bị phát phối vào
Quảng Ngãi (1847). Hai bài thơ đều thuộc thể trường
thiên cổ phong tức là thể thơ tự do. Cao Bá Quát đã
chọn thể thơ đó để triển khai những tìm tòi sáng tạo
nghệ thuật độc đáo nhằm gửi gắm được hết ý tưởng của
mình.
Sa hành đoản ca dựng lên hình tượng một con người đi
giữa một bãi cát mênh mông, mỗi bước chân đều bị lún
xuống cát, cho nên hễ tiến lên một bước lại phải lùi
lại một bước. Ngay từ đầu, bài thơ đã sử dụng điệp
âm, và điệp âm đặt trong cách ngắt nhịp 2/3 liên
tiếp trong hai câu thơ năm chữ đã gợi lên cái cảm
giác của bước chân người đi luôn luôn bị kéo giật
lại :
Trường sa / phục trường sa,
Nhất bộ / nhất hồi khước.
(Cát dài / bãi cát dài,
Mỗi bước / lùi một bước)
[3]
Con người đi trong trạng thái bất thường như thế tất nhiên là
đi liên miên suốt đời mà không bao giờ thấy đích.
Anh ta không còn chút ấn tượng nào về thời gian, về
sáng tối. Chỉ có nỗi phiền muộn cứ chất mãi lên trái
tim anh :
Nhật nhập hành vị dĩ,
Khách tử lệ giao lạc.
(Mặt trời đã lặn đi chưa nghỉ,
Bộ hành nước mắt lã chã rơi).
Bài thơ cho thấy, chỉ mới ở tuổi trong ngoài ba mươi, Cao Bá
Quát đã cảm nhận được sự bế tắc cùng cực của một
loại hình nhà nho không hợp khuôn với chế độ hiện
hành. Nhà thơ tự đặt ra một lối thoát là trong cuộc
đi vô tận đó, nếu người ta có thể ngủ đi được theo
phép "thụy du" của những ông tiên thì may ra mọi nỗi
thống khổ mới chấm dứt. Tiếc thay phép thụy du đối
với những người vốn đã quá tỉnh lại chẳng có chút gì
hiệu lực. Vì thế, càng đi trong sự tỉnh táo thì mọi
nỗi oán hận trong lòng người đi chỉ càng thêm chất
chồng :
Quân bất
học tiên gia mỹ thụy ông,
Đăng sơn thiệp thủy oán hà cùng ?
(Không
học được tiên ông phép ngủ,
Trèo non lội suối giận sao nguôi ?)
Và nhà thơ lại thử làm một phép so sánh giữa loại "hành nhân"
đáng gọi là tỉnh kia với vô số những người ngược
xuôi vì danh lợi, thì hóa ra số người tỉnh rất ít,
còn tất cả bọn họ đều là người say :
Cổ lai danh lợi nhân,
Bôn tẩu lộ đồ trung;
Phong tiền tửu điếm hữu mỹ tửu,
Tỉnh giả thường thiểu, túy giả đồng.
(Xưa nay phường danh lợi,
Bôn tẩu trên đường đời;
Gió thoảng hơi men trong quán rượu,
Say cả hỏi tỉnh được mấy người ?)
Sự đối lập thức / ngủ và tỉnh / say thực ra chỉ là những biện
pháp loại trừ nhằm giới hạn dần và soi tỏ từng bước
đặc trưng loại biệt của đối tượng. Và đến đây, cảm
hứng về một con người lầm lũi đi không biết tháng
biết năm, đi mà không bao giờ tới đích, đi nhưng vẫn
cứ như dẫm chân tại chỗ... ở đầu bài thơ được tiếp
thêm bởi cái cảm hứng về sự cô đơn tuyệt đối của
chính người bộ hành ấy, đã nâng hình tượng trữ tình
của bài thơ lên mức một ẩn dụ có sức ám ảnh ghê gớm:
người hành nhân ấy vẫn cứ đang mải miết đi, nhưng
nhìn lên phía Bắc thì muôn ngọn núi lớp lớp đã sừng
sững chắn mất lối; ngoảnh về Nam, núi và sóng hàng
muôn đợt cũng đã vây phủ lấy mình. Và nhìn khắp bốn
phía, thì nào có còn ai, chỉ còn độc một mình mình
đứng trơ trên bãi cát. Bài thơ mở đầu bằng một câu
vần bằng và ba câu vần trắc, đều là câu năm chữ, như
muốn ném ra giữa cuộc đời một nhận xét chua chát về
sự cố gắng tìm đường vô ích. Kế tiếp là hai cặp câu
vần bằng dài - ngắn và hai cặp câu vần bằng xen
trắc, cùng dài nhưng khác vần, biểu hiện những quặn
khúc trong quá trình cọ xát với thực tiễn của chủ
thể trữ tình / con người lặn lội tìm đường một cách
hoài công :
Quân bất học tiên gia mỹ thụy ông,
Đăng sơn thiệp thủy oán hà cùng/
Cổ lai danh lợi nhân,
Bôn tẩu lộ đồ trung/
Phong tiền tửu điếm hữu mỹ tửu,
Tỉnh giả thường thiểu túy giả đồng/
Trường sa trường sa nại cừ hà !
Thản lộ mang mang úy lộ đa/
Thế rồi ở phần cuối, bài thơ kết thúc bằng một câu vần bằng và
ba câu vần trắc bảy chữ, báo hiệu một cái gì đang
thắt lại trong tư tưởng, là cái tuyên ngôn "cùng
đường" của nhà thơ. Phép điệp âm ở đây lại được sử
dụng tiếp, cài vào nhau, đan chéo nhau, đẩy cảm giác
nhức nhối đến cùng tột:
Thính ngã nhất xướng "cùng đồ" ca :
Bắc sơn chi Bắc / sơn vạn
điệp,
Nam sơn chi Nam / ba vạn
cấp;
Quân hồ vi hồ sa thượng lập ?
(Nghe ta ca "cùng đường" một khúc :
Phía Bắc núi Bắc / núi muôn lớp,
Phía Nam núi Nam / sóng muôn đợt;
Sao mình anh trơ trên bãi cát ?)
Hình ảnh kết đọng cao nhất là một con người đã mất
hết ý niệm về thời gian vì những cuộc đi, lại mất
luôn cả ý niệm về phương hướng vì không còn có không
gian xoay trở. Ðấy là con người mất ý thức về lẽ tồn
tại. Nhưng câu cuối cùng của bài thơ là một câu hỏi,
cho nên cần hiểu: trong cảnh ngộ tuyệt vọng, con
người này vẫn luôn luôn băn khoăn thắc mắc mà không
giải đáp nổi vì sao và do đâu mình lại tự đánh mất
lý do tồn tại của mình.
Ở bài thơ thứ hai Trà giang thu nguyệt ca thì cảm hứng
bi thiết không lộ diện trong suốt mạch thơ mà ẩn kín
đằng sau nhịp điệu man mác trữ tình. Vì thế mới đọc
dễ có cảm tưởng đây tuy là một bài thơ tâm trạng
nhưng cũng khá nhẹ nhàng. Mới vào bài, nhà thơ quả
chỉ phơi bày tình cảm nhớ nhung của một người xa
cách vợ con, bị đày ải một mình nơi đất khách:
Trà giang nguyệt,
Kim dạ vị thùy thanh?
Quan sơn vạn lý hạo nhất sắc,
Hà xứ bất hệ ly nhân tình?
(Trăng sông Trà,
Đêm nay vì ai mà trong sáng ?
Muôn dặm quan sơn trắng xóa một màu;
Khắp nơi vương vấn tình người xa nhau)
[4]
Sau nỗi nhớ thông thường đó, nhà thơ bỗng đi ngay
vào "đối diện đàm tâm" với trăng, như một người bạn
tri âm tri kỷ. Ðiều lạ lùng là bài thơ này mang phụ
đề "Tặng bác Bảo Xuyên đi quân thứ ở An Giang" nhưng
cho đến đây "bác Bảo Xuyên" vẫn chưa xuất hiện; chỉ
có nhà thơ mời trăng uống rượu và thổ lộ tâm tình
cùng trăng. Mặc nhiên ai cũng hiểu trăng mới là nơi
gửi gắm nỗi niềm sâu kín của nhà thơ. Mọi tình cảm
thương nhớ thường tình đến đây bỗng biến mất. Tâm sự
nấu nung thực của ông bắt đầu hiện rõ, qua hình ảnh
một bóng người đang tung hoành ngang dọc. Nhưng vì
đây là tâm sự chỉ dành riêng cho "chị Nguyệt" nên
hình ảnh bóng người ngang dọc kia cũng chỉ xuất hiện
trong đáy chén rượu, được ánh trăng soi vào, và chợt
hiện chợt biến trong khoảnh khắc:
Cử bôi thí yêu nguyệt,
Nguyệt nhập bôi trung hành.
Hàm bôi dục yết cánh phi khứ,
Chỉ hữu nhân ảnh tương tung hoành.
Đình bôi thả phục trí,
Hựu kiến cô quang sinh.
Vấn quân hà thị luyến luyến bất nhẫn xả?
Ngã thị Trúc Lâm cùng đồ chi Bộ binh!
(Cất chén thử mời trăng,
Trăng đi vào trong chén.
Đỡ chén lên môi trăng vụt biến,
Chỉ còn bóng người đang dọc ngang.
Ngừng chén và đặt xuống,
Trăng hiện về, bóng lại long lanh.
Hỏi trăng vì sao quyến luyến đi không nỡ ?
Ta chỉ là anh Bộ binh trong bọn Trúc Lâm gặp bước
đường cùng).
Chỉ cần có thế. Khi sự đối thoại giữa nhà thơ với trăng đã đến
chỗ hiểu thấu lòng nhau thì mạch trữ tình ngoại đề
bồng bột chấm dứt. Nhà thơ bây giờ mới bước vào chủ
đề chính là cuộc chia tay với bạn dưới sự chứng kiến
của trăng sông Trà:
Tửu mãn tu khuynh vị quân thuyết:
Đà môn cựu lữ Tồn Chân ông,
Cần hải minh tiên hiểu tương biệt...
(Muốn nghiêng bầu rượu cùng trăng nói:
Tồn Chân bạn cũ cửa sông Đà,
Sớm mai quất ngựa bể Cần xa...)
Tuy nhiên, hình ảnh ông bạn, và cuộc chia tay sắp
tới với bạn lại bị mờ ngay đi. Ðấy cũng vẫn chỉ là
"cái cớ" để nhà thơ vin lấy mà tiếp tục tâm sự với
trăng về những chuyện sinh ly, về nỗi khó khăn của
những gặp gỡ, tao ngộ, những vận hội bất ngờ trong
đời mỗi con người... Và cuộc đối thoại lần thứ hai
này với trăng lại là một dịp nữa giúp cho cảm hứng
trữ tình bi thiết mà nhà thơ đang nén lại bỗng lai
láng tuôn trào - cái cảm hứng làm ông cảm thấy "lạnh
suốt xương da", bởi nhắc đến vận hội là nhắc đến một
ước mơ xốn xang song không bao giờ còn được phép
biết đến đối với một người tù đày ải:
Tạc dạ kim phong há thiên khuyết,
Bạch lộ, thanh sương hảo xâm cốt,
Nhân sinh hội ngộ an khả thường ?
Hữu tửu khả ẩm Trà giang nguyệt !
(Gió vàng đêm qua,
Từ cửa trời thổi xuống.
Móc trắng sương trong lạnh suốt xương da.
Đời người gặp gỡ nhau được mấy ?
Có rượu hãy uống với trăng sông Trà).
Bốn câu cuối cùng là lời kết, tưởng chừng là một lời tiễn
biệt, nhưng thực tế lại là một mạch thơ độc thoại.
Nhà thơ không hẳn nói lời chia tay với bạn mà như tự
nói với mình. Quan trọng hơn, đây còn là một lời
nhắn gửi kín đáo, mượn tấm gương chị Hằng trên dòng
sông làm người chứng giám, rằng cái chí nguyện tung
hoành của mình chưa thể bị đè bẹp. Mình vốn đang
mong muốn trở thành người tự do bay nhảy, và thực
chất mình đang là con người tự do - không có gì ngăn
cản được bước chân kẻ trượng phu:
Trà giang nguyệt !
Như kính há ngân lưu.
Trượng phu án kiếm khứ tiện khứ,
Kỳ lộ vô vi nhi nữ sầu !
(Trăng sông Trà,
Như mảnh gương soi dòng nước bạc.
Trượng phu chống kiếm đi thì đi,
Đừng buồn như đàn bà trong lúc phân ly).
Bài ca trăng thu trên sông Trà tưởng chừng êm ả hơn
Bài ca ngắn đi trên cát nhưng đi sâu vào mới
thấy, giọng điệu thơ là sự đan xen khéo léo giữa
những cao trào bi phẫn dâng lên và những cố gắng làm
cho cảm xúc dịu xuống. Trong sự giao thoa từng đợt
đó của tình cảm, chủ thể trữ tình hình như cũng đang
ấp ủ những dự định táo bạo. Con người trong thơ
không còn là con người vô phương giữa một không gian
dồn ép đến ngột thở, mà đã nhìn thấy trời cao sông
dài và có ánh trăng soi đường. Con người ấy đang
nung nấu ý muốn vẫy vùng.
*****
Chủ
đề về con người "dưới đáy" trong thơ Cao Bá Quát có
thể phân ra thành ba loại thơ. Loại thứ nhất là
những bài thơ nhìn nhận đối tượng ở khía cạnh con
người và số phận con người của họ. Khía cạnh này
mang tính nhân văn thâm thúy, vì đã nói đến hạng
người "dưới đáy", con mắt thông tục ít ai nhìn thấy
sự ngang hàng giữa họ với mình. Cao Bá Quát đã không
rơi vào những hạn chế của thói tục. Ông không có mặc
cảm, ít ra đã không đặt mình lên trên để hài hước
hóa khi chạm vào "vùng nhạy cảm" - nơi phơi bày nỗi
đau của thế nhân. Nhà thơ vận dụng thủ pháp tự sự
một cách linh hoạt và sắc sảo, bằng mấy nét vẽ lên
như tạc những con người cùng khốn mà mình bắt gặp
trên con đường nay đây mai đó. Bài Ðạo phùng ngã
phu (Giữa đường gặp người đói) khắc tạc hình ảnh
liêu xiêu, áo rách nón rách, của một ông thầy thuốc
từ vùng quê lên kinh đô hành nghề kiếm sống. Nhưng
đấy là một ý tưởng quá ngông bởi lẽ thầy thuốc ở
kinh đô nhan nhản, không một ai thèm đoái tới ông.
Thế là đành phải lê bước trở lại nhà, và cũng từ đây
ông sa chân vào hoạn nạn: ngày thứ nhất còn cố nhịn
được, ngày thứ hai còn cầm được chiếc tráp lấy chút
gì bỏ bụng, ngày thứ ba thì đói nhoài, chịu hết nổi,
gặp người qua lại vẫn cố nặn ra nụ cười nhưng nói đã
không nên lời. Trong bài Cái tử (Người hành
khất), cái nhìn tinh tế của tác giả đã nhận ra một
thoáng tần ngần nơi người ăn mày, chứng tỏ anh ta
còn có chút tự trọng. Nhưng tự trọng cũng chả được,
vì bộ dạng cổ quái tự nó đã tố cáo anh ta là người
không còn đường sống: "Y khiên song lạp phá"
- Lê cái áo bằng hai mê nón rách chắp lại. Chính bộ
dạng cổ quái đó là cái đích nhòm ngó, chọc ghẹo của
đám trẻ con tò mò. Khỏi phải nói, bút pháp tả thực
của Cao Bá Quát là sự kế tục bút lực nặng cân của
Nguyễn Du trong Thái Bình mại ca giả (Người
hát rong ở châu Thái Bình), Sở kiến hành (Bài
hành về những điều trông thấy)... Nhưng cả Nguyễn Du
và Cao Bá Quát đều gặp nhau ở chỗ, họ không tự sự
đơn thuần. Ðúng hơn, họ không chỉ có duy nhất một
điểm nhìn tự sự mà biết chuyển điểm nhìn tài tình từ
khách thể sang chủ thể. Ở hai vị trí xã hội khác
nhau, từ sự chuyển dịch ấy, Nguyễn Du và Cao Bá Quát
đi đến những suy nghiệm và day dứt, dằn vặt... cũng
khác nhau. Nguyễn Du so sánh hoàn cảnh cao sang của
mình với người cùng khổ để trở nên bất an trong tâm
trạng một ông Chánh sứ. Còn Cao Bá Quát, vốn đã ở
trong cảnh "Chiều nay không có cơm / Ruột quặn cồn
cào như kiến bò" (Mộ lai khuyết úng tôn / Khô
trường tẩu vạn nhĩ) (Mộ phạn bất cấp hý bút
ký sự - Bữa chiều không cơm, viết đùa ghi việc),
nên dễ dàng đồng nhất chủ thể với khách thể để đi
đến một tiếng kêu thống thiết về quyền làm người của
những con người bất hạnh trong bài Người hành
khất : "Bất tài diệc nhân dã" - Anh ta tuy hèn
nhưng cũng là người đấy. Hoặc đi đến một triết lý
cay đắng về thân phận lầm lũi của họ, và bằng kinh
nghiệm bản thân, ông lên tiếng cảnh báo về cái giá
phải trả cho một ý muốn không đâu, một ước mơ "bất
tử" được đổi thay địa vị, được từ bỏ, vượt thoát số
phận của mỗi người. Ông đáp lời người thầy thuốc đói
khát trong bài Giữa đường gặp người đói:
Y ! tử thả hưu lệ,
Nhất quỹ dữ tử hoan.
Du du nghịch lữ trung,
Bách niên thùy tự khoan ?
Mạn dã ! Mạc sậu yết,
Bạo doanh phi tráng nhan.
(Ôi thôi ! Bác ngừng lệ,
Cùng ta dùng bữa chơi.
Trăm năm trong quán trọ,
Ung dung nào mấy ai ?
Thong thả đừng vội nuốt,
Chợt no dễ khốn người) [5].
Loại thứ
hai là một số bài thơ đã hé nhìn thấy những vấn đề
xã hội ẩn hiện thấp thoáng đằng sau tấn bi kịch của
con người khốn cùng. Trong bài >
(Người vác hòm) nhà thơ chỉ cho thấy quá trình tha
hóa của một bác nông dân, từ chỗ có đến mười mẫu
ruộng đến chỗ phải đi tha phương cầu thực vì mất mùa
đói kém. Nhưng sự tha hóa còn đeo đuổi anh ta khi
anh ta trở lại quê, bị đám chức dịch xúm vào bắt nộp
thuế cho mười mẫu ruộng hoang, mà ruộng thì không
bán được. Túng thế, anh ta đành phải đi ở thuê cho
một nhà buôn, nghĩa là biến tấm thân tự do thành kẻ
tôi đòi. Bước tha hóa mới này đẩy thẳng anh vào cái
"xiềng" nô lệ "Xuy cấu nhật giao tinh" - Ngày
ngày cứ bị đánh mắng hoài. Nhất là phải chấp nhận
"những điều ngang trái" mà trước kia anh chưa bao
giờ nếm:
Đường thượng sung phì cam,
Hạ tận sấu lộ tích.
(Trên nhà thì của ngon vật lạ ê hề,
Dưới bếp thì người nào cũng gầy giơ xương).
Tồi tệ hơn nữa, một lối thoát khả dĩ trước mắt anh hoàn toàn
không có. "Nợ thuế tích lại đã lâu ngày" (Tô
trách nhật dĩ cửu) mà "Tiền công làm mướn để
dành được mấy quan" (Dong tiền dư sổ mâu) thì
"Chẳng may, sáng nay dọn tiệc rượu / Lại lỡ tay đánh
vỡ mất cái bình bằng ngọc lưu ly của ông chủ" (Triêu
lai lý tửu tịch / Ngộ phá lưu ly tôn). Nhưng
không chỉ có thế. Vấn đề là dưới trời này không thể
tìm ra một nơi nào không có ông chủ mà vẫn sống được
:
Thùy gia vô chủ nhân,
Khứ thử diệc hà thích ?
(Có nhà nào mà không có ông chủ,
Bỏ đây còn biết đi đâu ?)
Bài thơ Người vác hòm thực đã khắc họa được một biểu
tượng rất đắt về sự "cùng đường" của một phân số
nông dân trong xã hội Việt Nam đương thời, không
khác gì cái "cùng đường" về mặt tinh thần của một bộ
phận trí thức trong Bài ca ngắn đi trên cát.
Loại thứ ba là những bài thơ nói đến tấn kịch "dưới
đáy" không phải của một đối tượng nào khác mà của
chính bản thân nhà thơ. Ðó là những bài Cao Bá Quát
tự khắc họa mình trong thân thế của một tên tù bị
giam ở lao Thừa Phủ năm 1841. Trong những bài này có
sự kết hợp chặt chẽ cảm hứng xót xa về cảnh ngộ bị
rơi xuống vực thẳm với cảm hứng bi phẫn không thừa
nhận cảnh ngộ, chống lại cảnh ngộ bất nhân. Ta để ý
đến ba bài Trường giang thiên (Bài thơ vịnh
cái gông dài) và một bài Ðằng tiên ca (Bài ca
chiếc roi song).
Ba bài
trên, vừa là mạch thơ tự sự về tấm thân cơ cực của
một con người đang phải mang gông, suốt ngày không
rời được nó:
Thướng thủ bạn tương tam xích giản,
Hiếp kiên duệ trước ngũ thùy y
(Giơ tay lên, lôi theo mảnh tre ba thước,
So vai lại, kéo xệch cả manh áo nhẹ năm ly)
Lại vừa là một giọng thơ đối thoại - là tiếng nói đối thoại của người mang
gông trong tư cách một tội đồ với cái gông tượng
trưng cho bạo lực của kẻ cầm quyền. Cái người đang
bị bạo lực đẩy xuống dưới đáy cùng vực thẳm đã lên
tiếng phủ định bạo lực:
Nhậm giao thùy thị nhậm thùy phi,
Tổng dữ nhân gian quản nhục ky.
(Dù cho ai phải ai trái cũng mặc kệ,
Nói chung đây chỉ là cái máy làm nhục người đời mà
thôi).
Và tác giả tự thấy mình không việc gì phải "nổi giận
với bóng" hay "hổ thẹn với chăn" khi phải sống chung
với cái vật bất lương đó. Mạch thơ trữ tình đưa ông
lên một cảm hứng mới. Ông dứt khoát đòi lại lẽ phải,
đòi lại sự trong trắng của chính mình:
Tiện đương tế chúc song hàng tả,
Minh trước Nghiêu Phu "Thiện sự ngâm".
(Tiện đây nên chẻ mày
ra để viết lên đấy mấy dòng,
Viết bài Thiện sự ngâm của nhà thơ Thiệu Ung).
Nội dung
bài thơ Thiện sự ngâm (Thơ về việc thiện) của
Thiệu Ung đời Tống nói rằng: Người ta làm việc thiện
là vì việc thiện nên làm. Với hai câu kết dùng điển
tích Thiệu Ung một cách cố ý để che mờ đi ý tưởng
táo tợn đòi chẻ cái gông ra làm nhiều mảnh mà ai
cũng biết ngay không phải là sáo ngữ, Cao Bá Quát đã
dứt khoát khẳng định việc mình chữa quyển thi cho
học trò trong kỳ thi ở Huế năm 1841 mà ông được giao
chức Sơ khảo là "vì điều thiện". Không thể gông trói
ông, thậm chí phải chẻ nhỏ cái gông ra vì ông hoàn
toàn vô tội. Từ tư thế một người bị kết án, bằng sự
chuyển hóa tinh tế các biểu tượng nghệ thuật thơ,
ông đã nghiễm nhiên trở thành người lên án.
Còn Bài ca chiếc roi song là một bài trường thiên thất
ngôn, tả cái cảnh chịu đựng cực hình của người tù bị
nọc ra đánh giữa công đường. Một bài thơ thuộc loại
rất hiếm trong thơ cổ, cũng là bài thơ tả thực tài
hoa bậc nhất của thơ Cao Bá Quát. Nhà thơ mô tả tỉ
mỷ từ đầu đến cuối câu chuyện mà mình đóng vai
chính, với nét bút lướt nhanh như những lớp kịch. Từ
cái hình ảnh "Người tù xù đầu ngồi trên chiếc giường
gãy / Ngọn gió phần phật thổi vào áo quần" (Cơ
nhân bồng phát tọa đoạn sàng / Bi phong táp
táp xuy y thường), bỗng nghe "Tiếng gọi lanh
lảnh của chú lính lệ" (Bộ đinh yết lai thanh lang
lang) đến bắt ông lên công đường; rồi cảnh giải
đi "Khăn rách xốc xếch, chân bước vội vàng / Lúc vào
đến cửa có lính canh ngục kèm hai bên" (Tệ cân
bất chỉnh tẩu thả mang / Nhập môn ngục tốt
hiệp lưỡng bàng); cảnh người dân kinh kỳ thấy lạ
xúm xít lại để xem; cảnh công đường hiện ra oai
nghiêm với các quan lớn ngồi trên, quan nhỏ ngồi
dưới, và lệnh truyền đem hình cụ bày ra, trong đó
"Có cái roi song to, dài đến là dài / Da nó tía,
mình nó cứng, uốn nó lại thẳng đờ trở lại" (Cự
đằng chi tiên trường thả trường / Phu tử,
nhục ngạnh, nhụ như cương); tiếp đấy là cảnh
người tù bị nọc ra "nằm duỗi, vẻ sợ hãi xanh xám /
Ðầu quay nghiêng, mắt lấm lét như con dê hoảng hốt /
Chân tay căng thẳng, hai mắt quáng lên" (Cơ nhân
yển ngọa hình thương hoàng / Hồi đầu trắc cố
như kinh dương / Thủ thân cước trực, lưỡng
nhãn hoang). Những mô tả ở đây đều xuất phát từ
nội tâm nhà thơ / người tù, nên vừa rất thực lại vừa
là những ảnh xạ thần tình của tâm trạng chủ thể mà
người đứng ngoài không sao tưởng tượng được. Và trận
đòn tra tấn bắt đầu. Trong khi tiếng quan thét lên
thị uy "như tiếng sét, rung cả rường nhà" (Quan
thanh tích lịch tồi đài lương), tiếng nạn nhân
bị nỗi sợ làm tắc ứ "miệng không há rộng được / Chỉ
khan vã "Oan ! Oan !" và gào trời" (khẩu bất
trương / Khổ đạo khuất khuất hào khung thương)
thì ngọn roi song "quất nhoang nhoáng như ánh chớp"
(Ðiện hỏa thiểm thiểm giao phi tường) mà uy
lực của nó được đặc tả thông qua cái cảm giác đau
đớn của người chịu trận - đánh đã đau buốt mà ngừng
đánh lại càng đau hơn:
Hân như song giao bác hoại đường,
Bãi như lãnh thủy quán cấp thang.
(Roi giơ lên quất như hai con thuồng luồng quật
vào bờ ao lở,
Roi ngừng lại như nước lạnh xối vào nồi nước sôi).
Người tù hồn vía lên mây nhưng cũng còn hé mắt mong tìm một
chỗ bấu víu, thì thật là trớ trêu, cái anh nhìn thấy
đầu tiên lại là "Hai cái nọc đứng sừng sững, có dáng
ngạo nghễ" (Lưỡng mộc trác lập, thế quật cường).
Thêm một sự đe dọa, một mỉa mai cho người đang gặp
nạn. Bài ca chiếc roi song là một sự phối hợp tuyệt
diệu hình ảnh, âm thanh, câu chữ, tạo nên một không
khí đầy náo động, căng thẳng, và những tâm thế đối
lập đến cực điểm giữa những con người đang tham gia
vào "cuộc chơi" phũ phàng này, trong đó hai hình ảnh
đối cực nổi bật nhất là chiếc roi song và người tù.
Nhà thơ cũng vận dụng ở đây phép láy chữ với những
cặp từ đồng âm và đồng vần, xếp đặt liên tiếp nhau
trong cả bài thơ hoặc đặt gián cách một chữ: ảm
thảm, táp táp, lang lang, thúc xúc, trường thả
trường, thương hoàng, bàng quang, vấn tấn, khuất
khuất, tích lịch, thiểm thiểm, thương mang, thùy
thùy, đột ngột, kê thê... tạo nên một ngữ điệu miên
man, dồn dập và vô cùng bức xúc. Bài thơ gieo vần
bằng và độc vận: vần “ương”, góp thêm ấn tượng vào
âm hưởng miên man bức xúc ấy. Nhưng ở gần cuối bài,
tác giả bỗng chen vào ba vần trắc, gây nên một phản
hưởng. Về nghệ thuật, cú "dội trở lại" đó nói lên
điều gì? Chính là một dụng ý của người viết, báo
hiệu động thái chấm dứt dòng tự sự để bắt đầu chuyển
sang độc thoại trữ tình của nhà thơ - độc thoại mà
cũng là phản tỉnh: sau khi trận đòn chấm dứt, tù
nhân được thả ra, "Roi song rủ xuống, thôi không
hung hăng như trước nữa" (Ðằng tiên thùy thùy khí
bất dương), nhưng "con người" trong người tù thì
gượng đứng dậy và tìm một chỗ tựa tinh thần
để không gục ngã. Chỉ có thể quay nhìn vào chính
mình, tự khẳng định lại giá trị của mình chứ không
còn cách nào khác: Ta tai đằng
tiên!
Nhĩ bất kiến:
Đức Giang chi dương,
Nguyệt Hằng chi cương.
Thượng hữu bán tử chi tùng bách,
Đột ngột đống cửu chi tương vương !
Cẩu phất khí vu triết tượng,
Cố vô thủ hồ kê thê dữ dự chương,
Nhi hà tiễn phạt chi đương?
(Này này roi song!
Mày có thấy:
Ở bờ Nam Đức Giang,
Trên đỉnh núi Nguyệt Hằng;
Trên đó có cây tùng cây bách đang chết dở,
Giữa trời đông rét mướt mà vẫn đứng hiên ngang.
Ví phỏng có người thợ giỏi biết dùng không bỏ nó,
Thì sá chi những loài bồ kết chướng não tầm thường!
Vậy mà nỡ nào còn đốn chặt cho đang ?)
[6]
Ðức Giang và Nguyệt Hằng là những địa danh ở quê hương Cao Bá
Quát. Rõ ràng, chỉ một câu hỏi cuối cùng của bài thơ
đã có giá trị tẩy rửa và hoàn nguyên lại tư thế cứng
cỏi ngạo nghễ của nhà thơ Cao Bá Quát trong chiếc áo
người tù.
Thơ tù của
Cao Bá Quát đáng cho ta quan tâm vì đó là "hợp lưu"
của nhiều giọng điệu : trữ tình có, tự sự có, bi
thiết phẫn nộ đều có. Tác giả biết đặt mình như một
đối tượng để quan sát thấu đáo từ bên ngoài rồi mới
nhập thân trở lại, bổ sung cho cái nhìn từ bên
trong, nên cái nhìn bên trong là cái nhìn thẳm sâu,
nhìn vào chỗ khuất khúc nhất của cõi lòng tác giả.
Ông cũng biết vạch chỗ hèn yếu của mình khi mình đã
trót sa chân xuống địa ngục, bị hạ nhục, nói như
Nguyễn Du: "Thân lươn bao quản lấm đầu". Nhưng điều
quan trọng hơn là cuối cùng ông đã biết cưỡng lại,
trong muôn nghìn khốn khó vẫn tìm cách đoạt trở về
cái nhân phẩm vốn có của mình. Việc đó hoàn toàn
không dễ. Ý nghĩa thẩm mỹ đột xuất của những vần thơ
này của ông là cái khả năng thanh lọc kỳ diệu để
không hạ thấp giá trị của hình tượng trữ tình mà còn
đẩy nó lên cao hơn. Mặt khác, những vần thơ đó đã
đánh thức lương tri của người đọc, bắt người đọc
phải hòa nhập vào thái độ không chịu khuất phục hoàn
cảnh của chủ thể. Bằng tiếng nói nghệ thuật, con
người "dưới đáy" ở đây đã lấy lại sự thiện lương cho
mình, sự tự do và vị trí tinh thần cao quý trong tâm
thức độc giả cùng thời và đương đại.
___________________
[1]
Xem Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam, Quyển
V. Nxb. Sử học, Hà Nội, 1960; tr. 138.
[2] Bản dịch của nhóm Trà Lĩnh. Hội Sử học Việt Nam
xuất bản, Hà Nội, 1993; tr. 139. Ðặng Huy Trứ:
1825-1874. Những trích dẫn ở trên là lời Ðặng Huy
Trứ ghi lại ý kiến thân phụ Ðặng Văn Trọng
(1799-1849), người từng được tiếp xúc nhiều lần với
Cao Bá Quát ở Hà Nội, trong dinh Tổng đốc của anh
ruột mình là Ðặng Văn Hòa (1791-1856).
[3]
Toàn bài do chúng tôi dịch. Những phần dịch xuôi
trong bài viết này có tham khảo Thơ chữ Hán Cao
Bá Quát. Nxb. Văn học, Hà Nội, 1970.
[4] Cả bài do Vũ Khiêu
dịch.
[5] Trúc Khê dịch.
[6] Theo Bản dịch Xuân
Trang, có chỉnh lý chút ít.
|