6 bài viết về TRUYỆN KIỀU
Bài 1
Sau khi đọc và đem
khắc ván in Kim Vân Kiều tân truyện ở phố Hàng Gai-Hà Nội, Phạm Quý
Thích - bạn của Nguyễn Du - có viết bài “Thính Đoạn Trường Tân Thanh hữu
cảm” (1). Bài thơ có hai câu cuối :
“…Nhất phiến tài
tình thiên cổ lụy
Tân Thanh đáo để vị thuỳ thương”
Tạm dịch nghĩa:
…Một phiến tài tình
vương vấn cả ngàn năm
Xét cho cùng thì truyện Tân Thanh đã vì ai mà thương cảm?
Truyện Tân Thanh
đây là Truyện Kiều. Phạm Quý Thích nhân đọc truyện Nôm này mà nêu câu
hỏi: “Nguyễn Du viết Kiều là để cảm thương cho ai?”
Hiển nhiên Nguyễn
Du viết Kiều là để xót thương một tuyệt thế giai nhân tài hoa mệnh
bạc. Điều này rất rõ nên Phạm Quý thích nêu câu hỏi chẳng qua chỉ để gợi –
gợi cho người ta nghĩ về nỗi lòng sâu kín của Nguyễn Du: thương cho người là
để tủi cho mình.

Kim Vân Kiều quảng tập truyện;
Liễu Văn Đường tàng bản; Khải Định năm thứ 9 (1924)
Đầu truyện có khắc bài thơ của Phạm Quý Thích (Lương Đường Phạm
tiên sinh soạn thi nhất thủ)
(Trích từ
Bộ sưu tập
số hóa
tại Thư viện
Quốc gia Việt Nam)
NỖI LÒNG NGUYỄN DU – BI KỊCH CỦA MỘT NHÀ NHO KHÍ TIẾT
Đồng thanh tương
ứng. Phạm Quý Thích và Nguyễn Du, cả hai cùng đỗ đạt và làm quan đời Lê mạt.
Tây Sơn kéo quân ra Bắc diệt Trịnh, nhà Lê cũng tiêu vong. Phạm Quý Thích bỏ
trốn, không cộng tác cùng triều đình mới, còn Nguyễn Du thì cương quyết hơn,
muốn sang Tàu phù Lê, chống Tây Sơn. Việc không thành, lại vào Nam định theo
Chúa Nguyễn, bị Tây Sơn bắt giam 3 tháng. Sau khi được thả là bắt đầu quãng
đời “mười năm gió bụi” : khi ở nhờ nhà vợ ở Thái Bình, khi quay về quê dưới
chân núi Hồng… Rồi thời thế đổi thay; Tây Sơn sớm suy tàn. 1802, Nguyễn Ánh
nhất thống sơn hà. Nguyễn Du được đặc cách bổ nhiệm làm tri huyện Phù Dung,
ít lâu sau thăng Tri phủ; 3 năm sau lại thăng Đông Các Đại Học Sĩ (Chức danh
dành cho hàng Tiến sĩ, trong khi Nguyễn Du chỉ mới đỗ Tam trường, tức Tú
tài) tước Du Đức Hầu; sau lại thăng Cần Chánh Điện Đại Học Sĩ. Sau khi đi sứ
Trung Hoa về, lại được được thăng Lễ Bộ Hữu Tham Tri. Chức vị cao nhưng luôn
nghèo túng, bệnh tật, chỉ muốn từ quan mà về quê.
Bước công danh của
Nguyễn Du hanh thông, song ông chẳng mấy khi vui, thường u uất, sầu muộn.
Đại Nam Chính biên Liệt truyện có kể việc ông thường bị quan trên đè
nén, hay buồn rầu; mỗi khi vào chầu trong triều thường sợ sệt, không dám nói
năng gì. Có lần vua đã quở trách:
“Triều đình dùng
người, cứ kẻ hiền tài là dùng, chứ không phân biệt Nam Bắc. Ngươi
[…] đã
được ơn tri ngộ làm quan đến bực á khanh, biết việc gì thì phải nói để hết
chức trách của mình, sao lại cứ rụt rè sợ hãi, chỉ dạ dạ vâng vâng cho qua
chuyện thôi!”.
NỖI U UẤT CỦA NGUYỄN DU CÓ XUẤT PHÁT TỪ
MẶC CẢM CỦA MỘT HÀNG THẦN KHÔNG ?
Một số nhà nghiên
cứu Truyện Kiều ở thế kỉ XX, đầu tiên là Trần Trọng Kim, về sau nữa là Thạch
Trung Giả, Phạm Thế Ngũ… thường hay nêu mặc cảm của Nguyễn Du: mặc cảm
của một hàng thần xuất phát từ ý thức trung thần bất sự nhị quân.
Ý thức này cùng niềm hoài vọng nhà Lê tạo nên sự phản kháng bộc lộ qua thơ.
Họ thường nêu ví dụ: Từ Hải chỉ là một tên giặc cỏ bình thường trong Kim
Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, vậy mà Nguyễn Du đã tôn lên
thành anh hùng cái thế, sức mạnh nghiêng đổ cả triều đình…, hoặc đưa ví dụ
về suy nghĩ của Từ Hải trước lời đề nghị quy hàng của Thúy Kiều:
"…Một tay gây
dựng cơ đồ,
Bấy lâu bể Sở,
sông Ngô tung hoành.
Bó thân về với
triều đình,
Hàng thần lơ
láo, phận mình ra đâu?
Áo xiêm ràng
buộc lấy nhau,
Vào luồn ra cúi,
công hầu mà chi! “
và cho đây chính là
lời tâm sự của Nguyễn Du khi đang làm quan nhà Nguyễn…Lập luận này thoạt đầu
nghe hữu lí nhưng xét kĩ thì không đúng bởi mấy lí do sau:
Thứ nhất: Trước
đây, vì chỉ
căn cứ vào
Đại Nam chính biên liệt truyện, đoạn nói về Nguyễn Du: “Du trường
ư thi, vưu thiện quốc âm, Thanh sứ hoàn, dĩ Bắc Hành thi tập cập Thúy Kiều
truyện hành thế” (Du giỏi thơ lại rành chữ Nôm; đi sứ nhà Thanh về,
Bắc Hành thi tập và truyện Thúy Kiều được ra đời) mà các
nhà nghiên cứu cho là Truyện Kiều được viết sau khi Nguyễn Du đi sứ về tức
là khoảng từ
1813 đến
1820 và từ đó suy đoán ra là Truyện Kiều bộc lộ mặc cảm
hàng thần.
Gần đây, khi khảo sát
các bản Kiều Nôm cổ
và
căn cứ vào luật kị húy, người ta khẳng định được là Truyện Kiều không
thể viết vào đời Gia Long. Nói về luật kị húy: nước
ta bắt đầu có luật này từ đời Lê, đến đời Gia Long thì luật trở nên quan
trọng và phức tạp: ngoài tên riêng nguyên tổ và tên vua thì tên của cha, mẹ,
vợ, con, anh, em và có khi đến ông nội, bà nội… vua cũng được kiêng, thậm
chí còn buộc kiêng cả tên con dâu là Hồ Thị Hoa (vợ Thái tử Đảm, về
sau là vua Minh Mạng) mất sớm lúc mới 17 tuổi, khiến chợ Đông Hoa
phải đổi là chợ Đông Ba, cầu Hoa đổi là cầu Bông,
Thanh Hoa đổi là Thanh Hóa; kiêng cả tên lăng Vĩnh Thanh
(chôn vợ của chúa Nguyễn Phúc Chu) mà trấn Vĩnh Thanh đổi thành trấn
Vĩnh Long…
Điều 62, Luật
Gia Long quy định khắt khe: “Kẻ nào trong bài tấu trình với vua mà
dùng một tiếng trùng với tên vua hay tên một hoàng khảo sẽ bị phạt 80 côn.
Nếu ở các giấy tờ khác mà mắc phải tội phạm húy ấy thì bị phạt 40 côn”.
Vậy mà chẳng hạn: ở bản Kiều Nôm do Liễu Văn Đường khắc in năm Tự Đức thứ 24
(Dĩ nhiên là sao lại một bản viết tay từ trước) đã có câu 853: Tuồng chi
là giống
(種)
hôi
tanh,
Câu 1310: Thang lan
(蘭)
rủ
bức trướng hồng tắm hoa,
Câu 2750: Cỏ lan
(蘭)
mặt đất rêu phong dấu giày…
(2)
là những câu có chữ phạm húy bởi vì chữ “giống” trong câu thơ
đã viết y nguyên chữ chủng
種,
mà Chủng là tên vua Gia Long. Thời này, muốn viết chữ “giống”
thì
không được viết là
種
mà phải viết là
(thay
bộ hòa 禾
bên trái bằng chữ thái
采)
hoặc viết trại ra một chữ khác có cùng nghĩa. Chữ
Lan
蘭
là tên
mẹ cả của vua Gia Long tức Huy Gia Từ Phi ; muốn viết chữ này cũng
không được viết là
蘭
mà phải viết là 香
(hương)
nếu không sẽ
phạm trọng húy.
Nguyễn Du mà phạm húy như thế, chắc chắn đã phải phạt đánh đòn 40 gậy rồi
cách chức và đuổi về quê. Vì các lí do này ta đoan chắc Truyện Kiều phải
được viết trước đời Gia Long; chính xác là vào đời Tây Sơn. Mà viết vào đời
Tây Sơn thì Nguyễn Du nào đã hàng ai đâu mà mang mặc cảm hàng thần?
Thứ hai: Là người
kín đáo cẩn trọng - xem gương Nguyễn Văn Thành,
một công thần bậc nhất từng bao nhiêu năm cùng Gia Long vào sinh ra tử vậy
mà về sau chỉ vì con trai là Nguyễn Văn Thuyên có làm mấy câu thơ cao ngạo,
phạm thượng mà Nguyễn Văn Thành phải uống thuốc độc chết mặc dù đã
hết lời van xin; Nguyễn Văn Thuyên thì bị xử chém - Nguyễn Du không đời
nào đang là tôi triều đình nhà Nguyễn mà lại dám viết Truyện Kiều với những
câu đại nghịch ngôn như “… chọc trời khuấy nước mặc dầu/ Dọc ngang nào
biết trên đầu có ai” .
Thứ ba: Cứ nói mãi
chuyện Nguyễn Du với ý thức trung thần bất sự nhị quân là
không đúng - bởi một người tâm hồn phóng khoáng như Nguyễn Du thì khó mà bị
trói vào tư tưởng ngu trung như thế. Đọc cả 3 tập thơ chữ Hán, kể cả
Thanh Hiên thi tập được viết lúc còn trẻ sau khi nhà Lê mất, ta thấy
chẳng có bài nào bộc lộ tâm sự hoài Lê, mà tất cả chỉ là nỗi lòng của
một nhà thơ buồn, luôn suy nghĩ về kiếp người, suy nghĩ về những mảnh đời
lây lất trong chốn hồng trần, than thở cho phận mình và luôn ước mơ được về
quê sống an nhàn nơi thôn dã.
Căn cứ những lí lẽ
trên, có thể khẳng định là Nguyễn Du u uất chẳng phải vì chất chứa mặc
cảm hàng thần. Tư tưởng hoài Lê đã phai nhạt từ lâu trong lòng
cựu thần nhà Lê, nhất là từ khi nhà Tây Sơn không còn. Gia Long thống nhất
sơn hà; làm quan to triều Nguyễn thì Nguyễn Du chẳng còn hoài Lê làm
gì nữa song vẫn đau, vẫn u uất. Nỗi đau trong tâm tư Nguyễn Du
lúc này chẳng giống với nỗi đau lúc nhà Lê mới mất mà là nỗi đau về hoàn
cảnh sống. Đại Nam Liệt Truyện có chép: "Nguyễn Du là người ngạo
nghễ, tự phụ, song bề ngoài tỏ vẻ giữ gìn, cung kính, mỗi lần vào chầu vua
thì ra dáng sợ sệt như không biết nói năng gì...''. Nguyễn Du nặng khí
tiết người quân tử, như cây trúc gióng thẳng(3) , ông cảm thấy
mình lạc lõng giữa đám triều thần nhà Nguyễn lúc bấy giờ. Thật vậy, các quan
triều địa phương thường đố kị, trước hết vì ông là cựu thần nhà Lê…không đỗ
đạt cao mà được vua tin dùng, ban cho chức tước vào hàng nhất phẩm triều
đình… Trước thái độ ganh ghét tị hiềm, khí phách của nhà Nho khiến ông bất
an. Tập thơ Nam trung tạp ngâm chứng rõ điều này, nhất là bài thơ
cuối trong chuỗi 5 bài “Ngẫu hứng” : hình vóc Nguyễn Du hiện
ra khá rõ nét là một khách tha hương, lạ lẫm với mọi người chung quanh, luôn
muốn xa lánh, ẩn mình:
 |
Ngẫu hứng ngũ thủ
Kì
ngũ
Hữu nhất nhân yên
lương khả ai
Phá y tàn lạp sắc như
khôi
Tỵ nhân đãn mịch đạo
bàng tẩu
Tri thị
Thăng Long thành lý lai
Dịch thơ:
Gặp một
người… sao thật đáng thương!
Nón xơ,
áo rách, mặt thê lương,
Tránh
người, lầm lũi ven đường bước.
Rõ khách
Thăng Long lạ phố phường.
(Nguyễn Cẩm Xuyên dịch). |
Bài thơ kể người nhưng thực là
để tả chính mình(4); nhân vật trong thơ chính là Nguyễn Du, khách
tha hương nghèo túng, e dè, sợ sệt, từ đất Bắc vào chốn Thần kinh…
Cuộc đời buồn cứ dần trôi cho
đến năm 1820, trong trận dịch tả kinh hoàng khởi phát từ Hà Tiên lan dần ra
Bắc; đến Huế, Nguyễn Du là một trong các nạn nhân của trận đại dịch này,
Đại Nam liệt truyện có kể lại chi tiết lúc ông sắp mất: "…Đến khi
đau nặng, ông không chịu uống thuốc, bảo người nhà sờ tay chân. Họ thưa đã
lạnh cả rồi. Ông nói "được" rồi mất; không trối lại điều gì."
Cái chết đến, Nguyễn Du hình như
thỏa nguyện; nó giúp ông chấm dứt một chuỗi dài bi kịch cuộc đời.
Cuộc đời, sự nghiệp văn chương
Nguyễn Du là một phiến tài tình. Phiến tài tình ấy không chỉ làm bận
lòng ta hôm nay mà còn khiến hậu thế ngàn năm sau còn nhỏ lụy.
---------------------
CHÚ THÍCH:
(1)
Phạm
Quý
Thích
đỗ Tiến sĩ đời Lê mạt, được bổ Hiệu thảo Viện Hàn lâm kiêm chức Giám sát Ngự
sử đạo Kinh Bắc, làm quan giữ chức Thiêm Sai Tri Công Phiên. Nhà Lê mất, ông
không cộng tác với Tây Sơn. Đời Gia Long, được bổ làm đốc học rồi Trung
thư học sĩ, tước Thích An Hầu, trông coi việc chép sử ở triều
đình; sau cáo bệnh, về quê dạy học. Nhân đọc truyện Kiều, Phạm Quý Thích có
bài thơ:
聽斷
腸
新
聲有感
佳
人
不
是
到
錢
塘
半
世
煙
花
債
未
償
玉
面
豈
應
埋
水
國
冰
心
自
可
對
金
郎
斷
腸
夢
裏
根
緣
了
薄
命
琴
終
怨
恨
長
一
片
才
情
千
古
累
新
聲
到
底
為
誰
傷
THÍNH ĐOẠN TRƯỜNG TÂN THANH HỮU CẢM
Giai nhân bất thị đáo Tiền Đường
Bán thế yên hoa trái vị thường
Ngọc diện khởi ưng mai Thuỷ Quốc
Băng tâm tự khả đối Kim Lang
Đoạn trường mộng lý căn duyên liễu
Bạc mệnh cầm chung oán hận trường
Nhất phiến tài tình thiên cổ lụy
Tân Thanh đáo để vị thuỳ thương
Tác giả tự dịch thơ:
Giọt nước Tiền Đường chẳng rửa oan
Phong ba chưa trắng nợ hồng nhan
Lòng còn tơ vướng chàng Kim Trọng
Vẻ ngọc chưa phai chốn thuỷ quan
Nửa giấc Đoạn trường tan gối điệp
Một dây Bạc mệnh dứt cầm loan
Cho hay những kẻ tài tình lắm
Trời bắt làm gương để thế gian.
(2)
Nguyễn Du viết Truyện Kiều khi nào ? – Nguyễn Khắc Bảo; tạp chí
Ngôn ngữ & đời sống số 6 năm 2000.
(3) Có lẽ vì vậy mà chữ tiết
節(trong
khí tiết, danh tiết…) thuộc bộ trúc. Tiết là đốt trúc, đốt tre.
(4) Đào Duy Anh chú: “Tả tình cảnh ngơ ngác, ngờ sợ của người ở miền Bắc,
tôi cũ của nhà Lê, mới vào kinh đô Huế, ở giữa những người của nhà Nguyễn,
không phải vai vế của mình, người này chính là Nguyễn Du”. Chúng tôi e không
phải. Dù nghèo, Nguyễn Du chắc không đén nỗi thế! Đây chắc là một người ở
Thăng Long vào những năm đói, loạn ly, tìm đường vào Nam, tìm sinh kế mà
Nguyễn Du bắt gặp trên đường… (Mai Quốc Liên, Nguyễn Quảng Tuân, Ngô
Linh Ngọc, Lê Thu Yến - Nguyễn Du toàn tập, NXB Văn Học 1996, trang
216 )
BÀI 2 :
TỪ GHI CHÉP VỀ VƯƠNG THÚY KIỀU
TRONG MINH SỬ ĐẾN TRUYỆN KIỀU
CỦA NGUYỄN DU
Truyện Kiều
của Nguyễn Du chiếm địa vị cao nhất trong
văn học nước ta. Kiều không chỉ phổ biến rộng trong giới bình dân mà
cả ở hàng trí thức, quí tộc, vua chúa… vẫn thích. Tương truyền vua Tự Đức mê
đọc Kiều đến nỗi sách mòn đứt chỉ khâu, phải đóng gáy lại đến 3 lần.
Từ thực tế ấy, rõ ràng không có tác phẩm nào
được chú ý nhiều đến vậy. Hơn thế nữa, truyện còn gây nên những tranh cãi
kịch liệt xuất phát từ những quan điểm mâu thuẫn nhau. Khi mới được phổ
biến, nhiều nhà Nho vẫn bài bác:
Đàn ông chớ kể Phan Trần
Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy
Kiều.
“kể”
ở đây là đọc, là ngâm lên cho người khác cùng nghe, cùng thưởng thức. Tam
tòng, tứ đức cứng nhắc của đạo Nho đã khiến người ta dị ứng với những chuyện
tình vượt ra ngoài vòng lễ giáo âu cũng là điều dễ hiểu; ấy vậy mà Kiều
vẫn có sức sống mạnh mẽ. Người ta không chỉ đọc mà còn đố Kiều,
lẩy Kiều, bói Kiều, vịnh Kiều, tập Kiều…; cứ thế trải qua hơn trăm năm,
đến đầu thế kỉ XX thì nhóm tân học Trần
Trọng Kim, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh… khen ngợi Truyện Kiều
đến tột cùng. Trên Nam Phong tạp chí, học giả Phạm Quỳnh đã từng viết: “…
trước truyện Kiều không có sách gì hay bằng truyện Kiều,
mà sau truyện Kiều cũng không có sách gì hay hơn truyện Kiều
nữa…”. Ngày 8 tháng 12 năm 1924, trong lễ giỗ Nguyễn Du tại Hà Nội,
Phạm Quỳnh - lúc này đang là chủ bút báo Nam Phong - trước hơn hai nghìn
người đã hùng hồn tuyên bố “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn. Tiếng
ta còn, nước ta còn”. Kể từ đó người tham gia tranh luận nhiều vô
kể. Có người đồng ý, có kẻ nặng lời chỉ trích.
Truyện Kiều ở nước ta nổi tiếng
là vậy mà nhân vật, cốt truyện lại là của sử sách Trung Hoa. Việc này cũng
dễ hiểu bởi nước ta thâm nhập văn hóa Trung Hoa đã lâu đời. Các nhà Nho nước
ta học chữ Hán, đọc sách Tàu thì thơ văn sáng tác chịu ảnh hưởng sách vở
Trung Hoa là điều không tránh được. Nguyễn Du cũng không ở vào biệt lệ; vậy
nhưng tuy mượn cốt truyện của Tàu mà các vật liệu khác tạo nên tác phẩm lại
là thuần Việt: từ tính cách, ngôn ngữ nhân vật, các tình tiết truyện đến
từng suy nghĩ, thái độ, cách ứng xử của các nhân vật…đều mang màu sắc đặc
trưng của người Việt. Đọc Truyện Kiều: nhân vật trong truyện là những
con người thuần Việt Nam không lẫn vào đâu được, khác xa tính cách nhân vật
trong các truyện về Vương Thúy Kiều từ Minh cho đến Thanh của Trung Hoa.
TỪ MINH SỬ ĐẾN “VƯƠNG THÚY KIỀU TRUYỆN”
Vương Thúy Kiều là người thật ở
đời Minh về sau trở thành nhân vật trung tâm của nhiều tiểu thuyết và một số
vở kịch, tuồng như Tứ Thanh Viên của Từ Văn Trường(1)
Hổ phách thỉ của Diệp Trĩ Phỉ, Song Thúy viên của Hạ Bỉnh Hoành...
rồi trở thành nhân vật chính trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. Mấy
mươi năm trước, nói đến nguồn gốc Truyện Kiều, nhiều sách – kể cả một
số sách giáo khoa trong nhà trường ở cả hai miền Nam Bắc – thường chỉ nhắc
đến Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm tài nhân mà bỏ qua nhiều tác
phẩm khác đời Minh đã viết về cuộc đời Vương Thúy Kiều.
Trước tiên, cần nói đến bộ sách
Trù Hải Đồ Biên do quan Tổng đốc đời Minh là Hồ Tôn Hiến soạn gồm 13
quyển; ở quyển 9 có bài Kỷ tiễu Từ Hải bản mạt (2) (ghi
chép ngọn ngành việc đánh dẹp Từ Hải) kể lại chuyện quân Minh đánh nhau với
quân Oa (3)
vào năm Bính Thìn (1556)
đời Gia Tĩnh. Lúc này Từ Hải, một tướng cướp biển, mang hơn 1 vạn quân từ
sào huyệt ở Sạ Phố xuống Hàng Châu càn quét các vùng Tô Châu, Hồ Châu, uy
hiếp Kim Lăng. Thế giặc mạnh, Hồ Tôn Hiến phải dùng mưu dụ hàng rồi trở
ngược lại đánh bằng hỏa công. Từ Hải thua trận nhảy xuống sông. Quân Hồ Tôn
Hiến bắt được 2 thị nữ, một người tên Vương Thuý Kiều, một người tên Lục
Châu, vốn xuất thân từ ca kỹ. Hai thị nữ khóc và chỉ chỗ Hải trầm mình; quân
sĩ vớt Từ Hải lên chém lấy thủ cấp mang về…
.jpg)
《金云翘传》,又名《双奇梦》、《双合欢》。
“Kim Vân Kiều truyện”,
hựu danh “Song kì mộng”, “Song hợp hoan”
(Kim Vân Kiều truyện của Trung Quốc còn có tên là Song ki
mộng, Song hợp hoan)
Về sau lại có thêm nhiều tác
phẩm nữa kể chuyện Vương Thúy Kiều là Hồ Thiếu Bảo bình Oa chiến
công
của
Chu Tiếp, Vương Thúy Kiều truyện của
Dư Hoài, Lý Thúy Kiều
truyện của Đới Sĩ Lâm, Sinh báo Hoa Ngạc ân, tử tạ Từ Hải
nghĩa của Mộng Giác Đạo Nhân (4) và Vương Thúy
Kiều truyện của Hồ Khoáng. Trong truyện, Từ Hải đã được miêu tả là một
anh hùng bên cạnh phu nhân là Vương Thúy Kiều. Các truyện càng về sau càng
hư cấu thêm nhiều nhân vật, nhiều tình tiết, biến chuyện có thật của lịch sử
thành tiểu thuyết kì tình; riêng truyện của Mộng Giác Đạo Nhân và Dư Hoài
(5) đã là tiểu thuyết luận đề, tập trung vào chủ đề tư tưởng rất
hợp khẩu vị của giới bình dân: người phụ nữ rất đỗi tầm thường trong xã
hội mà lại trung nghĩa, khí tiết hơn hẳn các bậc trượng phu, hơn cả những
đại nhân, quan lại như Hồ Tôn Hiến. Mở đầu truyện, mặc dù Mộng Giác Đạo
Nhân đã nêu gương Muội Hỉ, Đát Kỉ, Bao Tự, Trương Lệ Hoa, Dương Quý Phi… làm
“hoang khí chính sự, chí táng quốc gia” trước khi kể chuyện Vương
Thúy Kiều nhưng tựu trung lại tô điểm cho nhân vật này nhiều hào quang khiến
hình ảnh người phụ nữ trong xã hội được đề cao: Vương Thúy Kiều không chỉ
đẹp về hình vóc mà còn đẹp cả về tư cách, phẩm hạnh, là người trung hiếu vẹn
toàn lại rất nghĩa khí: sẵn sàng liều mình khi ân nhân tử nạn.
TỪ
TIỂU THUYẾT MINH-THANH
ĐẾN TRUYỆN KIỀU CỦA NGUYỄN DU.
Trong tất cả các sách viết về
Vương Thúy Kiều của Trung Hoa thì Sinh báo Hoa Ngạc ân, tử tạ Từ Hải
nghĩa của Mộng Giác Đạo Nhân và Vương Thúy Kiều truyện của Dư
Hoài là đã bắt đầu đậm chất tiểu thuyết và đã kể về cuộc đời Kiều khá tỉ mỉ:
Vương Thúy Kiều là người Lâm
Tri, thuở nhỏ bị bán vào kĩ viện, lấy họ Mã, thường gọi là Mã Kiều nhi.
Tuy còn nhỏ nhưng đẹp và thông minh, lại hát hay, đàn giỏi, thổi sáo cũng
hay nên được nhiều người mến chuộng; vậy nhưng tính tình nhã đạm, không
thích trang sức và cũng không thích nghề chiều chuộng khách nên giả mẫu lấy
thế làm giận, thường chửi đánh. May có được một chàng thiếu niên giàu có
chuộc ra, thuê nhà cho ở, đổi tên là Vương Thúy Kiều. Về sau lại gặp La Long
Văn, một hào phú có cảm tình thường chu cấp, đi lại với Kiều và nuôi thêm
cho một hầu gái là Lục Châu. Lúc này có một tướng cướp là Từ Hải, gặp lúc
quẫn bách lẻn trốn vào ở nhờ nhà Thúy Kiều.
Từ Hải nguyên là Minh Sơn
Hòa Thượng, tu tại chùa Hổ Bào ở Hàng Châu. Long Văn gặp Từ Hải, đánh
giá Hải là tráng sĩ nên cùng giao tiếp, lại đem cho Lục Châu làm hầu gái.
Sống cùng La Long Văn một thời gian, Từ Hải từ biệt lên đường quyết lập chí
dựng cơ đồ, chiêu tập bọn thảo khấu quay về xâm chiếm Giang Nam, vây đánh
Tuần phủ Nguyễn Ngạc. Thật bất ngờ, trong một trận đánh, quân sĩ lại bắt
được Thúy Kiều và Lục Châu. Mừng lắm, Từ Hải lập Thúy Kiều làm phu nhân,
thường cùng cho dự bàn quân cơ. Lúc này thế lực Từ Hải đã mạnh; triều đình
phải cử Tổng đốc Hồ Tôn Hiến ở Triết Giang đánh dẹp. Hồ Tôn Hiến nhiều mưu
lược, thấy thế lực của Từ mạnh bèn cho Hoa lão nhân đến dụ hàng. Từ Hải nổi
giận bắt trói Hoa lão nhân. May cho Hoa là lúc này tuy Kiều hết sức được yêu
chiều nhưng vẫn canh cánh nỗi nhớ cố hương, mong sớm được đoàn viên bèn bàn
với Từ tha chết cho Hoa. Hoa trở về báo với Tôn Hiến là thế giặc đang mạnh,
chưa thể đánh nhưng xem ra Vương phu nhân có vẻ có ngoại tâm, ta có thể nhân
đây mà thắng giặc. Tôn Hiến có biết La Long Văn là ân nhân cũ của Từ Hải và
Thúy Kiều bèn dùng Văn để dụ hàng. Long Văn đến dinh, được Từ Hải ân cần
tiếp đãi lại cho gọi phu nhân cùng Lục Châu ra chào. Trở về, Long Văn bàn
với Hồ Tôn Hiến dùng kế đem châu báu lo lót Thúy Kiều, vận động Từ quy hàng.
Đúng như ý nguyện, Kiều ra sức khuyên Từ Hải quy phục triều đình. Nghe lời
Thúy Kiều, Từ Hải ước hàng cùng Tôn Hiến, không phòng bị gì. Tôn Hiến dùng
hỏa công đánh giặc tan tác. Từ Hải nhảy xuống sông bị quan quân vớt lên chém
đầu. Trong tiệc khao binh, Tôn Hiến bắt Thúy Kiều hát và chuốc rượu. Lúc quá
chén, Tôn Hiến cũng giở trò đùa cợt. Hôm sau tỉnh rượu, sợ mất thể diện
trọng thần, Tôn Hiến đem Thúy Kiều gả cho tù trưởng Vĩnh Thuận. Lúc sang
sông, Kiều khóc lớn rồi đâm đầu xuống nước tự trầm.
Truyện của Dư Hoài tuy đã khá
gần với Truyện Kiều nước ta song chưa xây dựng đoạn Kim Kiều tái hợp.
Kiều chết trên sông Tiền Đường là hết chuyện. Cuộc đời Kiều chưa chứng minh
cho tư tưởng Thiên mệnh và Nhân quả. Phải đợi đến đời Thanh,
KIM VÂN KIỀU TRUYỆN của Thanh Tâm tài nhân mới thực sự có cốt
truyện gần giống với truyện Kiều của ta.
Dương Quảng Hàm trong Việt
Nam văn học sử yếu cho rằng Truyện Kiều nước ta đã xuất phát từ Kim
Vân Kiều truyện của Thanh Tâm tài nhân. Học giả Phạm Quỳnh cũng có ý
kiến tương tự: “…Nguyên bộ tiểu thuyết Tàu mà cụ phỏng theo để đặt ra
truyện Kiều đề là “Thanh Tâm tài nhân lục”, không biết rõ
tác giả là ai, soạn vào đời nào, nhưng truyện với lời văn cũng tầm thường,
ngoài mấy bài từ điệu có vẻ thanh tao lưu loát, không có đặc sắc gì. Nhưng
bộ tiểu thuyết ấy cũng không phải là truyện đặt ra cả, có lẽ căn cứ ở sự
thực mà kết cấu ra…”
Vậy là lúc này Phạm Quỳnh chưa
thể xác định được Thanh Tâm tài nhân là ai và Kim Vân Kiều truyện
viết khi nào, riêng Dương Quảng Hàm thì cho rằng: “Tuy là không biết tác
giả tên thực là gì và sống về đời nào nhưng các việc kể trong tiểu thuyết
đều thuộc về đời Gia tĩnh nhà Minh tức là tự năm 1522 đến năm 1566, mà sách
ấy lại do Kim Thánh thán sống tự năm 1627 đến năm 1662 phê bình, vậy theo
đấy ta có thể biết được rằng sách ấy làm vào khoảng cuối thế kỷ thứ XVI hoặc
đầu thế kỷ thứ XVII”. Đến nay vẫn tồn tại nhiều giả thuyết về Thanh Tâm
tài nhân, chưa ai khẳng định được đích xác.
Như vậy qua khoảng thời gian
dài, một câu chuyện có thật trong lịch sử Trung Hoa đã trở thành một tiểu
thuyết kì tình sau khi trải qua cả một quá trình sửa đổi thêm thắt nhiều
tình tiết, nhân vật. Từ một con hát nơi kĩ viện, thường bị giả mẫu chửi đánh
vì không chịu chiều đãi khách, Mã Kiều nhi đã thành một tiểu thư xuất
thân nơi khuê các, có cuộc tình đầy hoa mộng với văn nhân Kim Trọng - một
nhân vật không hề có trong đời thực của Vương Thúy Kiều; rồi cuộc đoàn
viên sau 15 năm lưu lạc đến đời Thanh được thêm vào là nhằm phục vụ chủ
đề “ở hiền gặp lành”, một chủ đề quen thuộc trong văn chương Đông Á… Có lẽ
tất cả những cải biên này là sự phối hợp giữa những chuyện kể dân gian với
sức tưởng tượng phong phú của nhà văn đời Minh-Thanh qua hơn 200 năm… rồi
sau khi đến Việt Nam, nhân vật Vương Thúy Kiều lại được khoác lên một diện
mạo hoàn toàn mới: sau khi lược bớt một số đoạn, thay đổi nhiều tình tiết,
truyện đã trở nên ý vị hơn, đậm tình người hơn, tính cách nhân vật trở nên
nhất quán hơn, cách ứng xử cân phân hơn, nhân hậu hơn…
--------------------
CHÚ THÍCH:
(1)
Từ Văn Trường
(Từ Vị), một nhà văn đời Minh, có nhiều bút danh: Thiện Tri, Thanh đằng,
Điền Thủy Nguyệt, là mặc khách của Hồ Tôn Hiến.
(2)
TRÙ HẢI ĐỒ BIÊN
籌海圖編
là bộ sách do Hồ Tôn Hiến soạn, gồm họa đồ vẽ các vùng biển thường bị quân
hải khấu Nhật xâm phạm và các kế hoạch trù định nhằm giữ gìn an ninh vùng
biển. Bài Kỷ tiễu Từ Hải bản mạt
纪剿徐海本末
chép ở quyển 9 của bộ sách này là do Phó sứ Mao Khôn, thuộc cấp theo lệnh Hồ
Tôn Hiến ghi chép, đã kể lại khá tỉ mỉ cuộc đánh dẹp Từ Hải. (Hồ Tôn Hiến -
Trù Hải Đồ Biên, Cảnh Ấn Văn Uyên Các, Tứ Khố Toàn Thư,
sách thứ 343.
Đài Bắc, Đài Loan; Thương Vụ ấn thư quán, 1983)
(3)
Oa
倭
: lùn. Người Nhật bản xưa thấp bé nên người Trung Hoa gọi là Oa nhân
倭
人(người
lùn),
nước
Nhật là
Oa quốc
倭国
,
cướp biển từ Nhật sang gọi là
Oa khấu
倭寇
(giặc lùn). Chữ Oa vẫn hay bị đọc nhầm là Nụy
(4)
Đây là hồi thứ 7 của tập truyện
三刻拍案惊奇Tam
Khắc Phách Án Kinh Kì
đời Minh của
梦觉道人
Mộng Giác Đạo Nhân.
.
(5)
Dư Hoài
余怀(1617—?)tự
là Đạm Tâm,
học giả, nhà thơ, nhà văn nổi tiếng đất Giang Nam đời Minh mạt-Thanh sơ.
Bài 3 :
TỪ “KIM VÂN KIỀU TRUYỆN”
CỦA THANH TÂM TÀI NHÂN
ĐẾN “TRUYỆN KIỀU” CỦA NGUYỄN DU
Nguyễn Cẩm Xuyên
KIẾN THỨC NGÀY NAY số 757 ngày 20/8/2011
Hồ Tôn Hiến 胡宗憲
(1512 - 1565) là nhân vật của Truyện Kiều nhưng lại là một trọng thần
có thật ở đời Minh của Trung Quốc. Chính Hồ Tôn Hiến là người đầu tiên cho
quan thuộc cấp ghi chép lại việc đánh dẹp Từ Hải, bắt Vương Thúy Kiều để rồi
dần dà hàng trăm năm sau, chuyện người thật việc thật ấy được phóng tác
thành nhiều tiểu thuyết khác nhau của Trung Quốc và cuối cùng tạo nguồn cảm
hứng cho Nguyễn Du viết Truyện Kiều bằng chữ Nôm ở nước ta.
Hồ Tôn Hiến từng đỗ tiến sĩ đời Minh Thế Tông, là nhà quân sự có tài, đã
bình định được nhiều cuộc nổi loạn, đặc biệt đã đánh dẹp được Oa khấu
(quân cướp biển người Nhật) thường quấy nhiễu vùng biển đông-nam Trung Quốc,
được thăng Thái tử thái bảo,
giữ chức Đô Sát Viện Tả Đô Ngự
Sử kiêm Thượng
thư bộ Binh. Hồ Tôn Hiến còn là nhà viết văn, sử đời Minh; về sau vì
liên kết bè cánh với Nghiêm Tung (1) là người tạo biến cố
Canh Tuất (1550), Tôn Hiến bị bắt giam rồi tự tử, chết trong ngục.
KIM VÂN KIỀU
TRUYỆN ĐỜI THANH LÀ NGUỒN GỐC CỦA TRUYỆN KIỀU
NHƯNG LẠI ÍT
NGƯỜI BIẾT ĐẾN
Thầy Dương Quảng Hàm trong Việt Nam văn học sử yếu, học giả Phạm
Quỳnh trên Nam Phong tạp chí đều cho rằng Truyện Kiều nước ta
xuất phát từ Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm tài nhân. Quả đúng như
vậy và ta có thể đoan chắc được điều này bởi xem kĩ, so sánh các các tiểu
thuyết Minh-Thanh viết về Vương Thúy Kiều–Từ Hải thì nội dung Kim Vân
Kiều truyện của Thanh Tâm tài nhân(2) là gần gũi nhất với
Truyện Kiều của cụ Nguyễn Du. Chỉ có một điều rất lạ là trong khi
Truyện Kiều của Nguyễn Du nổi tiếng khắp nơi mà Kim Vân Kiều truyện
của Thanh Tâm tài nhân thì về sau không riêng gì quần chúng mà ngay các học
giả Trung Quốc cũng ít người biết đến.
Giáo sư Văn học Đổng Văn Thành, Trường đại học Liêu Ninh đã viết:
“…Những năm 60, hồi học khoa Trung văn trường đại học, qua giáo trình
văn học nước ngoài, tôi được biết ở Việt Nam có một truyện thơ nổi tiếng thế
giới gọi là truyện Kim Vân Kiều. Từ đó tên truyện Kim Vân Kiều – viên ngọc
sáng của văn học phương Đông, in vào ký ức tôi.
[…] Vì truyện thơ đó có quan hệ máu
thịt với văn học của tổ quốc cho nên tôi rất hứng thú.
[…] Chúng ta cần phải học tập và tham
khảo di sản ưu tú của nước ngoài, nhưng cũng không nên lãng quên gốc gác mà
nên tôn trọng và kế thừa di sản văn học ưu tú của dân tộc mình. Dựa trên
tinh thần đó, từ lâu tôi đã mong có ngày nhìn thấy truyện “Kim Vân Kiều”,
cuốn tiểu thuyết Trung Quốc nghe nói đã thất truyền ở trong nước.
Năm 1981 bất ngờ phát hiện ra cuốn sách đó ở thư viện Đại Liên, nỗi vui
mừng của tôi thật không sao hình dung nổi. Tôi đọc một hơi hết cả cuốn sách
…” (3) .
KIM VÂN KIỀU
TRUYỆN CỦA THANH TÂM TÀI NHÂN :
VỐN ĐÃ BỊ NGƯỜI
TRUNG QUỐC COI RẺ
Cũng trong bài trên, GS. Đổng Văn Thành viết thêm:
“… cuốn sách của tác giả Thanh Tâm tài nhân bị vùi lấp hàng mấy thế kỷ
trong văn học sử Trung Quốc; từ cuối đời Thanh cho tới những năm 50 của thế
kỷ XX, cuốn tiểu thuyết ấy hầu như được ít người biết đến. Trong tất cả các
sách về lịch sử tiểu thuyết, lịch sử văn học, kể từ cuốn Sơ lược lịch sử
tiểu thuyết Trung Quốc của Lỗ Tấn đến nay, đều không có đến nửa chữ giới
thiệu về nó. Thứ hai, ông Tôn Khải Đệ, chuyên gia nghiên cứu tiểu thuyết
Trung Quốc, người sớm nhất nhắc đến nó trong sách Thư mục tiểu thuyết, được
thấy ở Tokyo – Nhật Bản, xuất bản năm 1932, lại coi nó là điển hình của
những tác phẩm kém cỏi. Ông nghiêm khắc chê bai: “Dựa vào sự việc của Thúy
Kiều mà viết cho sáng rõ ra – vốn có thể mở một thế giới khác ngoài lối tiểu
thuyết cũ rích in hệt nhau, tiếc rằng lực hút của tác giả quá yếu, không thể
mang lại sức sống cho Thúy Kiều. Còn việc Thúy Kiều nhảy xuống sông tự trầm
vốn là kết cục rất tự nhiên, có thể viết rất hay, thế mà tác giả lại cố ý
xóa nhòa sự thực, cho nàng được người cứu sống, trả lại đoàn viên. Nhân đấy
than thở cho kẻ tục trong đời, thật là muốn chữa chạy cũng chữa không nổi.
Người xưa tiết hạnh lạ kỳ đến thế, không may lạc vào sách của kẻ tầm thường
nên cảnh tượng mới ra như vậy”.
Cuốn sách hầu như bị sổ toẹt, từ đó tiếng xấu lan xa trong ngoài nước.
Lúc được phát hiện thì đồng thời cũng là lúc dường như bị phán quyết án tử
hình. Truyện Kim Vân Kiều khó mà thay đổi được số phận đáng buồn là bị vứt
bỏ.
Sau khi người Trung Quốc tự đẩy cuốn tiểu thuyết của mình xuống vực, học
giả nước ngoài nghiên cứu văn học Trung Quốc càng không thèm để ý đến nữa.
Nếu không có Nhà xuất bản Xuân Phong Văn Nghệ in lại tiểu thuyết đời
Minh–Thanh, hẳn bộ tiểu thuyết này còn bị ngăn cách với bạn đọc lâu hơn nữa.
Phải chăng tác giả Trung Quốc Thanh Tâm tài nhân – con người “tầm
thường”, “không thể cứu chữa” – đã làm hỏng đề tài Vương Thúy Kiều đến nỗi
không một chỗ nào coi được, phải hoàn toàn nhờ sự gia công “thiên tài” của
tác giả Việt Nam Nguyễn Du mới biến miếng sắt bỏ đi thành vàng ròng lấp
lánh?...” (4)
Ở Trung Quốc, trải qua mấy trăm năm “Kim Vân Kiều truyện” ít được phổ
biến. Các học giả cũng chẳng mấy ai biết… vậy mà ở nước ta, 62 năm trước khi
GS. Đổng Văn Thành phát hiện ra Kim Vân Kiều truyện, học giả Phạm
Quỳnh đã từng đọc truyện này và viết trên
tạp chí Nam Phong số 30,
tháng 12 năm 1919: “…Nguyên bộ tiểu thuyết Tàu mà cụ phỏng theo để đặt
ra truyện Kiều đề là “Thanh Tâm tài nhân lục”, không biết
rõ tác giả là ai, soạn vào đời nào, nhưng truyện với lời văn cũng tầm
thường, ngoài mấy bài từ điệu có vẻ thanh tao lưu loát, không có đặc sắc
gì…”.
 
Tạp chí
Nam Phong và Chủ bút Phạm Quỳnh
Vào những năm đầu thế kỉ XX ấy, Phạm Quỳnh tuy chưa đủ nguồn tư liệu để biết
người Trung Quốc đánh giá Kim Vân Kiều truyện ra sao nhưng căn cứ vào
câu chữ, nghệ thuật của truyện… đã khẳng định được đây chỉ là một cuốn
truyện xoàng. Nay thì ta biết rõ hơn là cuốn truyện này qua mấy thế kỉ đã bị
chính người Trung Quốc rẻ rúng.
XÁC
ĐỊNH TƯƠNG QUAN GIÁ TRỊ
GIỮA “KIM VÂN KIỀU TRUYỆN” VÀ “TRUYỆN KIỀU”
Trần Nghĩa, trên tạp chí Hán Nôm số 2/1998 đã viết: “… Khi luận giải về
mối quan hệ giữa Kim Vân Kiều tân truyện của Nguyễn Du và Kim Vân Kiều
truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, một số người băn khoăn không rõ vì sao Nguyễn
Du lại chọn một tác phẩm vô danh tiểu tốt của Trung Quốc để cải biên hoặc
chuyển thể và càng khó hiểu hơn ở chỗ tác phẩm cải biên hoặc chuyển thể này
lại được công chúng Việt nam chấp nhận và hoan nghênh. Liệu có sự nhầm lẫn
gì ở đây không ? […] Hiện
tượng “người bỏ, ta lấy; người khinh, ta chuộng” cũng đã từng xảy ra trong
giao lưu văn học thế giới […]
Nhưng với Kim Vân Kiều tân truyện và Kim Vân Kiều truyện, tình hình không
phải như vậy. Bởi lẽ đề tài “Thúy Kiều” trước Thanh Tâm tài nhân đã được rất
nhiều cây bút Trung Quốc khai thác, như Dư Hoài với Vương Thúy Kiều truyện,
Đới Sĩ Lâm với Lý Thúy Kiều truyện, Mộng Giác Đạo Nhân với Sinh báo Hoa Ngạc
ân, tử tạ Từ Hải nghĩa trong Tam khắc phách án kinh kỳ... Và sau Thanh Tâm
Tài Nhân, Diệp Trĩ Phỉ đã dựa vào Kim Vân Kiều tân truyện để sáng tác vở
kịch Hổ phách thỉ và Hạ Bỉnh Hoành cũng đã theo đó để sáng tác vở kịch Song
Thúy viên...
Với thực tế vừa nêu, khó mà nói truyện “Thúy Kiều” ở Trung Quốc không mấy
ai để ý và Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm tài nhân chỉ thuộc loại
“xoàng”. Nếu quả là “xoàng” thì tại sao Kim Vân Kiều truyện lại được liệt
vào loại “Tài tử thư” của Trung Quốc ?”…
Xem lại bản chép tay Kim Vân Kiều truyện thì quả là đầu mỗi quyển đều
có ghi: “Quán Hoa Đường bình luận, Kim Vân Kiều quyển chi… Thánh Thán
ngoại thư” (5). Các bản in gần đây cũng theo đó mà in
như thế.

Trang đầu bản chép tay KIM VÂN KIỀU TRUYỆN, quyển I
:
Quán Hoa đường bình luận.
Kim Vân Kiều truyện quyển chi nhất.
Thánh Thán ngoại thư. Thanh Tâm tài nhân biên thứ.
Đệ nhất hồi
: “Vô tình hữu tình mạch lộ điếu Đạm Tiên. Hữu duyên vô duyên
bích không ngộ Kim Trọng”…
Được xếp vào hàng “Quán Hoa Đường bình luận - Thánh Thán ngoại thư”
có nghĩa là sách thuộc vào loại có giá trị nên đã được nhà phê bình kiệt
xuất Kim Thánh Thán để ý xem xét, bình luận.
Việc Kim Vân Kiều truyện được Kim Thánh Thán liệt vào hàng “Thánh
Thán ngoại thư” thì có thể còn xem xét - còn nếu cho là “Kim Vân Kiều
truyện” là “Tài tử thư” như Trần Nghĩa đã viết ở trên thì không
đúng - bởi Trung Quốc chỉ có 6 tác phẩm được Kim Thánh Thán bình luận, xếp
vào danh hiệu “Tài tử thư” (lục
Tài tử), gồm có: Nam Hoa kinh của
Trang Tử, Ly
Tao của Khuất Nguyên, Sử
kí của Tư Mã Thiên, Thơ luật của Đỗ
Phủ, Thủy
Hử của Thi Nại Am và
Tây sương kí của Vương Thực Phủ. Một
số sách khác tuy được Kim Thánh Thán bình luận lưu vào thư viện riêng “Quán
Hoa Đường” song chỉ thuộc hàng “Thánh Thán
ngoại thư
”.
Vậy Kim Vân Kiều truyện có phải là Thánh Thán ngoại thư ?
Trước câu hỏi này, các nhà nghiên cứu nước ta đã không đồng nhất ý kiến: Có
người tin nhưng cũng nhiều người tỏ ý nghi ngờ.
Có thể ngờ lắm bởi vì vào thời mà việc lưu truyền, phổ biến tác phẩm chủ yếu
chỉ nhờ vào chép tay thì dòng chữ “Quán Hoa đường bình luận - Thánh Thán
ngoại thư” ghi ở đầu truyện chưa thể xem là bằng chứng chắc chắn để tin
được Kim Vân Kiều truyện được Kim Thánh Thán khen ngợi; nhất là về
sau tác phẩm đã bị các học giả coi thường, đặc biệt trong số đó có nhiều
học giả Trung Quốc.
Chỉ có một điều chắc chắn là sau khi Truyện Kiều của Nguyễn Du nổi
tiếng, được dịch ra nhiều thứ tiếng: Pháp, Anh, Đức, Nhật, Hoa, Tiệp… thì
người Trung Quốc mới ra sức tìm kiếm và biết được là nước mình có cuốn
Kim Vân Kiều truyện… Từ đó họ bắt đầu chiêu tuyết. Chính GS. Đổng Văn
Thành là người đã viết bài ca ngợi Kim Vân Kiều truyện, cho rằng
truyện “không chỉ xây dựng một cách thành công những điển hình nghệ thuật
mang đặc trưng thời đại mà còn có cống hiến quan trọng về mặt khai thác đề
tài phụ nữ, về phương pháp nghệ thuật”… và “không phải đến ngày nay,
mà ngay từ khi ra đời, Kim Vân Kiều truyện đã được nhiều người có quan điểm
tiến bộ nhiệt liệt tán dương…”(6)
--------------------------------------
CHÚ THÍCH:
(1) Nghiêm Tung là quan đại thần đời Minh, rất giỏi nịnh hót khiến Minh
Thế Tông rất thích. Sau khi làm Thủ Phụ, Nghiêm Tung liên kết bè phái,
lạm dụng chức quyền, tham nhũng. Trước việc các bộ lạc phương Bắc tiến
quân xâm lấn Thông Châu vào năm Canh Tuất (1550), Nghiêm Tung chủ trương để
mặc cho giặc cướp phá. Sử Trung Quốc gọi đây là "Canh Tuất chi biến".
Sau khi tội Nghiêm Tung bị phát hiện, triều
đình lại bắt được thư của con
Nghiêm Tung là Nghiêm Thế Phồn gửi
cho Hồ Tôn Hiến để liên kết bè đảng. Năm 1565, sau khi bị bắt giam, Hồ Tôn
Hiến tự tử, chết trong ngục.
(2)
Đến nay tuy có nhiều ý kiến nhưng xem ra chưa ai khẳng định được chắc chắn
Thanh Tâm tài nhân là ai, bởi đây chỉ là bút hiệu (người viết
truyện muốn xưng mình là khách đa tình:
THANH
青
ghép với TÂM忄
là
TÌNH
情).
Nếu các bản Kiều của ta chỉ lệch một số câu chữ thì các bản Kim
Vân Kiều truyện của Trung Quốc lại lệch nhau khá xa về độ dài, kết cấu,
nội dung. Ấn bản và tên gọi của cuốn tiểu thuyết này phức tạp. Bản in đầu
tiên xuất hiện khoảng cuối Minh đầu Thanh. Đến đời Khang Hy lại có bản in
đơn giản hơn vì đã bị sửa chữa, lược bớt. Bản được phổ biến rộng rãi hiện
nay gồm 20 hồi. Bản này có tại Đại Liên Đô thư quán. Năm 1983, Kim
Vân Kiều truyện được Lý Trí Trung hiệu đính, nhà xuất bản Xuân Phong
Văn Nghệ (Trung Quốc) phát hành. Nay truyện này dễ dàng tìm thấy trên
nhiều trang điện tử của Trung Quốc. Truyện còn có tên “Song kì mộng”,
“Song hợp hoan”.
(3)(4) Phạm Tú Châu “So
sánh Truyện Kim Vân Kiều Trung Quốc và Việt
Nam”; 200 năm nghiên cứu bàn luận “Truyện Kiều”, Nxb. Giáo dục, Hà
Nội 2005.
(5) Kim Thánh Thán
金聖歎
sống vào
khoảng cuối Minh, đầu Thanh (bị xử chém năm 1661 vì dám tố cáo việc làm phi
pháp của quan huyện),
tên thật là
Kim Vị 金
喟,
là nhà văn, nhà phê bình văn học nổi tiếng của Trung
Quốc, được đời sau tôn vinh là "vua của thể văn bạch thoại".
Kim Thánh Thán đã phê bình nhiều sách văn học Trung Quốc,
có thư viện riêng đặt tên là “Quán Hoa Đường”. Những sách nào được
Kim Thánh Thán khen ngợi, lưu vào thư viện riêng đều có ghi : “Quán Hoa
đường bình luận-Thánh Thán ngoại thư”.
(6)
Nguyễn Khắc Phi; Mối quan hệ giữa văn học Việt Nam và văn học Trung Quốc
qua cái nhìn văn học so sánh, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2001, tr.178 – 189.
BÀI 4
:
NGUYỄN DU KHÔNG DỊCH “KIM VÂN KIỀU TRUYỆN”
CỦA THANH TÂM TÀI NHÂN RA TIẾNG VIỆT
Nguyễn Cẩm Xuyên
Kiến thức ngày nay
số 762, ngày 10/ 10/ 2011
Kim Vân Kiều truyện của Trung Quốc được
Thanh Tâm Tài Nhân viết vào đời Thanh;
truyện được mang sang nước ta từ lâu và Nguyễn Du đã mượn cốt truyện mà viết
nên Truyện Kiều bằng chữ Nôm. Việc này là bình thường, nhất là khi
tác phẩm viết sau lại nổi tiếng, hơn hẳn gốc ban đầu. Văn chương thế giới đã
có nhiều trường hợp tương tự. Trường hợp thường được nhắc đến nhất là nhà
soạn kịch tài danh của Pháp Corneille đã dùng Las Mocedades del Cid
của Guillen de Castro, người Tây Ban Nha để viết nên tuồng Le Cid rất
nổi tiếng…
Ở nước ta Truyện Kiều được phổ biến rộng nên Kim Vân Kiều truyện
cũng được các dịch giả chú ý dịch ra quốc ngữ; trước sau có đến khoảng 4, 5
bản dịch khác nhau: có lẽ bản dịch đầu tiên là của Hùng Sơn
Nguyễn Duy Ngung do Phan Bá Cẩn
xuất bản năm 1925, Tân Dân
tái bản năm 1928, tiếp đến là bản dịch của Nguyễn Đức
Vân và Nguyễn Khắc Hanh do Viện Văn học
in ronéo năm 1962, NXB Hải
Phòng tái bản năm 1994
và NXB Đại học Quốc gia Hà Nội
năm 1999. Ở miền Nam, có bản dịch của
Tô Nam Nguyễn Đình Diệm
được Phủ Quốc Vụ Khanh
Đặc Trách Văn Hóa
xuất bản năm 1971.
Gần đây có Tình sử Vương Thuý Kiều (Phong Tình Cổ Lục)
do Mộng Bình Sơn khảo dịch, NXB Văn học xuất
bản năm 2000. Truyện Kiều đối
chiếu của Phạm Đan Quế, NXB
Hà Nội xuất bản năm 1991, NXB
Hải Phòng tái bản năm 1999…
GIÁ TRỊ “TRUYỆN KIỀU” HƠN HẲN “KIM VÂN KIỀU TRUYỆN”
Tuy mượn cốt truyện Kim Vân Kiều truyện nhưng cách cải biên kì diệu
của Nguyễn Du đã biến câu chữ tầm thường trở nên tác phẩm kiệt xuất, được
mọi người yêu thích lại được dịch ra nhiều ngôn ngữ khác nhau trên thế giới.
Nếu xét diễn biến của 2 truyện: từ khi Thúy Kiều gặp Kim Trọng… trải qua 15
năm lưu lạc cho đến ngày Kim-Kiều tái hợp… cả gia đình Vương Viên ngoại hạnh
phúc đề huề, Kim Trọng, Vương Quan đỗ đạt, vinh hiển v.v… là tương tự nhau,
song sức sáng tạo của Nguyễn Du rất lớn: nhiều tình tiết rườm rà, dung tục
đã được lược bỏ, lại thêm vào nhiều đoạn kể chuyện, tả cảnh, tả tình ý vị
khiến cho truyện trở nên cân đối, hợp lí. Đặc biệt nhất là tính cách của
từng nhân vật trong Truyện Kiều khác nhiều so với Kim Vân Kiều
truyện.
Xin trích sau đây làm ví dụ một trường hợp thể hiện sự chênh lệch khá rõ nét
về trình độ của 2 tác phẩm: đoạn Thúy Kiều báo oán:
* Xử bọn “bạc ác tinh ma”:
“… Nàng rằng: "Lồng lộng trời cao!
Hại nhân, nhân hại, sự nào tại ta?
Trước là Bạc Hạnh, Bạc bà,
Bên là Ưng, Khuyển, bên là Sở Khanh.
Tú bà cùng Mã Giám sinh,
Các tên tội ấy đáng tình còn sao? "
Lệnh quân truyền xuống nội đao,
Thề sao, thì lại cứ sao gia hình.
Máu rơi, thịt nát, tan tành,
Ai ai trông thấy hồn kinh, phách rời.
Cho hay muôn sự tại trời,
Phụ người chẳng bõ khi người phụ ta!
Mấy người bạc ác, tinh ma,
Mình làm, mình chịu, kêu mà ai thương!
Ba quân đông mặt pháp trường,
Thanh thiên, bạch nhật, rõ ràng cho coi…”
* Xử Hoạn Thư:
“…Hoạn thư hồn lạc phách xiêu,
Khấu đầu dưới trướng, liệu điều kêu ca.
Rằng: Tôi chút phận đàn bà,
Ghen tuông, thì cũng người ta thường tình!
Nghĩ cho khi các viết kinh,
Với khi khỏi cửa, dứt tình chẳng theo.
Lòng riêng, riêng những kính yêu,
Chồng chung, chưa dễ ai chiều cho ai!
Trót đà gây việc chông gai,
Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng.
Khen cho: thật đã nên rằng:
Khôn ngoan đến mực, nói năng phải lời.
Tha ra thì cũng may đời,
Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen.
Đã lòng tri quá thì nên
Truyền quân lệnh xuống trướng tiền tha ngay.”
Xem đoạn thơ trích từ Truyện Kiều của Nguyễn Du tả cảnh báo oán khá
nhẹ nhàng ở trên rồi đối chiếu với đoạn văn xuôi rườm rà và ghê rợn sau đây
do Thanh Tâm tài nhân kể trong Kim Vân Kiều truyện của Trung Quốc:
“…Một tiếng trống vang lên, một người cầm cờ lam gọi tên từng phạm nhân.
Biện Báo (1) dẫn Hoạn thị, Kế thị (2),
Hoạn Ưng, Hoạn Khuyển, Bạc bà vào, tháo gông xiềng cho quỳ dưới sân.
Phu
nhân nói: Bạc bà đẩy người xuống giếng, Bạc Hạnh bán người lương thiện vào
nhà xướng ca. Nay theo đúng lời thề trước của Bạc Hạnh, lấy dao vằm nát thân
thể, rồi cho ngựa ăn, còn Bạc bà thì đem chặt đầu bêu lên cây. Đao phủ nghe
lệnh dạ ran một tiếng, tức thì lôi Bạc bà ra chặt đầu, còn Bạc Hạnh thì dùng
chiếu cỏ bó như bó củi, ngoài quấn dây thừng thật chặt, rồi hai người giữ,
một người cầm dao (3), chặt từ chân lên đầu thành hơn trăm
đoạn. Ghê thay một con người mới đó mà trong giây lát biến thành một đống
thịt như bùn, người coi ai cũng hoảng hồn chết ngất. Bọn đao phủ vào bẩm đã
thi hành xong, phu nhân truyền đem đống thịt trộn lẫn với cỏ để cho ngựa ăn.
Kế đó, gọi đến Hoạn thị. Hoạn thị run rẩy, kêu xin phu nhân tha mạng.
Phu nhân rằng: Hoạn tiểu thư, nhà ngươi có nhiều kế sách và cũng thật
nhẫn nại, ngươi lại thích lấy điều ác làm vui. Vậy nhưng phàm việc gì cũng
nên chừa lại một lối, để về sau có thể vui khi gặp lại. Nay gặp nhau đây,
nhất định ngươi chẳng sống được nữa rồi.
Hoạn thị khấu đầu lia lịa thưa rằng: Phu nhân! tiện thiếp thật đáng muôn
chết, chỉ xin phu nhân niệm tình cho ngày trước lúc viết tờ cung trạng, lúc
chép kinh… rồi khi phu nhân bỏ đi, thiếp cũng chẳng hề tra xét. Thiếp không
phải không tôn kính phu nhân mà chẳng qua vì thế buộc chẳng thể đứng chung,
cắt đôi tình yêu chia lòng sủng ái mà xui nên tội lỗi oan gia, xin phu nhân
nghĩ lại mà rộng lòng lượng thứ cho.
Vương phu nhân cúi đầu hồi lâu rồi nói: Thực ta chỉ muốn ăn thịt, lột da
ngươi, để tiêu mối hận hai năm trước. Nhưng giờ đây, sở dĩ cho ngươi được
khỏi tội chết là nhờ lúc ta bỏ đi, ngươi chẳng đuổi theo, có ý mở lồng thả
cho chim bay đi, nhưng còn tội sống thì ngươi chẳng thể thoát được đâu. Hoạn
thị thưa: Thiếp xin nhận tội, chỉ xin Phu nhân phát lạc nhẹ cho. Phu nhân
hỏi: Ngày trước, lúc bắt ta ở Lâm Tri, thuộc hạ của ngươi là những tên nào?
Hãy nói ta nghe, tội ngươi sẽ nhẹ bớt đi.
Hoạn thị thưa: Những kẻ thi hành mưu kế tuy là Hoạn Khuyển, Hoạn Ưng,
nhưng người ra lệnh lại chính là tiện thiếp. Quân vâng lệnh tướng mà làm.
Thật là tội của thiếp; bọn chúng chẳng qua chỉ biết y lệnh mà thôi. Nếu đem
chúng ra gánh tội thay thì thiếp chẳng yên lòng.
Phu nhân rằng: Thế ra ngươi chính là kẻ dám nhận cả phần oan cừu vào mình
đó chăng? Bèn gọi đao phủ đem bọn Hoạn Ưng, Hoạn Khuyển ra chém bêu đầu để
răn bọn hào nô nhà họ Hoạn. Đao phủ dạ ran, lôi tuột hai tên ra chém đầu;
chỉ trong khoảnh khắc đã dâng lên hai đầu lâu đẫm máu.
Phu nhân lại truyền tả hữu đem Kế thị ra nọc đánh 30 roi. Quân lính nhất
tề ra tay. Hoạn thị ôm chầm lấy mẹ xin chịu thay hình phạt.
Phu nhân nói: Tội ngươi ta sẽ tính, còn 30 roi này là của mụ ta, chẳng
thể tha được.
Mụ quản gia thấy vậy cũng vội quỳ xuống xin chịu đòn thay cho chủ mẫu.
Phu nhân nói: Thôi thì ta nể lời, tha chết cho thị, hãy nhận lấy mà đem
đi.
Mụ quản gia tạ ơn rồi đỡ Kế thị ra ngoài doanh trại. Kế thị năm ấy tuổi
đã sáu mươi, thân là nhất phẩm phu nhân, chưa từng chịu cảnh gió sương nhọc
nhằn mà nay bị bắt giải từ huyện Vô Tích đến, khổ sở vô cùng, lại thấy ba
quân giết người như rạ, tuổi đã già lại sợ mất mật, tức thì lăn ra chết. Mụ
quản gia đành ngồi ngoài cửa dinh để trông nom thi thể.
Vương phu nhân thấy mụ quản gia lãnh Kế thị đi rồi, bèn truyền lệnh cho
cung nữ đem Hoạn Thư ra, lột trần áo xiêm rồi treo lên đánh một trăm trượng.
Cung nữ dạ ran, túm tóc Hoạn Thư lôi ra, lột hết áo quần, chỉ chừa lại
một cái khố, tóc buộc lên xà nhà. Hai tên cung nữ mỗi tên túm một tay để lôi
giăng ra, trước và sau có hai cung nữ khác cầm roi ngựa đồng loạt ra tay,
một người đánh từ trên đánh xuống, một người đánh từ dưới đánh lên, đánh như
con chạch rơi trên đống tro, con lươn trong vạc nước nóng, luôn luôn dẫy dụa
kêu trời. Toàn thân chẳng còn miếng da nào lành lặn. Sau khi cung nữ báo cáo
đủ một trăm roi, phu nhân truyền lệnh đem Hoạn thị ra giao cho Thúc Sinh.
Quân sĩ dạ ran. Cởi tóc Hoạn Thư mang xuống thì đã nửa sống nửa chết, mang
ra ngoài cho Thúc Sinh nhận lãnh. Thúc Sinh luôn miệng tạ ơn, nhìn đến Hoạn
Thư thấy chỉ còn thoi thóp thì than rằng: Nàng ôi, chỉ vì thủ đoạn, phương
pháp lớn lao của nàng mà nàng mà phải tự cầm dao cắt thịt của mình… Rồi bèn
gọi hai tớ gái là Xuân Hoa , Thu Nguyệt vào đỡ lấy Hoạn Thư. Thúc Sinh quay
vào dinh tạ tội Phu nhân rồi ra ngoài một mặt thu nhặt thi thể Kế thị, một
mặt mang Hoạn Thư về nhà chạy chữa đến nửa năm trời mới khỏi.
Kế đó Sử Chiêu giải bọn Mã Bất
Tiến (Mã Giám sinh), Mụ Tú, Sở Khanh vào dinh.
Phu nhân hỏi: Mụ Tú, mi có nhận được ta là ai không?
Mụ Tú đáp: Thưa bà, con hát hèn mọn này
không nhận ra !
Phu nhân thét bảo: Mi hãy ngẩng đầu lên
nhìn xem ta là ai?
Quân sĩ nạt lớn một tiếng, túm tóc mụ kéo
lật về phía sau. Bấy giờ mụ mới nhận rõ là Vương Thúy Kiều, thì luôn miệng
kêu rằng: Tội của kẻ hèn này thật đáng muôn lần chết chém. Chỉ xin phu nhân
thương cho phần nào.
Phu nhân cười bảo: Lúc này mà mi còn mơ
tưởng đến sự sống sao? Lời thề trước ngọn đèn trời ngày xưa hỏi đã tiêu tan
thế nào được? Bèn lệnh cho quân sĩ, lôi mụ Tú ra, lấy dầu bách tưới đẫm vào
người, rồi dựng ngược cho đầu xuống đất, chân chổng lên trời, như ngọn đèn
trời để làm tròn lời thề ngày trước. Còn tên Mã Bất Tiến thì kẹp chân tay
vào mảnh gỗ cho thẳng căng ra, rồi rạch da và moi gân khiến cho tứ chi rời
rạc, để ứng lời thề của nó. Lại nấu một nồi tùng hương trộn lẫn với vỏ cây
gai, đun thật sôi và lấy chum nước lớn để bên, đem Sở Khanh ra, lột hết áo
xiêm, một người thì múc dầu tùng hương đun sôi tưới vào mình hắn, một người
thì lấy nước lạnh dội theo.Quân sĩ được lệnh lôi ba phạm nhân ra ngoài.
Trong chốc lát, mụ Tú đã cuốn thành một cây sáp lớn, phía dưới chỉ lộ cái
đầu. Mã Bất Tiến thì bị căng xác. Sở Khanh hóa thành một thỏi sắt nguội.
Đoạn rồi phu nhân hô to: “Đốt sáp”, quân
sĩ đứng lên cao châm lửa vào chân mụ Tú. Mụ mới bị châm một mồi lửa đã kêu
đau ầm ĩ. Phu nhân mắng rằng: Mi cũng biết đau ư? Cớ sao ngày trước mi nỡ
lòng hủy hoại da thịt người khác? Mụ Tú chết ngất, không trả lời được nữa.
Kế đến Phu nhân hạ lệnh rút gân, xẻ thịt
Mã Bất Tiến, lại lệnh cho quân sĩ lột da Sở Khanh.
Nghe lệnh, quân sĩ tìm chỗ chùm gân, lấy
mũi dao nhọn khoét da, rồi dùng lưỡi câu móc vào đầu gân, dùng sức lôi mạnh
một cái. Mã Bất Tiến lập tức chết tươi. Quân sĩ rút thêm ba bốn cái gân nữa
làm cho thi thể Bất Tiến rời ra từng mảnh. Phu nhân bèn sai quẳng xác ra
biển cho cá ăn để đền tội bạc tình.
Còn Sở Khanh bị tẩm dầu tùng hương và keo
vỏ gai, bên trong tuy vẫn còn sống nhưng bên ngoài không cựa quậy được. Quân
sĩ chạy đến bóc miếng vỏ gai nơi đầu ra, thì da đã bị dầu tùng ăn loét ra,
chẳng cần dùng đao kiếm, chỉ tuốt một cái thì lột hết da. Độ nửa giờ sau,
thân thể Sở Khanh chỉ còn trơ lại một cục máu đỏ lòm nhưng vẫn còn thoi
thóp. Phu nhân lại sai đem nước vôi rưới vào, tức thì toàn thân Sở Khanh nổi
lên những cái bọt lớn. Chỉ trong chốc lát đã rữa nát thành mủ máu, rớt thịt
trơ xương mà chết...”(4) .
Người đọc nhận ra hai truyện khác xa nhau về tài năng xây dựng tính cách,
tâm lí nhân vật, nghệ thuật biểu cảm, miêu tả, tự sự…đồng thời khác xa nhau
về ý nghĩa, về tính người trong ứng xử.
Khác hẳn Truyện Kiều của Nguyễn Du, đọc Kim Vân Kiều truyện
của Tàu, người đọc mất hết cả cảm hứng với một nàng Kiều tài sắc… mà dã man.
Đâu đây thấp thoáng hình bóng những mỹ nhân diễm lệ mà vô cùng tàn ác trong
sử sách Trung Quốc: Lã Hậu, Lệ Cơ, Triệu Phi Yến, Võ Tắc Thiên, Vạn Trân
Nhi…
Kim Vân Kiều truyện mang tính cách luận đề với dấu ấn của tư tưởng
Phật giáo: từ việc bố trí các nhân vật, sắp xếp diễn biến, tình tiết, kết
cấu truyện… đều hướng vào mục đích nhằm chứng minh cho đề thuyết: ác
giả-ác báo: hễ gieo nhân xấu thì gặt quả dữ; nghiệp quả chồng chất sẽ
phải trả… và trả khi nào cho hết nghiệp chướng thì mới mong hưởng phúc nhờ
vào nhân tốt đã gieo…Vậy mà ở hồi 18, Kim Vân Kiều truyện lại mô tả
một nàng Kiều tàn ác đến man rợ. Rõ là Thanh Tâm tài nhân đã rơi vào mâu
thuẫn nội tại - bởi làm sao hợp lí được khi đến hồi cuối cùng lại bố trí
cảnh đoàn viên cho Thúy Kiều, một quả phúc không dành cho kẻ dữ.
Sự mâu thuẫn, bất hợp lí này là điểm kém của Kim Vân Kiều truyện. Chỗ
này Nguyễn Du đã cải biên, hóa giải chốt mâu thuẫn thật kì diệu bằng cách để
Kiều tha bổng Hoạn Thư.
Trong thơ Nguyễn Du, Kiều tùng phục lẽ phải, không vì tình riêng mà
bỏ qua chân lí. Tính cách nhân vật lại hoàn toàn nhất quán, hiện rõ
là người hiền lành lương thiện mà bị vùi dập đáng thương…
Quả là tài năng nghệ thuật Nguyễn Du đáng là bậc thầy của Thanh Tâm tài
nhân.
QUAN ĐIỂM CỦA GIÁO SƯ TRUNG QUỐC ĐỔNG VĂN THÀNH
ĐÁNH GIÁ THẤP TRUYỆN KIỀU CỦA NGUYỄN DU LÀ KHÔNG KHÁCH QUAN
Sau khi đọc được Kim Vân Kiều truyện của nước mình tại thư viện Đại
Liên năm 1981, GS. Đổng Văn Thành liền viết bài chiêu
tuyết cho
Kim Vân Kiều
truyện,
in trong
Minh Thanh Tiểu Thuyết Giám Thường từ điển (5).
Tuy bài viết đã công nhận
Truyện Kiều của
Nguyễn Du là tác phẩm văn học nổi tiếng thế giới nhưng lại cho rằng
Truyện Kiều chẳng qua chỉ là dùng thể thơ lục bát của Việt Nam để dịch
lại một cuốn tiểu thuyết của Trung Quốc mà thôi.
Tương tự như trên, trong bài “So sánh truyện Kim Vân Kiều
Trung Quốc và Việt Nam” trên “Minh Thanh tiểu thuyết luận tùng”
GS. Thành cũng cho rằng: “Nguyễn Du chẳng những chỉ mượn đề tài
của tiểu thuyết Trung Quốc mà dường như bê nguyên xi
[…] Nguyễn Du không có
bất kỳ một sáng tạo mới nào, chỉ chuyển thuật khá trung thực nội dung tiểu
thuyết của Thanh Tâm tài nhân...” (6)
Bài
viết này nhắc lại lời khen - cho rằng là của Kim Thánh Thán - đối với Kim
Vân Kiều truyện: “…chữ nào cũng là đá ngũ sắc vá trời cả, công của
tác giả chẳng hề kém Nữ Oa” (7). Đánh giá
ghê gớm như thế khiến người đọc tưởng chừng như truyện này ngang tầm với
Hồng Lâu Mộng.
Vậy là một mặt GS. Thành khen ngợi Kim Vân Kiều truyện nước mình đến
tột cùng, một mặt hết lời chê bai Truyện Kiều Nôm của Nguyễn Du, cho
Nguyễn Du là người của giai cấp quan lại Phong kiến nên cải biên nhiều chỗ
làm cho ý nghĩa của truyện bị lệch lạc, làm che lấp đi tính “đấu
tranh giai cấp”… Chẳng hạn so sánh cảnh báo ân báo oán của Thúy
Kiều giữa hai truyện, GS. Thành cho rằng cảnh được tả trong “Kim Vân Kiều
truyện tuy có hơi tàn khốc nhưng thể hiện hành vi chính nghĩa của
người nô lệ phản kháng, còn trong Truyện Kiều: nội dung đấu
tranh giai cấp sống động này đã bị ngòi bút Nguyễn Du làm biến dạng, Nguyễn
Du đã nhẹ nhàng bỏ qua không cho Thúy Kiều bắt mẹ Hoạn Thư đồng thời lại
khoan dung, tha bổng Hoạn Thư…” và sở dĩ cải biên như thế là “có sự
đồng tình với những nhân vật thuộc giai cấp quý tộc là giai cấp xuất thân
của mình. Nguyễn Du đã tìm mọi cách che đậy cho tội áp bức của giai cấp ấy,
sửa chữa cuộc đấu tranh giai cấp nghiêm túc đó thành cuộc tranh chấp thuần
túy giữa vợ cả vợ lẽ ghen tuông với nhau trong gia đình…”
Bài viết dài nhưng xem ra là chủ quan, một là do GS. Thành không biết tiếng
Việt, phải đọc Truyện Kiều qua bản dịch của GS. Hoàng Dật Cầu - bản
dịch mà dịch giả chỉ mới dám coi là “bản dịch sơ bộ” - Quả vậy, gần
đây PGS Phạm Tú Châu đã có xem xét đánh giá bản dịch này, kê ra rất nhiều
chỗ GS. Hoàng Dật Cầu dịch sai Truyện Kiều của Nguyễn Du(8)
và cũng vì thế, những đoạn trích Kiều được Đổng Văn
Thành mượn của GS. Hoàng Dật Cầu dùng làm dẫn chứng chỉ là những đoạn văn
vần thô cứng, chẳng còn đâu cái duyên dáng mượt mà của thơ Nôm tiếng Việt;
hai là GS. Thành chỉ nghĩ chuyện giai cấp mà quên mất tính người,
khác hẳn với Nguyễn Du.
TRUYỆN KIỀU
VẪN
THUẦN TÚY LÀ MỘT TRUYỆN THƠ VIỆT NAM
VỚI CÔNG SÁNG
TẠO RẤT LỚN CỦA NGUYỄN DU
Nguyễn Thạch Giang, Triệu Ngọc Lan, Lô Úy Thu trong “Một số nhận xét về
Kim Vân Kiều truyện với Đoạn trường tân thanh” đăng trên tạp chí Sông
Hương số 2, 1994 đã tính toán tỉ mỉ: Kim Vân Kiều truyện có tổng
số 214 trang. Nguyễn Du đã lược bỏ 142 trang, chỉ dựa vào 72 trang để viết
nên 1.313 câu trong tổng số 3.254 câu của Đoạn trường tân thanh. Vậy
1.941 câu còn lại là do Nguyễn Du viết.
Trong bài viết gần đây nhất, GS. Nguyễn Khắc Phi cũng viết trên Trang điện
tử Hội Nhà văn Việt Nam: “…trên thực
tế, Đổng Văn Thành đã coi Truyện
Kiều
của Nguyễn Du là bản dịch Kim
Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Tai hại hơn nữa, do không biết tiếng
Việt, để đánh giá “bản dịch” của Nguyễn Du, để so sánh “bản dịch” ấy với
nguyên tác, Đổng tiên sinh lại hoàn toàn căn cứ vào “bản dịch lại” Truyện
Kiều của Nguyễn Du ra Trung văn hiện đại của GS Hoàng Dật Cầu, một bản dịch
mà với tất cả tâm huyết, công phu, Hoàng giáo sư cũng chỉ mới dám coi là
“bản dịch sơ bộ” và tự đánh giá là “còn những chỗ cực vi diệu, khúc chiết
của nguyên thi đương nhiên chưa có khả năng thực hiện việc truyền đạt như
thật được” (9).

Thật vậy, một điều hiển nhiên là khó có người Trung Quốc nào thông thạo
tiếng Việt đến mức có thể thưởng thức được cái vi diệu, độc đáo của câu chữ
Việt trong thơ Nôm Nguyễn Du - nên nếu họ có cho rằng Truyện Kiều
chẳng qua chỉ là truyện dịch tiểu thuyết Tàu ra tiếng Việt thì cũng là điều
dễ hiểu bởi vì để cảm nhận đầy đủ ý vị một tác phẩm văn học của một dân tộc
thì ngoài việc thông thạo tiếng nói, chữ viết, người đọc còn phải thấm được
nền văn hóa dân tộc ấy như máu thịt. Đổng Văn Thành phê phán gay gắt
Truyện Kiều Nôm nhưng lại là người Trung Quốc không biết tiếng Việt thì
các phê phán này chưa hẳn đúng, bởi chưa hiểu được nghệ thuật, ý nghĩa của
từng câu, chữ thì sao có thể phê bình cả tác phẩm? Đến đây ta có thể phủ
nhận ý kiến của Đổng Văn Thành và khẳng định: Nguyễn Du không dịch
Kim Vân Kiều truyện ra tiếng Việt mà chỉ dựa vào cốt truyện để viết nên
một truyện thơ mới thuần Việt.
---------------------
CHÚ THÍCH:
(1) Biện Báo
卞豹
: một bộ tướng của của Từ Hải. Các bản dịch quốc ngữ của ta trước đây đã đọc
nhầm thành “Hạ Báo” vì hai chữ “biện”
卞
và “hạ”
下chỉ
hơn kém nhau một chấm nhỏ ở trên.
(2) Kế thị : mẹ của Hoạn Thư (Hoạn phu nhân) là vợ của Thiên quan
Lại bộ.
Sau khi bị bỏ thuốc mê bắt về nhà mẹ Hoạn Thư, Kiều đã bị Kế thị
cho a hoàn đánh đập tàn nhẫn. Truyện Kiều của Nguyễn Du tuy có tả
việc Hoạn phu nhân trừng phạt Kiều nhưng lại không kể tên và
kể việc Kế thị bị trừng trị trong hồi báo ân oán.
(3) Nguyên tác viết
:
一人舉剉
Nhất nhân cử tỏa (Một người cầm “tỏa”). “tỏa”
剉
là một loại dao dùng cắt cỏ chứ không phải là “cưa” như một số dịch
giả trước đây đã dịch.
(4) Trích dịch từ Thanh tâm tài nhân, Kim Vân Kiều truyện, hồi
thứ 18: “Vương Thúy Kiều kiếm tru vô nghĩa hán; Từ Minh Sơn kim tặng hữu
ân nhân” (開放文學,
金雲翹傳
Khai phóng văn học; Kim Vân Kiều truyện - http://open-lit.com).
(5)
MINH THANH TIỂU THUYẾT GIÁM THƯỜNG TỪ ĐIỂN; Hà Mãn Tử - Lý Thời Nhân,
Chiết Giang Cổ Tịch xuất bản xã xuất bản năm 1992
(6)
Phạm Tú Châu “So sánh Truyện Kim Vân Kiều Trung Quốc và Việt Nam”;
200 năm nghiên cứu bàn luận “Truyện Kiều”, Nxb. Giáo dục, Hà Nội 2005.
(7)Nguyễn Khắc Phi; Mối quan hệ giữa văn học Việt Nam và văn học Trung
Quốc qua cái nhìn văn học so sánh, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2001, tr.178 –
189.
(8) Phạm Tú Châu; “Sóng gió bất kỳ từ một bản dịch” ; Tạp chí Văn
học nước ngoài, số 5, 1997.
(9) GS-TS. Nguyễn Khắc Phi ;
Truyện Kiều
- một tác phẩm Việt Nam;
(http://vanvn.net/news/11/589-truyen-kieu---mot-tac-pham-viet-nam.html ngày
07.07.2011)
BÀI 5
VẺ ĐẸP THUÝ VÂN và NHỮNG NGỘ NHẬN
Mở đầu Truyện Kiều có đoạn tả tài sắc hai thiếu nữ nhà họ Vương, trong đó 4
câu, từ 19 đến 22 là để tả Thuý Vân; riêng câu 20 đã gây nhiều tranh luận:
“khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang” hay “khuôn
lưng đầy đặn nét người nở nang”?
“Khuôn lưng” hay “khuôn trăng”/ “nét ngài” hay “nét
người”? Câu hỏi làm tốn nhiều giấy mực. Hàng mấy chục năm qua, người đọc
thơ nêu nhiều thắc mắc xoay quanh những lí giải khác nhau giữa các công
trình biên soạn của các học giả đã chú thích, hiệu đính Truyện Kiều bằng
quốc ngữ. Bên cạnh những biên soạn của những người danh tiếng như Trương
Vĩnh Ký, Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim, Hoàng Xuân Hãn, Đào Duy Anh, Nguyễn Thạch
Giang, Nguyễn Quảng Tuân, Nguyễn Tài Cẩn… lại xuất hiện một số bài viết với
các luận đoán sai vì chủ quan, vì chỉ biết Truyện Kiều qua chữ quốc ngữ,
không hiểu được cái phức tạp trong cấu trúc chữ nôm.
ĐIỂM MẤU CHỐT: VIỆC PHIÊN ÂM CÁC BẢN KIỀU NÔM.
Truyện Kiều bao thế kỉ qua được mọi tầng lớp từ trí thức đến bình dân ưa
chuộng nên được khắc ván in nhiều lần bằng chữ nôm. Số lượng bản Kiều nôm
hiện sưu tầm được tương đối nhiều hơn so với các tác phẩm chữ nôm khác.
Ngoài các bản lưu trữ ở thư viện trong và ngoài nước, hiện nay tại kho sách
của ông Nguyễn Khắc Bảo, một thầy thuốc đông y ở Bắc Ninh có đến
52 bản Kiều nôm cổ, trong đó có một
bản chép tay được cho là cuốn đã được dùng làm mẫu
để khắc in bản Kiều nôm Liễu
Văn Đường 1866. Tại đây cũng có một bản được sưu tầm
từ hậu duệ gia đình anh trai thi hào Nguyễn Du là ông
Nguyễn Trừ.
Nhiều bản Kiều nôm khác cũng đang được các học giả lưu giữ ở thư viện riêng.
Đây là những căn cứ giúp ta có thể phân biệt được đúng sai.
Để xác định được “khuôn lưng” hay “khuôn trăng”; “nét ngài”
hay “nét người” thì cần xem các bản Kiều nôm cổ.
A-
“KHUÔN
LƯNG” hay “KHUÔN TRĂNG”?
Trong chữ Hán, chữ nguyệt
月 và chữ nhục
肉 khác nhau - nhưng
khi biến thành bộ(1), lại giống nhau, cùng viết là
月(2).
Ví dụ :
-
Chữ lãng 朗
gồm bộ nguyệt 月
bên phải và chữ lương
良
bên trái.
-
Chữ hồ 胡
gồm bộ nhục 月bên
phải và chữ cổ 古
bên trái.
Tuy lãng và hồ có phần bên phải nhìn chẳng có gì khác nhau cả
nhưng phần giống nhau này lại là 2 bộ khác nhau. Trong chữ lãng
là bộ nguyệt – còn trong chữ hồ là bộ nhục. Chính
vì vậy, có nhiều người nhầm. Nữ sĩ Hồ Xuân Hương hay chữ thế nhưng cũng
nhầm! Cứ nghĩ họ hồ của mình được kết bởi 2 chữ cổ và
nguyệt (胡 =
古+月),
Hồ Xuân Hương đặt tên ngôi nhà ngâm vịnh thơ bên hồ Tây là Cổ Nguyệt
đường. Thật ra chữ hồ kết thành bởi 2 chữ : cổ và
nhục cho nên ngôi nhà này phải là Cổ Nhục đường mới đúng.
Khi tạo hình chữ nôm, các nhà Nho nước ta cũng rơi vào tình cảnh như vậy đối
với 2 chữ:
-
Trăng :
-
Lưng : 
Nhìn hai chữ thì tưởng hoàn toàn giống nhau đấy nhưng người đọc văn nôm phải
biết phân biệt theo ngữ cảnh, khi nào thì đọc là “lưng”, khi nào lại
đọc là “trăng”.
Nếu đọc là “lưng” thì phải biết bộ
月nằm phía trái là
bộ nhục (bởi lưng thuộc thân thể, tất phải có thịt [nhục]
trong đó).
Nếu đọc là trăng thì bộ 月nằm
phía trái lại là bộ nguyệt (trăng).
Điều oái oăm này đã xảy ra ở câu 20 của Truyện Kiều. Xin chứng minh trong
khuôn khổ 5 bản Kiều nôm:
1.
Bản Liễu Văn đường 1866 :
       (Khuôn
trăng đầy đặn, nét ngài nở nang)
2.
Bản Kinh đời Tự Đức 1870:
       (Khuôn
lưng đầy đặn, nét người nở nang) (3)
3.
Bản Liễu Văn đường 1871:
       (Khuôn
trăng đầy đặn, nét ngài nở nang).
4.
Bản Duy Minh Thị 1872:
       (Tư
phong đầy đặn, nét ngài nở nang).(4)
5.
Bản Kiều Oánh Mậu 1902:
       (Khuôn
trăng đầy đặn, nét ngài nở nang).
Vậy là trừ bản Duy Minh Thị, 4 bản nôm còn lại có 4 chữ đầu câu 20 viết
giống nhau:   (5).
4 chữ này được hầu hết các nhà nghiên cứu đọc là “khuôn trăng đầy đặn”,
chỉ có Trương Vĩnh Ký đã đọc là “khuôn lưng đầy đặn”. Gần đây học giả
Nguyễn Quảng Tuân cũng đã phiên âm 4 chữ này của bản Kinh 1870 là “khuôn
lưng đầy đặn”.

Một trang của bản Kiều nôm năm 1870
do học giả Nguyễn Quảng Tuân trong chuyến đi Mỹ năm 2000 được GS.
Đàm Quang Hưng tặng. Đây là bản viết tay của Tiểu Tô Lâm – Noạ Phu
chép tại kinh đô Huế năm 1870 khi đang làm quan ở bộ Công dưới triều
Tự Đức. (6)
(Trang chữ bắt đầu từ câu 15. Đọc theo hàng dọc, từ phải sang.
Mỗi hàng dọc gồm 2 câu thơ.)
15. Đầu lòng hai ả tố nga.
16.
Thuý Kiều là chị, em là Thuý Vân.
17.
Mai cốt cách, tuyết tinh thần,
18. Một người một vẻ, mười phân vẹn mười.
19.
Vân xem trang trọng khác vời,
20. Khuôn lưng đầy đặn, nét người nở nang.
21. Hoa cười ngọc nói đoan trang,
22. Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
23.
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
24. So bề tài sắc lại là phần hơn.
25. Nền thu thuỷ, thấp xuân sơn,
26. Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
27. Một hai nghiêng nước nghiêng thành,
28. Sắc đành có một, tài đành hoạ hai.
* Câu
18 và câu 20 có 2 chữ “người” được vòng mực đỏ.
Vấn đề đặt ra ở đây là: Vậy hiện nay, viết bằng quốc ngữ, ta nên chép câu
này là “Khuôn trăng đầy đặn” hay “khuôn lưng đầy đặn”?
Nói nghe cũng kì nhưng quả thật chữ
đọc là trăng cũng được mà đọc là lưng cũng được. Nếu đọc là
trăng thì đây là câu thơ tả người thiếu nữ có khuôn mặt đầy đặn, còn đọc
là lưng thì lại hiểu ra là một nàng Thuý Vân mập mạp. Tuy vậy nên đọc
là “khuôn trăng” thì hơn.
Để giải thích lí do, xin trích sau đây lời kể của GS. Nguyễn Huệ Chi:
“…Còn nhớ vào những năm gần giữa thập niên 60 thế kỷ XX, tại Viện Văn học
có những buổi tọa đàm sôi nổi nhằm góp ý cho bản Kiều khảo đính và chú giải
của Viện trước khi đem xuất bản trong dịp kỷ niệm 200 năm năm sinh Nguyễn Du
(1965). Là một thành viên Tổ văn học Cổ cận đại của Viện lúc ấy, tuy mới ra
trường có mấy năm, tôi cũng được dự vào những cuộc thảo luận đó giữa các vị
học giả. Tôi nhớ đây là những buổi trao đổi, đối thoại rất cởi mở, người
trình bày và người góp ý đều có dịp bày tỏ hết chính kiến của mình. Vốn từng
bị định kiến bởi điển “mày tằm nằm” từ hồi còn học ở trường, khi bàn đến mấy
câu “Vân xem trang trọng khác vời/ Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang”,
tôi cứ thấy có điều gì đó chưa thật yên tâm. Nghe các soạn giả cho biết còn
có thể phiên âm “Vân xem trang trọng khác vời/ Khuôn lưng đầy đặn nét người
nở nang” - vì chữ trăng viết Nôm là gồm
chữ nguyệt 月
biểu nghĩa và chữ lăng
夌 biểu âm, song
chữ nguyệt 月
lại cũng có thể hiểu là bộ nhục
肉 chỉ những gì
thuộc về thân thể, và trong trường hợp ấy thì lại
phải đọc là lưng, một bộ phận trong cơ thể động vật cũng như con người; còn
chữ ngài có hai cách viết Nôm: viết là (nhân
biểu ý + ngại biểu âm) thì có nghĩa là “người”, còn viết là (trùng
biểu ý + ngại biểu âm) thì có nghĩa là “con tằm”; tuy thế, chữ Nôm thường
viết lẫn chứ không tách bạch rạch ròi mà nghĩa vẫn thông với nhau - tôi hứng
thú với cách phiên âm thứ hai và giơ tay tỏ ý biểu đồng tình, nhất là khi
nghe chính một nhà bác học như Trương Vĩnh Ký từ lâu cũng đã từng phiên
Khuôn lưng đầy đặn nét người nở nang (1875). Giữa lúc các soạn giả đang trầm
ngâm cân nhắc ý kiến của tôi thì một nhà nghiên cứu có mặt trong cuộc họp,
ông Lại Ngọc Cang, nay đã quá cố, bằng những lời sắc sảo, nêu câu hỏi chất
vấn ngay. Theo ông, trong việc lựa chọn dị bản của Truyện Kiều, bên cạnh các
tiêu chí như tự dạng chữ Nôm và ngữ âm học còn có tiêu chí cần hết sức chú
trọng là quan niệm thẩm mỹ của tác giả. Ca dao chúng ta thường nói đến
“Những cô thắt đáy lưng ong” để hình dung vẻ đẹp của phụ nữ. Thử tưởng tượng
một Thúy Vân “khuôn lưng đầy đặn nét người nở nang” nghĩa là từ trên xuống
dưới thẳng đuột, không còn chỗ nào gọi là “eo” nữa thì trong mắt Nguyễn Du
có còn là “ả tố nga” (người đẹp) nữa hay không? Tất cả phòng họp chợt tỉnh
ra và cười ồ lên…”
Căn cứ vào mặt chữ không được, ta đành phải nhờ vào suy luận dựa trên thực
tế đời thường. Trước vấn đề này, An Chi cũng viết: “… Mới ở câu thứ 17,
Nguyễn Du còn tả hai chị em Thúy Kiều, Thúy Vân là "mai cốt cách, (tuyết
tinh thần)" thì có lẽ nào đến câu 20 ông lại "phản phé" mà ''thổi'' Thúy Vân
lên thành một người đẹp có thân hình nở nang? Tiểu thuyết gia hạng xoàng còn
chưa làm được như thế, huống hồ Nguyễn Du!...” (7)
Vậy có lẽ không nên theo cách phiên âm của cụ Trương Vĩnh Ký “khuôn lưng
đầy đặn” được. Câu 20 nên đọc là “ khuôn trăng đầy đặn…”
B- “NÉT
NGƯỜI” HAY “NÉT NGÀI” ?
Cái khó trong khi viết và đọc chữ nôm là thế. Đến “nét ngài”- “nét người”
cũng phức tạp không kém.
Cũng xem 5 câu nôm trích ở trên ta thấy:
Bản Liễu Văn đường 1866 :
(nét ngài)
Bản Kinh đời Tự Đức 1870 :
(nét người)
Bản Liễu Văn đường 1871 :
(nét ngài)
Bản Duy Minh Thị 1872 :
(nét ngài)
Bản Kiều Oánh Mậu 1902 :
(nét ngài).
Không cần bàn chữ “nét” vì các bản đều giống nhau, chỉ có chữ “người”
– hay “ngài” thì bản Kinh 1870 viết rất rõ chữ “người” còn
tất cả các bản khác đều in là “ngài”.
2 chữ “người” –“ngài” có tự dạng khác nhau và thuộc 2 bộ khác nhau.
Chữ “người” thuộc
bộ
亻 (nhân) còn “ngài” là
con sâu tằm thì thuộc bộ 虫
(trùng). Bản Kiều nôm 1870 đã viết rõ ràng chữ “người” với bộ nhân
bên phải.
Vậy nếu dùng bản Kinh đời Tự Đức 1870 chẳng hạn để phiên âm thì câu 20 là “Khuôn
trăng đầy đặn nét người nở nang”; còn nếu dùng một số các bản
Kiều nôm khác thì sẽ là “Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang”.
Hiện nay chưa ai biết được nguyên bản đầu tiên lúc cụ Nguyễn Du viết ra sao.
Bây giờ chỉ có những bản chép lại của người đời sau thì phải tuân theo
nguyên tắc là phiên âm trung thành với bản nôm có được. 2 bản nôm khác nhau
sẽ cho 2 bản quốc ngữ khác nhau.
-
Đọc câu “Khuôn trăng đầy đặn nét người nở nang” ta hình dung
được một Thuý Vân có khuôn mặt đầy đặn với vẻ người tròn trịa, khác với
Thuý Kiều. Cách tả này có vẻ toàn diện hơn và ăn khớp hơn với câu thơ trước
đó : “Một người một vẻ mười phân vẹn mười”.
-
Nếu là “Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang” thì câu thơ chỉ
tả được mặt của Thuý Vân: giữa khuôn mặt đầy đặn là nét mày ngài thanh tú
đẹp đẽ(8). Cách tả này chỉ tập trung ở khuôn mặt, không hay bằng
cách tả trên. Vậy nhưng nghĩa cả hai câu đều có thể chấp nhận được.
Đến đây ta khẳng định một điều ở câu 20: Tuỳ theo bản Kiều nôm dùng
để phiên âm mà bản quốc ngữ sẽ có chữ “ngài” hay “người”.
Không thể nào lí giải là vì thổ âm vùng Nghệ Tĩnh mà phát sinh ra bản
Kiều viết “người” thành “ngài” được bởi vì Nguyễn Du viết Kiều là viết
bằng chữ nôm chứ!
Viết bằng quốc ngữ thì có thể là do thổ ngữ bản địa, người viết mắc lỗi
chính tả, viết chữ “người” thành “ngài” được - còn Nguyễn Du
viết Kiều và các nhà Nho xưa chép lại đều bằng chữ nôm thì 2 chữ - khác
nhau, một chữ chỉ người, một chữ chỉ côn trùng, làm sao mà lẫn lộn được?
Ai lí giải là ở câu 20, Nguyễn Du viết chữ “người” nhưng do thổ âm Nghệ
Tĩnh mà viết lệch thành “ngài” là chứng tỏ không biết gì về chữ nôm hoặc
mơ hồ mà tưởng rằng thời Nguyễn Du đã dùng chữ quốc ngữ (!).
---------------------------
CHÚ THÍCH:
(1) Tất cả chữ
Hán tập hợp lại thành 214 bộ. Mỗi bộ gồm những chữ cùng dùng chung một thành
phần giống nhau. Thành phần dùng chung ấy được gọi là bộ.
(2) Tình trạng
này là đa số bên cạnh vài trường hợp đặc biệt : trong vai trò bộ thủ nhục
vẫn giữ nguyên tự dạng gốc; VD: chí
胾,
hủ
腐,
luyến
臠,
tí
胔
…
(3)
http://www.nomna.org: Bản phiên âm của Nguyễn Quảng Tuân.
(4)
http://www.nomna.org: Bản phiên âm của Nguyễn Tài Cẩn.
(5) Chữ
“đặn” nôm có thể viết nhiều cách : , , , .
(6)
Sau khi
nghiên cứu, khảo dị, học giả Nguyễn Quảng
Tuân đã có bài viết trên tạp chí
Kiến thức Ngày nay
số 368 ngày 1-11-2000
giới thiệu văn bản cổ
này
với các nhà nghiên cứu và các độc giả trong nước. (An Introduction to Truyện
Kiều - An electronic version;
http://nomfoundation.org/nom-project/Tale-of-Kieu).
(7) http://kienthucngaynay.info 07/06/2006.
(8) Theo An Chi thì “nét ngài nở nang” là chỉ là nét lông mày rạng
rỡ, tươi tắn. Cũng cùng ý này, Gs. Nguyễn Huệ Chi sau khi dẫn chú thích của
Nguyễn Thạch Giang: “nở nang: tươi tốt” đã nêu thêm chú thích của
Đại việt quấc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của (1895) : “nở nang ” có
hai nghĩa: 1. Nở ra tươi tốt; 2. Đẹp đẽ .
Vậy nét ngài nở nang nên hiểu là nét mày đẹp chứ không nên hiểu là
nét mày to, rậm.
---------------------------------------------------------------
Bài 6
RỠ MÌNH LẠ VẺ CÂN ĐAI,
HÃY CÒN HÀM ÉN MÀY NGÀI NHƯ XƯA.
Hai câu thơ tả vẻ đẹp, vẻ oai
nghi của Từ Hải ngày gặp lại Kiều.
Đọc câu thơ, người đọc không
khỏi băn khoăn bởi “hàm én” thì rõ rồi, đúng là để tả tướng mạo khách
anh hùng, riêng chữ “mày ngài” thì lạ quá! Ba lần chữ “mày ngài”
xuất hiện trong Truyện Kiều thì hai lần để tả Từ Hải và một lần…để chỉ gái
buôn hương.
Một từ sao lại dùng tả tướng
mạo hai đối tượng khác biệt nhau rất xa? Một là vẻ oai nghi của võ tướng;
hai lại dùng chỉ kĩ nữ.
Chỗ khúc mắc xin lí giải như
sau:
Điều có thể khẳng định là chữ
“mày ngài” Nguyễn Du dùng tuy có nguồn gốc từ chữ Hán nhưng không
phải từ một chữ mà 2 chữ khác nhau.
A/ “MÀY NGÀI”
DÙNG TẢ DUNG MẠO TỪ HẢI:
“…Râu hùm, hàm én, mày
ngài,
Vai năm tấc rộng, thân mười
thước cao”
và
“… Rỡ mình lạ vẻ cân đai,
Hãy còn hàm én mày ngài
như xưa”
1/ “mày
ngài” trong 2 đoạn thơ trên xuất phát từ ngoạ tàm mi .
“Ngoạ
tàm mi”
là lông mày hình con tằm ngủ?
Nếu chỉ xem nghĩa của từ hợp
thành thì ngoạ tàm
là con sâu tằm nằm (tàm蠶:
con sâu tằm); ngoạ tàm mi nghĩa là lông mày giống hình như con sâu
tằm ngủ(1). Gần trăm năm nay, nhiều
nhà nghiên cứu Truyện Kiều như Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim, Đào Duy Anh, Phạm Kim
Chi, Nguyễn Quảng Tuân, Nguyễn Thạch Giang, Nguyễn Huệ Chi… cũng đã từng
giải thích chữ “mày ngài” theo lối định danh này; riêng
An Chi trên chuyên mục
Chuyện Đông chuyện Tây, tạp chí
Kiến thức Ngày nay số 117 và 565 thì ngược lại, đã phủ
nhận các lí giải trên như sau:
“ Ngoạ tàm mi tuyệt đối
không có nghĩa là “lông mày con tằm nằm”. Sở dĩ các nhà chú giải của ta cứ
ngỡ và giảng như thế là vì họ chưa tìm hiểu cái cấu trúc đang xét cho đến
tận ngọn nguồn. Lời dẫn của Phạm Kim Chi (“Diện như mãn nguyệt mi nhược ngoạ
tàm”), ghi là lấy ở Tướng thư, thì chẳng qua chỉ là chép lại lời dịch câu
“khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang” sang tiếng Hán trong bản Kiều Oánh
Mậu 1902 chứ chẳng phải của sách “tướng thư tướng tịch” nào cả. Đến như hai
tiếng tàm my (mày tằm), mà Nguyễn Thạch Giang đưa ra trong Truyện Kiều (chú
thích và khảo đính) năm 1973, chẳng qua chỉ là một sự dịch ngược tuỳ tiện.
Dĩ nhiên là ai kia có thể gặp may mà thấy được hai chữ tàm mi ở một chỗ nào
đó, nhưng đây chỉ là một từ tổ tự do nên chỉ thuộc về lời nói chứ đâu có
phải là một đơn vị cố định của ngôn ngữ.”
An Chi viết như trên quả là
vì Truyện Thúy Kiều
của Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim (1925) có giải thích “Khuôn trăng đầy đặn
nét ngài nở nang” là xuất phát từ câu văn trong sách Tướng thư: “Diện như
mãn nguyệt mi nhược ngọa tàm 面 如 滿 月 眉 若 臥 蠶: mặt như mặt trăng tròn
mà lông mi như con tằm nằm ngang. Đây nói cái tướng phúc hậu của cô Vân”.
Giải thích trên của Bùi Kỷ và
Trần Trọng Kim cũng như của nhiều nhà nghiên cứu Truyện Kiều về sau như Đào
Duy Anh, Phạm Kim Chi, Nguyễn Thạch Giang, Nguyễn Huệ Chi…đã căn cứ vào câu
văn trong sách xem tướng của Trung Hoa mà khẳng định nét ngài -
mày ngài là xuất phát từ chữ ngoạ tàm mi và đây là kiểu lông mi
hình con tằm nằm.
Khi phủ định giải thích này,
học giả An Chi đã có phần cực đoan khi cho rằng …“Diện như mãn nguyệt mi
nhược ngoạ tàm”, ghi là lấy ở Tướng thư, thì chẳng qua chỉ là chép lại lời
dịch câu “khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang” sang tiếng Hán trong bản
Kiều Oánh Mậu 1902 chứ chẳng phải của sách “tướng thư tướng tịch” nào
cả.
Thật sự, ở Trung Quốc có nhiều
sách tướng bàn đến các kiểu lông mày, trong đó có kiểu “ngoạ tàm mi”(2);
có sách còn vẽ hình
lông mày đen đậm khởi đầu nhỏ rồi đến phần nhô cao, tiếp đến phần giữa hơi
oằn xuống, phần đuôi sau lại hơi gồ lên rồi nhỏ dần, trông giống hình con
sâu tằm đang nằm.
Tìm ở kho sách giấy cũng nhiều
nhưng nay tiện nhất là tìm ở các trang điện tử của Trung Quốc bàn về tướng
pháp như
成老師-面相學堂
Thành Lão sư
-Diện tướng học đường
(http://www.tiger168.com);
面相學之吉凶概要 Diện tướng
học chi cát hung khái yếu (http://www.ccy22723095.com); 济南文眉
-
眉型的分类 Tế Nam văn mi -
mi hình đích phân loại (http://www.cnhszx.com)... Hoặc ví dụ vào trang
điện tử
元亨利貞網 - Nguyên Hanh
Lợi Trinh võng (http://www.china95.net), tìm đến mục
看相-眉与性格命运
Khán tướng
- Mi dữ tính cách mệnh vận,
sẽ thấy ngay một trang ảnh, kê các loại tướng lông mày, trong đó có “ngoạ
tàm mi”. Vào mục ngoạ tàm mi sẽ thấy hình vẽ của kiểu
lông mày này:

“Khán tướng-Mi
dữ tính cách mệnh vận”
đã kê cả thảy 14 kiểu lông mày:
Nhất tự mi; Tảo trửu mi; Điếu tang mi; Tân nguyệt mi; Bắc đẩu mi; Sư
tử mi; Tiêm đao mi; Khinh thanh mi; Ngoạ tàm mi; Thụ tâm mi; Liễu
diệp mi; Long mi; Quỷ mi; La Hán mi.
Sách tướng nước ta cũng hay bàn về mấy kiểu lông mày quen thuộc như:
Mày chữ nhất (nhất tự mi); mày chổi xể (tảo trửu mi); mày lá liễu
(liễu diệp mi); mày tằm (ngoạ tàm mi)…
* Hình trên, chữ ngoạ tàm mi có vòng son đỏ và mũi tên chỉ
đến kiểu mày này.
Quan Vũ (Tam Quốc chí) http://www.thefullwiki.org/臥蚕眉
Quan Vũ được tả với kiểu lông mày
ngoạ tàm mi.
Để hình tượng thật rõ hình dạng lông mày giống con sâu tằm: người
Trung Quốc đã vẽ lên một con sâu màu xanh nhạt trên lông mày bên
phải.
2/ “ngoạ
tàm mi” cũng là kiểu lông mày đẹp:
Cũng trong bài viết đã nêu, An
Chi cũng viện dẫn giải thích của Từ nguyên tự điển và
Vương Vân Ngũ đại từ điển:
“Ngoạ tàm mi: Lông mày cong mà đẹp” để quyết đoán “ngoạ tàm mi”
chỉ mang ý khẳng định vẻ đẹp của đôi lông mày.
Điều này nêu chứng cớ sách vở,
song có thể đây là trường hợp của nghĩa phái sinh.
Trong kho từ vựng, một từ mới
xuất hiện, ban đầu nó chỉ mang nghĩa gốc. Lúc này từ có thể chỉ được hiểu
theo lối định danh nhưng dần dà theo thời gian, do nhu cầu biểu ý của cộng
đồng, đã phát sinh nhiều nghĩa mới. Chính điều này đã sinh ra những nhập
nhằng trong cách hiểu, dễ sinh ra nhiều ngộ nhận trong giao tiếp.
Có câu chuyện đứa cháu nhỏ
chuyện trò với ông nội 80 tuổi:
-
Ông ơi! Ông
nhắm mắt lại đi!
-
Gì vậy cháu?
-
Mẹ bảo ông mà
nhắm mắt thì bố sẽ giàu to!
(3)
Quả thực từ “nhắm mắt”
trong câu nói của mẹ đứa bé đã không được dùng với nghĩa gốc mà dùng
với nghĩa phái sinh. Cái nhập nhằng về nghĩa của từ đã khiến
trẻ con bị nhầm. Thực tế trên thế giới đã có nhiều trường hợp nghĩa phái
sinh phức tạp, oái oăm hơn nhiều và cũng kèm theo nhiều câu chuyện kể
cười ra nước mắt. Nghĩa phái sinh trong từ ngữ của nhiều dân tộc đôi
khi chuyển biến rất xa, qua hàng ngàn năm rồi lấn át, có khi khiến người ta
quên hẳn không còn biết gì đến nghĩa gốc ban đầu, việc tầm nguyên của nhà
biên soạn từ điển có khi chưa chắc đã tìm đến.
Đến đây ta có thể nêu nghi vấn:
từ ngoạ tàm mi mang nghĩa lông mày đẹp có thể là một trường
hợp phái sinh? Hẳn từ đã xuất hiện trong nghề chăn tằm từ ngàn xưa,
con tằm ngủ để chuẩn bị lột xác qua giai đoạn mới trông rất đẹp, rất
sung mãn, bóng bẩy. Cái đẹp của tằm ngủ trong cái nhìn của người chăn
tằm đã khiến họ liên tưởng đến đôi lông mày đen mượt, đường nét phân minh…
và từ đó phát sinh ý niệm kiểu lông mày ngoạ tàm mi. Ngoạ
tàm mi trong tướng pháp là quý tướng của nam giới. Kiểu lông mày này
đẹp, hắc bạch phân minh chứ không có vẻ hung dữ đáng sợ như kiểu lông mày
sâu róm mà GS. Nguyễn Huệ Chi có nhắc đến trong bài “Nét ngài” và “mày
ngài”(4). Nguyễn Du dùng chữ “mày ngài” tả khuôn mặt
của Từ Hải là đã vận dụng nghĩa này; hơn nữa viết Truyện Kiều hẳn Nguyễn Du
chỉ nhờ vào vốn sách vở…kinh, sử, truyện… của nhà Nho. Điều kiện sách vở
thời này chắc chắn không thuận tiện như hôm nay, lúc viết câu, dùng từ cho
thơ hẳn nhà thơ cũng chẳng thể mở các từ điển tầm nguyên mà cân đong, viết
thật sát nghĩa từ điển cho từng trường hợp.
Kết lại vấn đề: ta có thể tin
được rằng trong tướng thư của Trung Quốc có kiểu ngoạ tàm mi
có hình dạng của con tằm ngủ. Nguyễn Du viết Truyện Kiều đã
dùng kiểu dạng này để tả đôi lông mày đẹp và oai nghi của Từ Hải.
B/ “MÀY NGÀI”
DÙNG CHỈ GÁI BUÔN HƯƠNG:
Nguyễn Du dùng phép hoán dụ
của biện pháp tu từ: “Bên thì mấy ả mày ngài, / Bên thì ngồi bốn
năm người làng chơi”.
Để chỉ gái buôn hương, mày
ngài dùng ở đây không cùng gốc với trường hợp nêu ở phần trên (A/) mà
lại xuất phát từ chữ
蛾眉(5)
nga mi.
Hỗ động Bách khoa互动百科
của Trung Quốc đã thích
nghĩa chữ nga mi với 6 nghĩa, trong đó nghĩa thứ nhất ghi như sau:
蛾眉:
蚕蛾触须细长而弯曲,因以比喻女子美丽的眉毛…
Nga mi
:
Tàm nga xúc tu tế trường nhi
loan khúc, nhân dĩ tỉ dụ nữ tử mỹ lệ đích mi mao…(
Nga mi: Râu con bướm tằm dài mà cong, nhân lấy đó mà ví với lông mày
đẹp của phụ nữ).
Vậy là cùng một chữ mày ngài
nhưng ở 2 trường hợp khác nhau, Nguyễn Du dùng 2 nguồn từ Hán khác nhau: mày
ngài của Từ Hải là ngoạ tàm mi (lông mày sâu tằm) còn của kĩ nữ là
nga mi (lông mày râu bướm tằm).
Xin trích thêm ở đây một đoạn
trong bài viết “Nét ngài-mày ngài” của GS. Nguyễn Huệ Chi để làm rõ
thêm vấn đề : “…Trong tiếng Việt con ngài có hai nghĩa, nghĩa đầu tiên là
con bướm tằm do con nhộng trưởng thành cắn kén chui ra; bướm tằm có hai loại
đực và cái, sẽ giao phối với nhau đẻ ra trứng, trứng ấy lại nở ra thành con
tằm. Vì ngài là một chặng trong quá trình sinh trưởng của giống tằm nên
người ta cũng quen miệng gọi con tằm là con ngài. Nhưng nghĩa thứ hai này
không phổ biến bằng nghĩa thứ nhất. Ở đây, “mày ngài” trước hết có nghĩa là
lông mày của con ngài tức con bướm tằm rồi sau mới có thêm nghĩa là lông mày
giống hình con tằm. Nếu ai đã sống ở những vùng trồng dâu nuôi tằm tất sẽ
biết khi con ngài vừa ra khỏi kén, nhất là con cái, trên hai mắt có hai
chiếc râu cong dài, đẹp như lông mày phụ nữ.”
(6)

济南文眉 - 眉型的分类
“TẾ
NAM VĂN MI - mi hình đích phân loại”
đã kê cả
thảy 28 kiểu lông mày. Kiểu nga mi ở hàng thứ ba, bên trái
(được đánh dấu bằng vòng tròn xanh lá). Kiểu ngoạ tàm mi
khá đẹp ở hàng cuối, bên trái (được đánh dấu bằng khung đỏ).
Vậy là rõ, sở dĩ có chuyện rắc
rối chẳng qua là do từ “ngài” trong tiếng Việt. Con sâu tằm cũng gọi
là con ngài rồi con bướm tằm lại cũng gọi là con ngài, từ đó
sinh ra từ mày ngài, mày tằm. “mày ngài, mắt phượng” rồi “mày
tằm, mắt phụng”! Khi nào mày ngài được hiểu là mày như hình
sâu tằm, khi nào mày ngài lại phải hiểu là mày như hình râu
bướm tằm ? Quả là phức tạp!
===========
CHÚ THÍCH:
(1) Tằm ăn lá dâu lớn dần. Lúc chuẩn bị lột xác để sang giai đoạn sau, tằm
nằm bất động. Lúc này người chăn tằm gọi là “tằm ngủ”.
(2) Khoa diện tướng còn gọi quầng da thịt dưới mắt người là ngoạ tàm.
Đây là vấn đề khác, không liên quan gì đến kiểu lông mày ngoạ tàm.
(3) Kiến thức ngày nay
số 789.
(4)-(6) http://www.talawas.org.
(5) Nga
蛾
là con bướm
tằm thuộc bộ “trùng”
vẫn thường lẫn lộn với chữ nga
娥
thuộc bộ “nữ” nghĩa là đẹp, vì vậy “nga mi” lại còn được hiểu
với nghĩa: Lông mày đẹp (của phụ nữ).
|