Nhớ ông Gia Cát |
Vietsciences- Nguyễn Thị Chân Quỳnh 07/10/ 2007 |
Ba anh em kết nghĩa Lưu Bị (Liu Bei, trái), Quan Công (Guan Yu, đứng sau) và Trương Phi (Zhang Fei đứng trước) en.wikipedia.org
Người Việt chúng ta, vào lớp tuổi không còn son trẻ như tôi, phần đông ai
cũng biết truyện Tam Quốc hay ít ra cũng được nghe nhắc tới các nhân vật Lưu
Bị nhân đức, Quan Công trung nghĩa, Võ-hương hầu (thường gọi tắt là Võ hầu)
Gia Cát Lượng tức Khổng Minh vừa tài giỏi vừa tận trung với chúa... Chuyện
Lưu Bị, Quan Công xin để bàn một dịp khác, bài này dành cho nhân vật xuất
chúng Khổng Minh.
Đọc Tam Quốc chỉ hấp dẫn từ khi Khổng Minh xuất hiện tới sau khi Khổng Minh
đã chết mà còn để lại mưu kế giết Ngụy Diên, đánh đuổi được Tư Mã Ý ("Tử Gia
Cát năng tẩu sinh Trọng Đạt"). Khổng Minh quả thật là con người thông minh
tài giỏi, tinh thông thiên văn địa lý, biết phù phép sai khiến thần lục đinh
lục giáp, chế được trâu gỗ, ngựa máy biết chạy, nỏ liên hoàn bắn mười phát
một lúc (1), bầy bát trận đồ... chưa ra khỏi lều tranh đã biết "thiên hạ" (Tam
Quốc) tất sẽ chia ba thế chân vạc, vận trù
quốc sách ít khi sơ hở, những lần Khổng Minh thất bại đếm được trên dầu ngón
tay.
- Bạch Cư Dị (772 - 846) có thơ ca tụng Khổng Minh :
Gia Cát Lượng (Zhūge Liàng,
诸葛亮)
Vịnh Vũ hầu
Tiên sinh hối tích ngọa sơn lâm,
Tam cố na phùng hiền chủ tầm.
Ngư đạo Nam dương phương đắc thủy,
Long phi thiên ngoại tiện vi lâm.
Thác cô ký tận ân cần lễ,
Báo quốc hoàn khuynh trung nghĩa tâm.
Tiền hậu xuất sư vi biểu tại,
Linh nhân nhất lãm lệ triêm khâm.
Dịch :
Tiên sinh náu tiếng chốn sơn lâm,
Hiền chúa ân cần muốn tới thăm.
Cá đến Nam dương rào nước quẫy,
Rồng bay Tây Thục đổ mưa rầm.
Xụt xùi giọt ngọc trao con đỏ,
Gắng gỏi lòng son trả nghĩa thâm.
Hai biểu xuất sư còn để lại,
Khiến người coi thấy lệ đầm đầm. (2)
- Không phải chỉ con cháu Khổng Tử mới sùng bái mà cả con cháu hờ ở Việt Nam
cũng không thiếu gì người tấm tắc khen Khổng Minh. Thi sĩ Tản Đà (1889-1939)
từng làm thơ tỏ lòng hâm mộ Vũ hầu :
Nhớ ông Gia Cát sáu lần ra Kỳ sơn (3)
Mưỡu :
Ngồi buồn nhớ chuyện người xưa,
Nhớ ông Gia Cát bây giờ nơi nao ?
Sáu phen Bắc phạt họ Tào,
Kỳ sơn chí khí, anh hào nghìn thu.
Nói :
Lục xuất Kỳ sơn Gia Cát Lượng,
Tấm trung trinh treo sáng cõi nhân hoàn.
Biểu xuất sư hòa lệ chứa chan,
Bao xiết nghĩ giang san cùng ấu chúa.
Thành, bại, hưng, vong, nguyên hữu số,
Tranh hùng cát cứ khả do nhân (4).
Cuộc trần ai còn sức kinh luân (5),
Sao đã chịu "tam phân hình đỉnh túc" (6) ?
Anh hùng tự cổ nan tri túc,
Kể làm chi vinh, nhục, nghĩa hư vô ?
Diệt Tào rồi sẽ thôn Ngô.
- Trước Tản Đà còn có nhiều người nữa, thí dụ Phạm Ngũ Lão (1255-1320),
tướng giỏi của Trần Hưng Đạo, nổi tiếng văn võ toàn tài, cũng có thơ ca ngợi
Gia Cát Khổng Minh :
Thuật hoài
Hoành sóc giang sơn cáp kỷ thu,
Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu.
Nam nhi vị liễu công danh trái,
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.
Dịch nghĩa :
Thuật nỗi lòng
Cắp ngang ngọn giáo gìn giữ non sông đã mấy thu,
Ba quân như gấu hổ, át cả sao Ngưu.
Thân nam nhi nếu chưa trả xong nợ công danh,
Ắt thẹn thùng khi nghe người đời kể chuyện Vũ hầu. (7)
Tuy nhiên, những ai đã phục Khổng Minh chắc đọc Tam Quốc cũng thấy có đôi
điều thắc mắc, chẳng hạn về vụ "Hoa dung tiểu lộ" và về vấn đề gia đình vợ
con của Khổng Minh.
Cái con người tài giỏi "liệu việc như thần", tận trung tận lực với chúa cho
đến chết, ai ai cũng phục như thế mà để xẩy ra vụ Hoa dung tiểu lộ khiến
người ta không sao hiểu nổi. Nguyên khi ở Hạ khẩu, Khổng Minh biết trước Tào
Tháo đại bại ở Xích-bích tất trốn qua Hoa dung tiểu lộ (đường chạy đến Hoa
dung, nhỏ hẹp, gồ ghề khó di nhưng gần được 50 dậm so với đường lớn phẳng
phiu) nên đặt quân mai phục ở đấy, thế nhưng lại đặt Quan Công vào chỗ ấy
khiến cho Tào Tháo vẫn chạy thoát vì Quan Công nhớ tới ân nghĩa Tào Tháo xưa
kia đối với mình nên tha cho chạy đi. Lưu Bị đã nói ngay với Khổng Minh là
sợ Quan Công nghĩa khí tất sẽ tha Tào Tháo thì Khổng Minh thưa :"Tôi xem
thiên văn, biết số Tào Tháo chưa chết nên mới để mối tình nghĩa ấy cho Vân
Trường làm". Đến đứa trẻ con cũng nghĩ được rằng nếu Khổng Minh đặt Trương
Phi hay Triệu Tử Long ở Hoa dung tiểu lộ thì dẫu Quan Công mai phục ở chỗ
khác vẫn trả được ơn Tào Tháo mà Tào Tháo tất không còn đất sống, sao không
làm ?
Khổng Minh giải thích là xem thiên văn biết số Tào Tháo chưa chết, đấy là
nói thác, xưa nay Khổng Minh không phải là con người chịu khuất phục trước
số mệnh, bằng cớ :
- biết vận nhà Hán đã hết mà còn cố "lục xuất Kỳ sơn" và "thất cầm Mạnh
Hoạch" (8) để mong khôi phục nhà Hán.
- Tại gò Ngũ-phượng, Khổng Minh biết mình sắp tận số nhưng cũng cứ làm lễ
dâng sao giải nạn để xin thêm tuổi thọ.
- Khổng Minh giỏi thiên văn hẳn đã rõ cha con Tư Mã Ý chưa hết số thế sao
vẫn cứ nổi lửa ở hang Thượng-phương toan hun chết cha con Tư Mã Ý để rồi khi
trời nổi trận mưa "bất ngờ" như trút, dập tắt lửa, Khổng Minh quẳng chén
rượu xuống đất than : "Lòng người muốn như thế nhưng ý Trời là thế" ("Nhân
nguyện như thử, thiên ý vị nhiên").
Khổng Minh biết Quan Công ắt tha Tào Tháo mà vẫn cắt đặt ở Hoa dung tiểu lộ
rồi nói là vì biết Tào Tháo chưa đến ngày tận số, đấy là nói thác.
Khổng Minh đã không phải con người chịu khuất phục trước số mệnh thì tha Tào
Tháo ớ Hoa dung tiểu lộ phải có ý nghĩa khác, chứ không phải vì tin số
mệnh, càng không phải vì sơ xuất hay vụng tính. Có thể chỉ vì những lý do
sau đây :
a- Thuyết chia ba chân vạc
- Khổng Minh chưa ra khỏi lều tranh đã định rằng trong tương lai Trung quốc tất sẽ chia ba thế chân vạc. Để Tào Tháo sống thì mới duy trì được thế chân vạc, giết Tào Tháo thì hạ Tôn Quyền dễ như trở bàn tay, chẳng hóa ra thuyết chia ba thiên hạ của Khổng Minh sai lầm hay sao ?
b- Củng cố uy quyền
- Khổng Minh tha Tào Tháo dễ dàng vì coi là Tào Tháo nằm trong tay mình, muốn bắt lúc nào cũng được. Khi ấy Khổng Minh mới ra giúp Lưu Bị, chư tướng, kể cả Quan Công, chưa ai biết tài, chưa tâm phục, vì thế khi cắt đặt các tướng ra trận, Khổng Minh cố ý lờ Quan Công khiến Quan Công phải tình nguyện xin đi và lập quân lệnh trạng hễ tha Tào Tháo thì chịu tội. Việc Quan Công sẽ tha Tào Tháo nằm trong dự liệu của Khổng Minh, lập quân lệnh trạng là để có thể trị Quan Công một cách "danh chính ngôn thuận", trị được Quan Công tức cũng là khuất phục được chư tướng, củng cố uy tín của mình. Quan Công chỉ là quân cờ trong tay Khổng Minh. Nếu cho Quan Công mai phục ở chỗ khác thì Quan Công vẫn có dịp trả ơn Tào Tháo, nhưng tội Quan Công chưa đủ nặng bởi Tào Tháo sẽ vẫn bị tướng khác bắt tại Hoa dung tiểu lộ. Tội không đủ nặng thì hình phạt không thể quá nghiêm khắc, uy tín của Khổng Minh cũng giảm.
c- Phô tài
- Khổng Minh mới ra giúp Lưu Bị chưa có dịp trổ hết tài năng. Tào Tháo là tướng giỏi, đáng kể là "kỳ phùng địch thủ", tuy đủ thông minh để hiểu thấm thía những nước cờ hay nhưng chưa đủ tài trí để tránh né hết những mưu mẹo của Khổng Minh. Đặt mưu kế lừa được Tào Tháo mới thích chứ lừa được những tướng tầm thường thì không có gì là thú vị. Để Tào Tháo sống là còn có dịp phô trương tài nghệ phi thường của mình.
d- Phòng thân
- Gấp rút diệt Tào Tháo, dẹp xong ngay Tôn Quyền để làm gì ? "Bình thiên hạ"
rồi chắc gì Lưu Bị còn trọng vọng ? Tục ngữ có câu "Địch quốc phá, mưu thần
vong". Tào Tháo cón nhận biết Lưu Bị là gian hùng ("Anh hùng trong thiên hạ
chỉ có sứ quân và Tháo mà thôi") thế thì Khổng Minh ở sát bên cạnh đời nào
lại không nhìn rõ bụng dạ Lưu Bị ? Khi sắp chết Lưu Bị đã thử lòng, và có
thể là chặn trước Khổng Minh, với những "lời "tâm phúc" khiến Khổng Minh sợ
toát mồ hôi :
"... (Lưu Bị) một tay gạt nước mắt, một tay cầm tay Khổng Minh mà nói :'Tài
Thừa tướng gấp mười Tào Phi (con Tào Tháo) tất yên định được nhà nước, làm
nên việc to. Đối với con trẫm, có thể giúp được thì giúp, bằng không thì
ngươi nên làm chủ Thành đô đi'. Khổng Minh nghe nói rụng rời, mồ hôi đổ ra
khắp mình (...) rập đầu xuống đất, máu chẩy đầy mặt" (hồi 85).
Khổng Minh không muốn lên ngôi thì thôi, việc gì phải sợ hãi đến toát mồ hôi
khắp mình, vập đầu đến chẩy máu, phải chăng vì không ngờ Lưu Bị nhìn rõ ruột
gan mình ?
Khổng Minh thừa hiểu mình muốn chiếm ngôi dễ như chơi nhưng là người nhìn xa
thấy rộng, biết rằng mình đã nắm trọn binh quyền trong tay, có lên ngôi cũng
chỉ đem lại cái hư danh, không hơn gì. Khổng Minh rõ Lưu Bị chẳng tin gì
mình tất có nghĩ sẵn mưu đối phó với mình nếu mình tỏ ra có ý khác. Cho nên
Khổng Minh từ chối là vì muốn còn đất sống để thi thố tài năng trong vòng
luân lý phong kiến : thà trung với Hán mà nắm quyền hành, tha hồ thao túng,
"nhà Hán" sẽ làm bia đỡ đạn, còn hơn cướp ngôi báu, quyền hành chẳng hơn mà
lại mang tiếng xấu muôn đời sỉ tiếu. Tha Tào Tháo là duy tri thế chân vạc
nhưng cũng là để tự cứu mình, Lưu Bị còn cần thì quyết chưa giết Khổng Minh.
e- Hiền thần
- Tào Tháo càng tỏ ra gian ác, càng phản phúc thì vai trò "hiền thần" của
Khổng Minh càng nổi bật lên chứ Khổng Minh cũng nhiều thủ đoạn không kém gì
Tào Tháo :
- Lừa cha con Lưu Biểu để cướp Kinh châu.
- Lật lọng với anh là Gia Cát Cẩn và Chu Du cũng để giữ Kinh châu.
- "Thất cầm Mạnh Hoạch" quân sĩ cực khổ, chết như rạ, thế mà vừa dẹp xong
lại lăm le Bắc tiến "Lục xuất Kỳ sơn", muốn diệt Ngụy ngay để tỏ mình hết
lòng với nhà Hán. Lần cất quân thứ sáu, Tiên Chu phải can, mà can toàn bằng
giọng lưỡi của Khổng Minh thường dùng : quân sĩ mỏi mệt, xem thiên văn thấy
vượng khí ở phương Bắc, ra quân bất lợi... "Thừa tướng cũng giỏi thiên văn,
cớ sao lại làm việc miễn cưỡng..." thế nhưng Khổng Minh lại cãi : "Đạo Trời
biến đổi bất thường, không nên cố chấp". Rõ ràng khi muốn Quan Công tha Tào
Tháo ở Hoa dung tiểu lộ thì Khổng Minh viện thuyết số mệnh, bây giờ muốn cất
quân thì lại nói ngược lại vì "đạo Trời biến đổi...", Trời biến đổi khéo sao
lại phù hợp với ý muốn của Khổng Minh ! Có khác gì nói "Khổng Minh muốn là
Trời muốn". Giá trước kia giết ngay Tào Tháo ở Hoa dung tiểu lộ thì việc gì
phải khó nhọc đánh dẹp sau này tới sáu lần ra Kỳ sơn mà vẫn không xong ?
Tản Đà có lẽ cũng nhận rõ phần nào tính "hiếu chiến" của Khổng Minh khi viết :
Cuộc trần ai còn sức kinh luân,
Sao đã chịu "tam phân hình đỉnh túc" ?
Khổng Minh không phải là hiền thần, vì muốn trổ tài nên không dung được Bàng
Thống và Chu Du (Chu Du) mặc dầu Bàng Thống cùng với Khổng Minh đều tôn phò
Lưu Bị, còn Chu Du phò Tôn Quyền (Tôn Quyền) nhưng Thục (Lưu Bị) và Đông Ngô
(Tôn Quyền) thường liên kết với nhau để chống Tào Tháo thì Chu Du cũng kể là
một phe với Khổng Minh, thế mà Khổng Minh lại không dung cả hai.
Bàng Thống - Khổng Minh đã có địa vị vững vàng bên Lưu Bị rồi thì Bàng Thống
mới xuất hiện. Nếu Khổng Minh thực tâm muốn cho nhà Hán chóng khôi phục
Trung nguyên thì phải hết lòng tiến cử hiền tài cho Lưu Bị. Chỉ vì Khổng
Minh sợ Bàng Thống không cướp thì cũng chia sẻ quyền hành với mình -Bàng
Thống được người đời liệt ngang tài với Khổng Minh, một bên là rồng ("Phục
Long" tức Khổng Minh), một bên là phượng ("Phụng Sồ" tức Bàng Thống)- nên
đáng lẽ viết thư tiến cử Bàng Thống rồi sai người chạy ngựa lưu tinh dâng
thẳng cho Lưu Bị thì lại đưa thư cho Bàng Thống bảo đem dâng Lưu Bị khi ra
mắt, biết rằng Bàng Thống kiêu ngạo chắc không đưa thư, mong Lưu Bị nhận ra
giá trị mình. Khổng Minh lại biết Lưu Bị là ngươi ưa bề ngoài, thấy Bàng
Thống xấu xí tất không đẹp lòng, không trọng đãi. Thế là Bàng Thống đành tạm
nhận một chức thấp kém để chờ ngày Lưu Bị "tỉnh ngộ", sau nhờ Trương Phi
điều tra ra tài của Bàng Thống nên Bàng Thống mới được cất nhắc lên chỗ xứng
đáng hơn, tức ngang hàng với Khổng Minh (điều này thì Khổng Minh không ngờ
tới bới xưa nay Trương Phi nổi tiếng là người thô lỗ vô mưu). Bàng Thống
được trọng dụng rồi, nóng lòng muốn phô trương tài nghệ, cất quân đến gò
Lạc-phượng thì bị mai phục mà chết. Khổng Minh biết Bàng Thống tất chết (đã
"liệu việc như thần" thì còn có gì qua mắt Khổng Minh ?) nhưng lại không tìm
cách ngăn cản. Bàng Thống chết thì Lưu Bị mất một người phò tá giỏi nhưng
Khổng Minh giữ trọn quyền chính.
Chu Du - Chu Du thường bị phê phán là hẹp bụng,
ganh tài với Khổng Minh, thấy Khổng Minh tài trí hơn mình thì ghen ghét, tức
giận mà chết. Thực ra thì chính Khổng Minh mới không dung Chu Du bởi Chu Du
tận trung với Tôn Quyền, không dễ thao túng. Mặt khác, Khổng Minh quỷ quyệt
hơn, đã chọc cho Chu Du uất lên mà chết, lại giả vờ tế lễ khóc lóc, khôn
khéo đổ hết lỗi lên đầu Chu Du, bịt mắt thiên hạ. Khổng Minh không dung Chu
Du cũng như không dung Bàng Thống vì quyền lợi riêng, còn Tào Tháo tuy thuộc
phe địch nhưng buông tha Tào Tháo lại có lợi cho Khổng Minh.
Tóm lại, Khổng Minh tài giỏi thì có nhưng có là "hiền thần" hết lòng vì Lưu
Bị và nhà Hán thì còn phải xét lại. Tản Đà đinh ninh Khổng Minh tận tuỵ với
nhà Hán nên mới viết :
Diệt Tào rồi sẽ thôn Ngô.
Nhưng thử hỏi tại sao Khổng Minh có cơ hội diệt Tào chóng vánh ở Hoa dung
tiểu lộ lại không làm ?
- Trước hết ai cũng biết Khổng Minh trẻ tuổi, "mặt đẹp như ngọc, hình dung thanh thoát như tiên" (hồi 38) lại thông minh tài trí hơn đời, tại sao nhất định xin cưới một người đàn bà nổi tiếng xấu xí lấy cớ vì phục là người thông minh tài giỏi ? Thiếu gì người vừa đẹp vừa thông minh giỏi giang -Khổng Minh là một điển hình- vậy thì chỉ có thể là đối với Khổng Minh đàn bà đẹp xấu không quan hệ, Khổng Minh không tha thiết cho lắm. Tuy nhiên, nếu ưa chuộng vợ vì thông minh tài giỏi thế sao không bao giờ thấy Khổng Minh, những khi vận trù quốc sách, "vấn kế" hay có một hành động gì tỏ ra thực sự trọng cái thông minh giỏi giang của vợ ? Thúy Kiều chỉ nổi tiếng nhất về sắc ("Sắc đành có một...") mà còn được Từ Hải mời dự bàn quân cơ. Cứ cho là Khổng Minh kín đáo "vấn kế" phu nhân không ai biết thế nhưng tại sao không bao giờ đoái hoài tới con là Gia Cát Chiêm, cháu là Gia Cát Thượng ?
- Người ta chỉ thấy Khổng Minh cất nhắc con của Quan Công, con của Trương
Phi... không bao giờ săn sóc đến con đẻ, tại sao ? Phải chăng vì Khổng Minh
thấy con mình quá ngu đần ? Thói thường bố mẹ cùng thông minh tuyệt đỉnh thì
đẻ con ra, trừ trường hợp đặc biệt, con cái dù không xuất chúng cũng không
đến nỗi quá ngu độn, vậy có phải vì Gia Cát Chiêm ngu si quá đến nỗi Khổng
Minh tuyệt vọng không thiết dạy dỗ ? Ta thấy Chiêm chỉ xuất hiện sau khi
Khổng Minh chết, lúc Thành đô đang bị nguy khốn khiến Hậu chủ phải ba lần
xuống chiếu vời vào triều nghị sự, điều này ít ra cũng chứng tỏ Chiêm không
mang tiếng quá ngu đần. Vậy thì từ khi sinh ra Chiêm đã có những thành tích
gì ? Theo Tam Quốc (hồi 117) thì Chiêm "thông minh từ nhỏ... lấy con Hậu
chủ, làm Phò mã đô uý, sau tập tước cha làm Võ-hương hầu, rồi thăng làm Hành
quân hộ vệ tướng quân, sau thác bệnh ở nhà hưu dưỡng" có nghĩa là cho tới
khi về hưu gần như Chiêm chỉ có hư vị chứ không có trọng trách gì. Chiêm chỉ
thực sự được giao binh quyền khi Thành đô nguy ngặp, không người đấu trí
được với Đặng Ngải.
Lần đầu giáp chiến, Chiêm bầy Bát trận và đem tượng Khổng Minh ra dọa khiến
tướng Ngụy tưởng Khổng Minh còn sống, bở vía chạy dài, Chiêm toàn thắng. Lần
thứ hai không cần dựa hơi cha (đem tượng ra) Chiêm cũng lại thắng nữa, tỏ ra
cũng biết bầy mưu kế khiến Đặng Ngải phải than :"Gia Cát Chiêm nối được chí
cha, ta không trừ cho sớm tất sinh vạ lớn". Đặng Ngải chỉ đánh hai trận cũng
nhận ra Chiêm không ngu sao Khổng Minh lại coi thường con mình, không bao
giờ đếm xỉa đến, lại đi tìm người ngoài để truyền sở học ?
- Con của Chiêm là Gia Cát Thượng "19 tuổi, võ nghệ cũng giỏi, xem binh thư
nhiều" thế mà cũng không được Khổng Minh lưu ý tới. Khi Chiêm cầm quân giao
chiến lần đầu và đại thắng thì Thượng làm Tiên phong, lần thứ hai "Thượng
một ngựa một thương đánh giạt hai tướng Ngụy, Chiêm thúc hai cánh quân đánh
vào trại Ngụy, quân Ngụy chết không biết bao nhiêu mà kể". Giao chiến lần
thứ ba hai cha con mới chết trận. Thế thì con cháu của Khổng Minh dù cho
không là thần đồng cũng không thuộc hạng ngu si thế mà Khổng Minh không
truyền dạy sở học cho con cháu là tại sao ? Tại mảng lo việc nước nên không
có thì giờ nghĩ đến việc dạy dỗ con cái ? Thế còn phu nhân "lắm tài lạ,
thông hiểu thiên văn địa lý, thuộc lầu lầu các sách thao lược độn giáp, Võ
hầu giỏi cũng nhiều điều nhờ phu nhân giúp đỡ" lại không gíúp Khổng Minh dạy
con được hay sao ? Rõ ràng Khổng Minh không đếm xỉa đến con cháu nên khi
Khương Duy đầu hàng mới thốt :"Ta từ khi ra khỏi lều tranh muốn tìm một hiền
giả để truyền cái nghề cũ của ta nhưng vẫn ân hận chưa gặp được ai. Nay gặp
Bá Ước ta thực thỏa lòng lắm" (hồi 93). Khổng Minh cho là con cháu mình
không đủ tài trí để truyền nghề, thế nhưng Gia Cát Chiêm dẫu bị cha xao
lãng, không dạy dỗ mà còn thắng được tướng giỏi Đặng Ngải hai trận, giết hơn
một vạn quân Ngụy, nếu được dạy dỗ tử tế hẳn hoi biết đâu Chiêm không thành
được tướng tài, ít ra cũng bằng Khương Duy ? Khương Duy cũng giỏi nhưng
không phải "bách chiến bách thắng", có sở học của Khổng Minh trong tay mà
cuối cùng vẫn thua liểng xiểng, chết bị moi gan mật. Con cháu thông minh sẵn
có trong nhà sao lại "đi cầu Thích Ca ngoài đường" ?
Mặt khác, Khổng Minh là người giỏi thiên văn, thuật số, hẳn biết Khương Duy
mệnh yểu, cái học của mình có thể sẽ mai một với cái chết của Khương Bá Ước,
biết thế mà vẫn cứ cố truyền dạy cho Khương Duy chứ không truyền cho con là
vì sao ? "Muốn lưu lại sở học" không còn lý do đứng vững.
Tư Mã Ý - Chu Du, Bàng Thống, Tào Tháo đều đã chết, còn lại Tư Mã Ý xứng
đáng cho Khổng Minh chú ý và kiêng dè, Khổng Minh phải dùng đến trâu gỗ ngựa
máy mới thắng nổi... (hồi 103-4). Muốn khích cho Tư Mã Ý ra quân chứ đừng
đóng cửa thành cố thủ, thiếu gì cách lại đem khăn yếm đến tặng Tư Mã Ý, lấy
cớ là chế giễu Tư Mã Ý hèn nhát như đàn bà ? Tại sao những trường hợp khác,
gặp tướng cố thủ trong thành không ra thì Khổng Minh không tặng khăn yếm ?
Khổng Minh tặng khăn yếm để khích, các tướng Ngụy mắc mưu nổi giận đòi đánh
nhưng Tư Mã Ý nhìn rõ bụng Khổng Minh, không sợ Khổng Minh khích, chịu nhận
khăn yếm, lại còn trọng đãi sứ giả, nhân đó hỏi thăm chuyện Khổng Minh ăn
ngủ, công việc nhiều ít ra sao, khi nghe nói rõ tình hình thì bình rằng
:"Khổng Minh ăn ít, làm nhiều, sống lâu sao được ?". Khổng Minh khen :"Tư Mã
Ý thực rõ ý ta". Ấy là Khổng Minh vốn đã phục tài Tư Mã Ý lại thấy Tư Mã Ý
hiểu mình càng có bụng mến. Tặng khăn yếm để khích có thể chỉ là một nửa sự
thật ? Khổng Minh quả chỉ coi Tư Mã Ý là đàn bà ? Hành động này kỳ quái cũng
tực như Khổng Minh chọn vợ xấu mà lại khen Chu Du "đẹp traì", không dạy con
đẻ mà lại "thỏa nguyện" đem sở học truyền cho Khương Duy. Khổng Minh có "bất
bình thường" không ?
Tóm lại, Khổng Minh đúng là một thiên tài, nhưng "thiên tài" là do Trời phú
cho chúng ta không bắt chước được, còn những hành vi của Khổng Minh lại mập
mờ như thế, liệu chúng ta có phải " thẹn khi nghe chuyện Vũ hầu" ?
Nguyễn Thị Chân Quỳnh
Châtenay-Malabry, tháng 11, 2003
Đền thờ Khổng Minh
1- Theo truyền thuyết Việt Nam thì Thục An Dương Vương (257-207 tr. TL) đã được
thần Kim quy cho một cái móng làm lẫy nỏ, bắn một phát chết hàng vạn người. Tuy
là truyền thuyết nhưng năm 1959 các nhà khảo cổ đã khai quật được hàng vạn mũi
tên đồng ở Cổ Loa, chứng tỏ chuyện nỏ thần không phải là không có cơ sở. Khổng
Minh (181-234) sống sau An Dương Vương mấy thế kỷ thì không phải là người đầu
tiên nghĩ ra nỏ liên hoàn.
2- Bạch Cư Dị nổi tiếng thời Thịnh Đường với những bài thơ "Tỳ bà hành", "Trường
hận ca"...
Bài thơ khen Khổng Minh trích theo Tam Quốc hồi 104, bản dịch của Phan Kế Bính,
song chỉ có bản dịch ra quốc ngữ, không có phần chữ Hán. Bản chữ Hán trên đây
trích trong Đường Thi Trích Dịch của Đỗ Bằng Đoàn.
3- Tản Đà Vận Văn, I I, tr. 113-4.
"Lục xuất Kỳ sơn = sáu lần Khổng Minh đem quân ra Kỳ sơn đánh Tào Tháo để
mong khôi phục Trung nguyên.
4- "Tranh hùng cát cứ" = dùng sức mạnh chia cắt bờ cõi, giữ địa vị anh hùng.
5- "kinh luân" = đem tài trí ra xoay xỏa.
6- "đỉnh" = vạc ba chân, "đỉnh túc" = chân vạc.
7- Phạm Ngũ Lão có công lớn trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông và là con
rể Trần quốc Tuấn.
"Thuật hoài", Thơ Văn Lý Trần, tr. 562-3, trích theo Việt Nam Sử Lược của
Trần Trọng Kim.
8- "Thất cầm Mạnh Hoạch" = bẩy lần bắt được Mạnh Hoạch lại tha để Mạnh Hoạch
phải tâm phục mới bình được phương Nam. Vừa dẹp xong Mạnh Hoạch lại dâng biểu
xin đánh Ngụy, viện cớ nghe tin Tư Mã Ý vừa bị Tào Tuấn cách chức, phải nắm lấy
cơ hội tốt bởi Khổng Minh "chỉ ngại Tư Mã Ý cầm quân".
Đỗ Bằng Đoàn, Đường Thi Trích Dịch, Tủ sách Hoa Xưa, không rõ năm.
La Quán Trung, Tam Quốc. Dịch giả Phan Kế Bính, Hà nội : Phổ Thông, 1960.
Tản Đà Vận Văn, I I. Paris : Institut d'Asie du Sud Est, 1986.
Thơ Văn Lý Trần. Hà nội : KHXH, 1989.
Đọc
Gia Cát Lượng
(Vi.wikipedia)
© http://vietsciences.free.fr và http://vietsciences. org Nguyễn Thị Chân Quỳnh |