Những bài cùng tác giả
Một khi cái giả biến
thành cái thật, được đem rao giảng cho thế hệ trẻ
thì khác nào chất axít gậm nhấm tâm hồn họ. Sự thật
lịch sử bị vùi lấp, xuyên tạc bởi bất kỳ lý do gì
cũng làm giảm sút, nao núng lòng tin, lòng tự hào về
lịch sử dân tộc của lớp trẻ - chất ximăng kết dính
những tâm hồn Việt Nam. Nhìn lại lịch sử triều
Nguyễn chính là cách Việt Nam nâng cao bản lĩnh dân
tộc -
Nhìn lại chuyện học môn lịch sử ở nước ta
“Lịch sử là một thành phần mà thiếu nó thì không một
ý thức dân tộc nào đứng vững được” (Fernand
Braudel). Chính vì thế, hiểu biết sâu sắc về lịch sử
đất nước mình, tự hào về những trang sử vẻ vang của
dân tộc mình là nền tảng cơ bản để hình thành lòng
yêu nước, một phẩm chất đặc biệt và cũng là một động
ực lớn lao của con người Việt Nam qua mọi thời đại.
Năm 2006 trong 4622 thí sinh thi vào Đại học Sư phạm
Hà nội, 655 thí sinh bị điểm 0 môn sử (chiếm 15%) và
chỉ có 6 thí sinh được điểm 8 trở lên, so với năm
2005 là 103/5399, nếu tính gộp cả bốn trường đại
học, trong đó ba là Sư phạm, nghĩa là trường đào tạo
ra những người thầy dạy lịch sử, thì 58,5% thí sinh
có điểm lịch sử từ 1 trở xuống. Thế rồi, năm 2007,
có 150.234 thí sinh bị điểm từ 0 đến 4,5 điểm, chiếm
tỷ lệ tới 95,74% tổng số thí sinh khối C, số bị điểm
0 gần 6000!) Vì thế, “môn lịch sử giữ vai trò quan trọng bậc nhất
trong giáo dục chủ nghĩa yêu nước, các giá trị
truyền thống và cách mạng, góp phần xây dựng nhân
cách, bản lĩnh con người, giữ gìn bản sắc dân tộc”
như sự khẳng định của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Chủ
tịch danh dự của Hội khoa học lịch sử Việt Nam trong
thư gửi “Hội thảo bàn về thực trạng dạy và học sử”
cách đây hai năm khi xã hội rung chuông báo động về
việc học sinh đang chán học môn sử, điểm thi môn sử
quá kém. Đã có nhiều phân tích sâu sắc, trong đó, sự phê phán
tập trung vào Bộ GD&ĐT. Chuyện ấy không oan tí nào.
Song, nếu chỉ đổ hoàn toàn cho Bộ GD&ĐT thì liệu có
thể giải quyết tận gốc vấn đề học sinh không thích
học môn lịch sử không? Sách giáo khoa lịch sử có
nhiều vấn đề, điều ấy Bộ GD&ĐT phải chịu trách
nhiệm, thế còn những công trình nghiên cứu lịch sử
chất lượng kém thì do ai chịu trách nhiệm? Chất
lượng của công trình nghiên cứu lịch sử đã được xuất
bản là điểm tựa để đảm báo tính chính xác khoa học
của sách giáo khoa lịch sử, là sức hấp dẫn người
soạn sách giáo khoa lịch sử. Khi chất lượng ấy có
vấn đề thì trách nhiệm thuộc về ai? Ai chỉ đạo xây dựng những công trình đó, trình độ
khoa học và bản lĩnh của nhà sử học có ảnh hưởng gì
đến chất lượng công trình lịch sử nước nhà hay
không? Không thể đặt bộ môn lịch sử riêng rẽ trong
hệ thống kiến thức khoa học mà thế hệ trẻ cần được
giáo dục, khi mà một quan điểm chính thống đã được
áp đặt vào việc nghiên cứu và xuất bản các công
trình nghiên cứu lịch sử và biên soạn các sách giáo
khoa lịch sử thì cho dù có không ít những ý kiến
không đồng tình cũng không thể xoay chuyển được tình
thế chung. Ấy thế mà vấn đề viết sách giáo khoa lịch
sử không chỉ nhận được sự quan tâm tán thành hay
phản đối về nội dung, sự kiện và quan điểm của công
chúng trong nước, mà có khi lại là một cuộc đấu
tranh ngoại giao phức tạp giữa các quốc gia từng có
những mối quan hệ lịch sử. Chuyện Hàn Quốc phản đối
một số nội dung được đưa vào sách giáo khoa lịch sử
của Nhật là một ví dụ. Và cũng đừng quên rằng, hiện nay vẫn đang diễn ra
tình trạng in và lưu hành công khai những xuyên tạc
lịch sử nhằm vào những mưu đồ đen tối mà chúng ta
không thể không cảnh giác phát hiện và đấu tranh.
Chỉ có thể hiểu sâu những điều này khi đặt những
công trình nghiên cứu lịch sử và sách giáo khoa lịch
sử trong hệ thống các khoa học xã hội và nhân văn,
và hệ thống ấy nằm trong nền văn hóa dân tộc. Lịch sử và tầng sâu văn hóa của một dân tộc
Thành Gia Định (Sài Gòn) vẽ theo tư liệu của bản đồ
Bruyn 1795, Trần Văn Học 1815 Chỉ khi chúng ta suy ngẫm và hiểu ra được về những
gì đã hun đúc nên văn hoá Việt Nam, hình thành cốt
cách con người Việt Nam, chúng ta mới hiểu rõ bộ môn
khoa học lịch sử giữ một vị trí quyết định như thế
nào trong nền văn hóa ấy. Bởi lẽ, văn hoá không phải là một hệ thống đóng kín
những giá trị loại biệt mà là một tổng hợp đang phát
triển của các thành tựu vật chất và tinh thần của
một dân tộc. Văn hóa là một cấu trúc có bề sâu. Cuộc
sống xã hội được phản chiếu ở bề mặt, dưới bề mặt
đó, văn hóa được phân chia theo những tầng khác
nhau, thường tiềm ẩn và vô thức. Ở độ sâu này, ta thấy có một sự sắp xếp của các quy
tắc văn hóa điều chỉnh bề mặt ở bên trên. Nói đến “sức mạnh văn hoá”, “bản lĩnh văn hoá”, “bản
sắc văn hoá”, chính là nói đến sự tiềm ẩn và vô thức
này nằm chìm trong đời sống của dân tộc. Chính cái
đó làm nên ý thức dân tộc, tạo ra sức mạnh Việt Nam,
ý thức và sức mạnh làm cho đất nước này, dân tộc này
tồn tại và phát triển. Đúng là: lịch sử là một thành
phần mà thiếu nó thì không một ý thức dân tộc nào
đứng vững được. Không có ý thức đó thì không thể có
một nền văn hóa dân tộc và cũng chẳng thể nào xây
dựng được một xã hội Việt Nam hiện đại và văn minh.
Dòng chảy lịch sử là bất tận, nó tạo nên sức mạnh
bất diệt của một dân tộc. Thế hệ trẻ Việt Nam phải
được hiểu kỹ về dòng chảy bất tận đó, phải được tắm
mình vào trong dòng chảy bất tận đó để tự hào về ông
cha mình đã bao đời kiên cường, bất khuất dựng nước,
mở nước và giữ nước để trao lại cho thế hệ hôm nay
gìn giữ và phát triển. Không có niềm tự hào về dân
tộc, tự hào về nền văn hóa dân tộc sẽ không thể vững
tin mà đến với thế giới. Ở thời đoạn quá trình phát triển và hội nhập đi vào
chiều sâu, càng phải nâng cao sự hiểu biết của thế
hệ trẻ về lịch sử, hiểu rõ về ông cha mình, thấy ra
được chỗ mạnh và chỗ yếu của dân tộc mình. Trên ý
nghĩa đó, việc dạy và học lịch sử, những công trình
khoa học lịch sử chất lượng cao có tác động lớn đến
việc đào luyện con người, con người Việt Nam hôm nay
đang phải đối diện với những thách đố chưa từng có.
Tính trung thực lịch sử
và bản lĩnh người viết sử
Đội nhã nhạc triều Nguyễn. Ảnh từ Internet Một trong những vấn đề quan trọng nhất, cũng có thể
nói đó là điều kiện tiên quyết để đảm bảo chất lượng
công trình nghiêu cứu lịch sử, điểm tựa để đảm bảo
tính chính xác khoa học của sách giáo khoa lịch sử,
tiền đề hết sức quyết định của việc cuốn hút, hấp
dẫn và có tác động mãnh liệt đến tình cảm tư tưởng
của thế hệ trẻ, giúp vào việc xây dựng nhân cách và
bản lĩnh cho thế hệ trẻ, đó là tính trung thực lịch
sử. Một khi mà tính trung thực lịch sử của một số công
trình đã đến với đông đảo công chúng chưa cao, điều
mà phần lớn những nhà sử học có nhân cách đều biết,
song cho đến nay, dường như vấn đề này vẫn chưa được
đặt ra một cách sòng phẳng, nghiêm túc và minh bạch. Đương nhiên trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể,
tính chân lý lịch sử sẽ phải được công bố như thế
nào còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố, song dù chưa
công bố thì rồi tính chính xác khoa học của lịch sử
sớm muộn cũng phải thể hiện ra. Vì vậy, cùng với việc nâng cao chất lượng sách giáo
khoa lịch sử, nâng cao trình độ dạy sử của người
thầy và ý thức đối với việc học sử của học trò nhằm
bồi dưỡng tình cảm yêu nước và tinh thần dân tộc cho
thế hệ trẻ, phải đặt ra vấn đề chất lượng khoa học
của các công trình nghiên cứu lịch sử mà ở đó, tính
trung thực của tác giả công trình nhằm làm sáng tỏ
chân lý lịch sử là điều có ý nghĩa rất quyết định.
Liệu có cần nhắc lại ở đây một khuyến cáo của ông
Mitterrand “thái độ của giới trẻ với lịch sử là thước
đo sự tín nhiệm chính trị với chế độ”. Vị tổng thống
đương nhiệm của nước Pháp vào những năm 80 của thế
kỷ XX ấy, khi sang thăm Việt Nam, đã đến xem xét tận
nơi chiến trường Điện Biên Phủ trước đây, biểu thị
một ứng xử văn hóa sâu sắc thể hiện thái độ sòng
phẳng với lịch sử. Ai cũng có thể hiểu được rằng
Điện Biên Phủ đã trở thành một sự kiện lịch sử đánh
dấu sự thảm bại của một đế chế thực dân, kéo theo sự
sụp đổ hệ thống thuộc địa trên thế giới. Sự kiện
lịch sử ấy đã để lại một dấu ấn như thế nào trong
lịch sử quân đội Pháp nói riêng và nước Pháp nói
chung. Liệu có thể hiểu ứng xử văn hóa ấy của vị
Tổng thống Pháp cũng là biểu thị của tính trung thực
lịch sử không? Tính trung thực lịch sử ấy lại càng phải đậm nét
trong các công trình nghiên cứu lịch sử mà ở đó, thể
hiện tập trung trình độ chuyên sâu và bản lĩnh của
nhà sử học. Gợi lên hình ảnh trên để khỏi phải nhắc
lại chuyện mà hầu như nhà sử học nào cũng biết việc
cả ba anh em người viết sử nước Tề dù rơi đầu dưới
lưỡi gươm của Thôi Trữ vẫn không chịu sửa một chữ
của sự thật lịch sử là “Thôi Trữ giết vua của mình
là Trang Công”. Bản lĩnh ấy của người viết sử, của
người nghiên cứu và giảng dạy lịch sử là điều xã hội
đang trông chờ. Lựa chọn văn hóa và giải quyết "bi kịch" lịch sử
Phải chăng để đáp ứng sự trông chờ đó mà có Hội thảo
khoa học về “chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn” ngày
18 và 19 tháng 10 năm 2008 tại Thanh Hóa - nơi phát
tích của nhà Nguyễn - nhân kỷ niệm 450 năm Nguyễn
Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa và sau đó là Quảng Nam,
mở đầu một thời kỳ phát triển mạnh mẽ của dân tộc.
Đúng như Giáo sư Phan Huy Lê, Chủ tịch Hội Khoa học
lịch sử Việt Nam nhấn mạnh: “việc nhìn nhận, đánh
giá lại chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn ngày càng
trở thành một nhu cầu, đòi hỏi bức thiết, đầu tiên
là của giới sử học, sau đó là của tất cả những nhà
khoa học xã hội, và trở thành đòi hỏi của xã hội ”.
Vì rằng, mặc dầu “triều Nguyễn đã để lại
một di sản khổng lồ, vĩ đại mà không triều đại nào
trong lịch sử có thể sánh được” nhưng ngót một thế kỷ qua, sự
thật lịch sử đó đã bị vùi lấp. Đó là một bi kịch
lịch sử lớn. Nguyên nhân của bi kịch ấy có nhiều, song đúng như
phân tích của Gs. Phan Huy Lê “về sử học thuần túy,
đó là thời kỳ mà nền sử học Macxít đang hình thành,
nên sự ấu trĩ, giáo điều, công thức buổi đầu là
không tránh khỏi”. Cùng với vấn đề phương pháp luận sử học của các nhà
nghiên cứu, cần phải nói thêm là việc tồn tại thói
độc quyền tư tưởng, áp đặt tư duy, tùy tiện quy kết
của một số người có quyền, nhất là trên lĩnh vực tư
tưởng văn hóa đã là nguyên nhân trực tiếp và kéo dài
khiến cho nhiều sự thật lịch sử đã không được trình
bày một cách khách quan, trung thực. Theo cách nói
của Phạm Văn Đồng thì đó là “lấy lòng mong muốn thay
cho thực tế. Trong cách nghĩ và cách làm sai lầm
này, điều nguy hiểm nhất là bất chấp quy luật của
lịch sử”. Với sự nghiệp Đổi mới, từ sự đổi mới tư duy về kinh
tế mà đổi mới về tư duy nói chung để thấy ra sự phi
lý của những quan điểm chính thống “quay lưng lại
với bao sự thật hàng ngày diễn ra trước mắt mình để
lao vào những sai lầm với những giá đắt phải trả. Rõ
ràng đây là một sự thiếu sáng suốt trong nhận thức
và hành động, trong lý luận và thực tiễn”. Những
quan điểm gọi là chính thống ấy khi áp đặt vào việc
biên soạn sách giáo khoa sử học cũng như từng áp đặt
cho các công trình nghiên cứu lịch sử thì “những giá
đắt phải trả” là khó mà có thể đo đếm được. Khi một cái giả biến thành cái thật, được đem rao
giảng cho thế hệ trẻ thì khác nào chất axít gậm nhấm
tâm hồn lớp trẻ, làm sao đo đếm được cái chất axít
gậm nhấm tâm hồn ấy? Sự thật lịch sử bị vùi lấp, tệ
hơn, bị xuyên tạc do nhiều động cơ và nguyên nhân
khác nhau, nhưng cho dù bởi bất kỳ lý do gì, thì
cũng làm giảm sút hay làm nao núng lòng tin của lớp
trẻ vào những trang lịch sử hào hùng của dân tộc,
hun đúc nên lòng tự hào dân tộc, chất ximăng kết
dính những tâm hồn Việt Nam, tạo nên sức mạnh Việt
Nam để phấn đấu bứt lên thoát khỏi nổi nhục nghèo
nàn và lạc hậu để sánh vai cùng thế giới. Vả chăng, “văn hóa là nền tảng tinh thần của đời
sống xã hội” như Nghị quyết của Đảng đã chỉ rõ thì
lịch sử dân tộc với những khúc tráng ca và bi ca có
sức lay động mãnh liệt tinh thần và tình cảm của con
người Việt Nam mọi thời đại có ý nghĩa quyết định
đến nền tảng tinh thần ấy. Đặc biệt là khi mà tiến
trình phát triển và hội nhập của đất nước đi vào
chiều sâu thì việc nâng cao bản lĩnh văn hóa có ý
nghĩa hết sức quyết định. Bởi lẽ, với tiến trình ấy
cần phải nhận thức được rằng “trước hết không phải
là chuyện kinh tế mà là chuyện văn hóa, một chuyển
động về văn hóa và tư tưởng có khi sâu sắc nhất xưa
nay, một thay đổi trong tâm lý dân tộc… đây là sự
chọn lựa văn hóa” (Nguyên Ngọc). Sự chọn lựa đó
không phải bây giờ mới có. Trong lịch sử đã từng có,
ít nhất có thể kể đến hai lần khá tiêu biểu. Lần thứ nhất là cuối thiên niên kỷ thứ nhất, đầu
thiên niên kỷ thứ hai với việc từ bỏ cái gốc Đông
Nam Á để tiềp nhận nền văn hóa “Hán hóa”, văn hóa
Trung Hoa, nhằm tạo ra một nhà nước mạnh đủ sức
chống chọi lại với họa xâm lược đến từ phương Bắc để
đến thế kỷ XI, Lý Thường Kiệt có thể dõng dạc tuyên
bố “Nam quốc sơn hà Nam đế cư”, khẳng định ý chí độc
lập tự cường của dân tộc ta. Lời khẳng định đó được
xem như “Tuyên ngôn độc lập” lần thứ nhất, để dẫn
đến “Tuyên ngôn độc lập” lần thứ hai với “Đại cáo
bình Ngô” của Nguyễn Trãi. Cuộc chọn lựa khôn ngoan lần thứ hai của Nguyễn
Hoàng, đưa đến một đất nước mở rộng với tư duy
“Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân”, phi Hán hóa
không chỉ về măt văn hóa, tư tưởng mà còn với sự lùi
xa “cương vực” về phía Nam, từ đèo Hải Vân đến Hà
Tiên, hình thành một quốc gia lớn mạnh đủ sức cho
Quang Trung đại phá quân xâm lược đến từ mọi phía.
Nhân kỷ niệm 450 năm Nguyễn Hoàng mở đầu một thời kỳ
phát triển mạnh mẽ của dân tộc, hy vọng rằng “Hội
thảo khoa học về chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn”
sẽ là một dấu ấn đậm nét về một thời kỳ phát triển
mới của ngành khoa học lịch sử góp phần nâng cao bản
lĩnh văn hóa dân tộc, góp phần củng cố “nền tảng
tinh thần của đời sống xã hội”.
Đã đăng trên VietNamNet |