Những bài cùng tác giả
- Nhận thức lịch sử một cách khách quan, trung thực,
công bằng là trách nhiệm của giới sử học và các thế
hệ hôm nay, biểu thị một thái độ sòng phẳng đối với
quá khứ. Đó cũng chính là cơ sở khoa học quan trọng
để giải tỏa những nhận thức sai lầm trước đây.
Hội thảo quốc gia về "Chúa Nguyễn và vương triều
Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế
kỷ XIX" đã khép lại với những nhận định công bằng,
khách quan dựa trên sự thật lịch sử. Chắc chắn, đây
là sự đột phá trong nhận thức về các chúa Nguyễn và
vương triều Nguyễn, bởi sự phê phán "cực đoan" về
vương triều Nguyễn đã được điều chỉnh, sự đứt gãy
lịch sử giai đoạn các chúa Nguyễn nam tiến mở cõi
giờ đây đã liền mạch, thông suốt và là cơ sở vững
chắc để sách sử nước nhà đảm bảo độ trung thực,
chính xác, tin cậy trước hậu thế.
Chúng tôi xin đăng bài tổng kết hàm súc của GS sử
học Phan Huy Lê cùng độc giả:
1. Ban tổ chức đã nhận được 90 báo cáo in vào Kỷ yếu
và đến sát ngày hội thảo nhận thêm 2 báo cáo, tổng
cộng 92 báo cáo. Các báo cáo gửi đến từ các nhà khoa
học tại quê hương Thanh Hóa, từ các viện, trung tâm
khoa học, các trường đại học ở nhiều tỉnh, thành phố
của cả nước, tập trung nhiều nhất là thủ đô Hà Nội,
thành phố Huế và thành phố Hồ Chí Minh.
Đặc biệt chúng tôi nhận được 8 báo cáo của các học
giả nước ngoài: Trung Hoa, đảo Đài Loan, Nhật Bản,
Pháp, Nga, Anh, trong đó có người đã từng bảo vệ
luận án Tiến sĩ với đề tài về thời chúa Nguyễn và
triều Nguyễn. Có thể nói hội thảo hội tụ các chuyên
gia hàng đầu về lịch sử Việt Nam thời kỳ thế kỷ XVI
đến thế kỷ XIX.
Trong phiên họp toàn thể khai mạc hội thảo sáng ngày
19-10-2008 số người tham dự lên đến khoảng 650
người, ngoài các nhà khoa học, còn hiện diện nguyên
Tổng bí thư Lê Khả Phiêu, nhiều nhà lãnh đạo, quản
lý ở Thanh Hóa và đại diện các cơ quan trung ương,
nhiều cán bộ lão thành quê hương xứ Thanh, đại diện
Hội đồng gia tộc họ Nguyễn Phước cùng nhiều nhà trí
thức, những người quan tâm đến thời kỳ chúa Nguyễn
và triều Nguyễn, và đại diện nhiều hãng thông tấn,
báo chí, phát thanh, truyền hình trung ương và Thanh
Hóa cùng các tỉnh, thành phố khác. Thành phần và số
người tham gia hội thảo đã nói lên đây là vấn đề
không chỉ giới khoa học mà cả xã hội quan tâm, vừa
mong muốn, vừa đòi hỏi các nhà khoa học phải làm
sáng rõ việc đánh giá các chúa Nguyễn và triều
Nguyễn một cách khách quan, trung thực, công bằng.
Trong tiến trình lịch sử Việt Nam, thế kỷ XVI-XIX là
một thời kỳ gần gụi thời đại ngày nay với nhiều mối
quan hệ trực tiếp và cũng là thời kỳ kéo dài trên 3
thế kỷ với nhiều biến động phức tạp, dữ dội của đất
nước. Phân liệt Đàng Trong - Đàng Ngoài, nội chiến
Trịnh - Nguyễn thế kỷ XVII, kinh tế văn hóa phát
triển trong sự giao lưu mạnh mẽ với khu vực và thế
giới, cuộc nổi dậy như vũ bão của phong trào Tây Sơn
rồi cuộc chiến tranh Tây Sơn - Nguyễn, cuộc xâm lược
của thực dân Pháp, tất cả diễn ra trong bối cảnh chủ
nghĩa tư bản phương Tây đang bành trướng mạnh mẽ
sang phương Đông vừa mở rộng thị trường thế giới vừa
đe dọa độc lập chủ quyền các nước châu Á.
Lịch sử Việt Nam thời kỳ này đặt ra rất nhiều vấn đề
cần nghiên cứu sâu sắc và thảo luận rộng rãi. Hội
thảo về chúa Nguyễn và triều Nguyễn không có tham
vọng thảo luận tất cả các vấn đề đó mà chỉ tập trung
vào một số vấn đề cơ bản liên quan đến việc nhìn
nhận và đánh giá về chúa Nguyễn và triều Nguyễn
trong quá trình phát triển của lịch sử Việt Nam thế
kỷ XVI đến thế kỷ XIX như trong báo cáo đề dẫn đã
trình bày trước hội thảo.
2. Qua thảo luận ở 3 tiểu ban, chúng ta đã đi đến
một số nhận thức đạt sự nhất trí cao, có thể nói là
đồng thuận. Tôi xin phép được tóm lược nội dung cơ
bản của sự nhất trí đó.
2.1. Mọi người tham gia hội thảo đều nhận thấy sự
phê phán, lên án đến mức độ gần như phủ định mọi
thành tựu của thời kỳ các chúa Nguyễn và triều
Nguyễn trước đây là quá bất công, thiếu khách quan,
nhất là khi đưa vào nội dung sách giáo khoa phổ
thông để phổ cập trong lớp trẻ và xã hội. Dĩ nhiên
thái độ đó có nguyên do của nó trong bối cảnh cách
mạng phế bỏ triều Nguyễn, rồi cải cách ruộng đất xóa
bỏ chế độ sở hữu ruộng đất phong kiến và nhất là khi
cả dân tộc đang tiến hành cuộc chiến đấu vì độc lập
và thống nhất tổ quốc. Trong bối cảnh đó, những hành
động xâm phạm đến độc lập và thống nhất đều bị phê
phán, lên án gay gắt. Đó là thái độ chính trị của xã
hội, còn về phía các nhà sử học dĩ nhiên có trách
nhiệm của mình trong vận dụng phương pháp luận sử
học chưa được khách quan, trung thực.
2.2. Hội thảo nhất trí nhận thấy việc đánh giá lại
công lao và cả mặt hạn chế của các chúa Nguyễn và
triều Nguyễn là rất cần thiết, có thể nói là một nhu
cầu bức xúc không chỉ trong nhận thức khoa học mà cả
trong tâm lý và công luận xã hội. Có người đặt vấn
đề thời điểm tổ chức hội thảo phải chăng là quá
chậm? Quả thực có thể nói là chậm so với yêu cầu xã
hội nhưng về phương diện khoa học, nhận thức là một
quá trình và một thay đổi có tính bước ngoặt phải có
sự chuẩn bị của nó. Trước hội thảo của chúng ta, từ
những năm 90 của thế kỷ XX đã có nhiều công trình
nghiên cứu mới ở trong nước và ngoài nước, có khoảng
20 cuộc hội thảo về chúa Nguyễn và triều Nguyễn. Đó
là những bước chuẩn bị rất quan trọng tạo nên cơ sở
khoa học, những điều kiện tương đối chín mùi cho
cuộc hội thảo tầm cỡ quốc gia này. Trong những cuộc
hội thảo đầu tiên, còn nhiều ý kiến khác nhau, rất
khó đạt sự nhất trí, nhưng đến hội thảo này xu hướng
xích lại gần nhau đã rõ nét và trên những nội dung
cơ bản đã thực sự gặp nhau trong nhận thức.
2.3. Về việc đánh giá chúa Nguyễn và triều Nguyễn
trong thời kỳ từ giữa thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ
XIX, hội thảo đã đạt được sự đồng thuận cao, khẳng
định những cống hiến to lớn sau đây:
2.3.1. Các chúa Nguyễn đã có công mở rộng lãnh thổ
về phía nam đến tận đồng bằng sông Cửu Long và xác
lập chủ quyền vững chắc trên vùng đất mới.
2.3.2. Tiếp tục thành tựu của phong trào Tây Sơn đã
xóa bỏ tình trạng phân chia Đàng Trong - Đàng Ngoài,
đặt cơ sở cho sự khôi phục nền thống nhất, Nguyễn
Ánh và triều Nguyễn đã hoàn thành công cuộc thống
nhất đất nước trên lãnh thổ rộng lớn bao gồm cả Đàng
Trong và Đàng Ngoài.
2.3.3. Xây dựng và củng cố quốc gia thống nhất trên
lãnh thổ tương ứng với lãnh thổ Việt Nam hiện đại,
bao gồm cả đất liền và hải đảo ven bờ cùng quần đảo
trên biển Đông. Triều Nguyễn là một vương triều quân
chủ tập quyền có những mặt hạn chế về chế độ chuyên
chế, về một số chính sách đối nội, đối ngoại, nhưng
cũng đạt nhiều tiến bộ về mặt quản lý quốc gia thống
nhất, về cải cách hành chính, xây dựng thiết chế và
cơ chế vận hành của bộ máy nhà nước tổ chức rất quy
củ.
2.3.4. Thời kỳ các chúa Nguyễn và triều Nguyễn để
lại một di sản văn hóa đồ sộ bao gồm cả di sản vật
thể và phi vật thể. Di sản này trải rộng trên cả
nước từ bắc chí nam, là kết quả lao động sáng tạo
của nhân dân ta, của cộng đồng các thành phần dân
tộc Việt Nam, của các nhà văn hóa kiết xuất tiêu
biểu cho trí tuệ và tâm hồn dân tộc. Di sản này được
kết tinh trong một số di sản đã được UNESCO công
nhận là Di sản văn hóa thế giới nghĩa là hàm chứa
những giá trị mang ý nghĩa toàn cầu như Cố đô Huế,
Nhã nhạc cung đình, phố cổ Hội An. Do thái độ phê
phán, lên án trước đây về nhà Nguyễn nên một thời
việc bảo tồn, phát huy giá trị của di sản này có
phần bị hạn chế.
3. Trong số những vấn đề đặt ra trong hội thảo, bên
cạnh những vấn đề nhất trí như trên còn những vấn đề
cần tiếp tục nghiên cứu và thảo luận:
3.1. Về hành động Nguyễn Ánh cầu cứu đem 5 vạn quân
Xiêm vào Gia Đinh, ký hiệp ước Versailles năm 1787,
dựa vào lực lượng viện trợ của Bá Đa Lộc. Trên thực
tế, 5 vạn quân Xiêm đã bị quân Tây Sơn đánh tan ở
trận Rạch Gầm-Xoài Mút năm 1785 và Hiệp ước
Versailles không được thực thi vì sự bùng nổ của
cách mạng Pháp năm 1789. Còn viện trợ do Bá Đa Lộc
vận động từ các thuộc địa Pháp thì lực lượng tuy
không nhiều nhưng cũng có tác dụng giúp Nguyễn Ánh
trong việc xây thành lũy, huấn luyện quân sĩ, phát
triển thủy quân, mua sắm vũ khí... và hoàn toàn nằm
trong sự kiểm soát của Nguyễn Ánh. Khi xem xét ngoại
viện, điều quan trọng là cần phân tích và làm sáng
rõ hành động cầu ngoại viện có được kiểm soát trên
cơ sở giữ được chủ quyền, đưa lại lợi ích cho đất
nước hay không, nếu dẫn đến mất chủ quyền, mất độc
lập là phạm tội làm mất nước, một tội ác không thể
dung thứ. Trên tinh thần đó, tuy còn những khác biệt
nhất định nhưng hội thảo đều cho rằng hành động đưa
5 vạn quân Xiêm vào Gia Định là một "điểm mờ", một
"tỳ vết" trong cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Ánh.
3.2. Vấn đề canh tân đất nước của triều Nguyễn được
thảo luận khá sôi nổi và còn những ý kiến khác biệt.
Mọi người đều thống nhất cho rằng trong bối cảnh thế
kỷ XIX, canh tân đất nước là một yêu cầu bức xúc ảnh
hưởng đến sự tồn vong của dân tộc. Trên bình diện
thế giới, khi các nước phương Tây đã bước vào thời
đại phát triển tư bản chủ nghĩa và văn minh công
nghiệp thì tình trạng tiền tư bản và tiền công
nghiệp của Việt Nam và phương Đông nói chung đã bộc
lộ sự chậm tiến, sự lạc hậu so với thời đại. Nếu
không canh tân để khắc phục tình trạng lạc hậu của
đất nước thì khó bảo toàn được sự tồn tại độc lập
của quốc gia, không tạo nên tiềm lực để đương đầu
thắng lợi với những thách thức mới của thời đại.
Thời nhà Nguyễn đã có nhiều đề nghị cải cách dâng
lên nhà vua. Nhưng chúng ta nên phân biệt những đề
nghị cải cách như sửa đổi ít nhiều chế độ tuyển dụng
quan lại, quản lý công trình thủy lợi, mở mang khai
hoang, chỉnh đốn giáo dục... trên nền tảng không
thay đổi của kết cấu kinh tế xã hội phong kiến, với
những cải cách mở cửa khai thông giao thương, phát
triển công thương nghiệp, học tập kỹ thuật phương
Tây, nâng cao trình độ quốc phòng... vươn lên tầm
nhìn thời đại.
Những cải cách sau mãi đến thời Tự Đức mới xuất hiện
với những điều trần đầy tâm huyết và nỗi trăn trở
của những trí thức cấp tiến như Nguyễn Trường Tộ,
Nguyễn Lộ Trạch, Đặng Huy Trứ, Bùi Viện... Xu hướng
cải cách như vậy là chậm và tuy vua Tự Đức có lúc
quan tâm, nhưng không chấp nhận và thực hiện như một
chủ trương của triều đình. Đây là mặt hạn chế lớn
của triều Nguyễn và hội thảo cũng đã trao đổi sơ bộ
về những nguyên nhân bên trong và bên ngoài cũng như
trách nhiệm của triều Nguyễn và thấy cần thiết phải
nghiên cứu sâu hơn nữa.
3.3. Cuộc kháng chiến chống Pháp từ năm 1858 đến
1884 do triều Nguyễn lãnh đạo đã kết thúc thất bại.
Hội thảo nhất trí nhận định để mất nước là một trách
nhiệm nặng nề không thể thoái thác và biện hộ của
triều Nguyễn với cương vị triều đình nắm chủ quyền
quốc gia. Nhưng nguyên do mất nước cần phải nghiên
cứu sâu sắc trong những nguyên nhân trực tiếp và sâu
xa, nguyên nhân chủ quan và khách quan, đặc biệt
phải đặt trong bối cảnh khu vực và thế giới, cần so
sánh với các nước trong khu vực Đông Nam Á và Đông
Á. Những nguyên nhân trực tiếp thì khá rõ như chủ
trương không nhất quán khi chủ chiến, khi chủ hòa,
khi lúng túng giữa chủ chiến và chủ hòa, tổ chức và
lãnh đạo kháng chiến phạm nhiều sai lầm về chiến
lược và chiến thuật, nhất là không huy động được sức
mạnh đoàn kết dân tộc, sức mạnh toàn dân đánh giặc,
bỏ lỡ nhiều cơ hội đáng tiếc... Nhưng hội thảo nhận
thấy cần nghiên cứu sâu hơn trong cả quá trình dẫn
đến thất bại của triều Nguyễn, trong đó mối quan hệ
giữa canh tân đất nước và bảo vệ độc lập dân tộc là
rất quan trọng.
Ngoài những vấn đề trên, trong hội thảo cũng có
người đề cập đến hệ tư tưởng Nho giáo, chính sách
ngoại thương có phải là "bế quan tỏa cảng" hay
không, chính sách và giải pháp đối với Ki Tô giáo,
chính sách đối với các nước láng giềng, nguyên do
tình trạng xã hội bất ổn định thời Nguyễn... Nhưng
do điều kiện thời gian, hội thảo không mở rộng phạm
vi thảo luận mà chỉ trao đổi, gợi ra một số ý kiến
để cùng nghiên cứu.
4. So với yêu cầu đặt ra từ đầu, có thể kết luận hội
thảo đã thành công tốt đẹp. Thành công lớn nhất là
hội thảo đã đạt được sự nhất trí cao đến mức độ đồng
thuận cho rằng thái độ phê phán, lên án toàn diện
các chúa Nguyễn và triều Nguyễn trước đây dù có lý
do của nó, nhưng đã đến lúc cần phải thay đổi. Kéo
dài nhận thức cũ đã gây ra sự phản đối trong nhiều
nhà nghiên cứu trong nước và quốc tế, đã tạo nên
nhiều phản ứng bất bình trong tâm lý xã hội và công
luận. Trên cơ sở đó, hội thảo đã xác lập một nhận
thức mới về thời kỳ các chúa Nguyễn và triều Nguyễn,
công nhận và tôn vinh những cống hiến lớn lao của
chúa Nguyễn và triều Nguyễn trong sự nghiệp mở mang
lãnh thổ về phía nam, thống nhất đất nước và xây
dựng quốc gia thống nhất trên lãnh thổ rộng lớn
tương ứng với lãnh thổ Việt Nam hiện đại và để lại
một di sản văn hóa đồ sộ, một bộ phận tạo thành quan
trọng của di sản văn hóa dân tộc.
Hội thảo cũng nhất trí nêu lên những mặt hạn chế của
thời kỳ chúa Nguyễn và triều Nguyễn. Tuy còn nhiều
vấn đề đang tồn tại nhưng hội thảo đã tạo nên một
hướng nhận thức mới để cùng tiếp tục nghiên cứu và
thảo luận. Đây là một đổi mới quan trong trong nhận
thức về chúa Nguyễn và triều Nguyễn. Nhưng cần nhấn
mạnh "đổi mới" hoàn toàn không có nghĩa là lật ngược
lại vấn đề, chuyển từ cực đoan phê phán sang cực
đoan tôn vinh một chiều mà là nhận thức lại trên cơ
sở những kết quả nghiên cứu khoa học mới nhất ở
trong nước và trên thế giới với những luận chứng
khoa học có sức thuyết phục.
Những kết quả của hội thảo cần được quảng bá trong
xã hội, cần được tiếp thu trong chỉ đạo công việc
bảo tồn và phát huy di sản văn hóa, trong biên soạn
lịch sử Việt Nam, trong chỉnh sửa sách giáo khoa phổ
thông. Tất nhiên hội thảo khoa học chỉ đưa ra các tư
vấn và kiến nghị khoa học, còn công việc thực thi
thuộc trách nhiệm của các cơ quan chức năng của hệ
thống chính trị hiện nay.
Nhận thức lịch sử một cách khách quan, trung thực,
công bằng là trách nhiệm của giới sử học và các thế
hệ hôm nay, biểu thị một thái độ sòng phẳng đối với
quá khứ. Đó cũng chính là cơ sở khoa học quan trọng
để giải tỏa những bất bình, những mặc cảm bị dồn nén
bởi những nhận thức sai lầm trước đây, từ đó góp
phần ổn định xã hội, tăng cường sự đoàn kết dân tộc
trong sự nghiệp chấn hưng dân tộc, xây dựng đất nước
văn minh, giàu mạnh hiện nay.
• GS Phan Huy Lê
http://vietnamnet.vn/vanhoa/2008/10/809843/
|