|
Lê Văn Duyệt (1764 - 1832)
ĐỂ TƯỞNG NHỚ TẢ QUÂN LÊ-VĂN-DUYỆT
(1764-1832) SAU 170 NĂM
LTS: Gs Nguyễn-Phú-Thứ đã từng là giáo sư
toán đệ nhị cấp, nhiệm sở sau
cùng trước khi ông định cư tại
Pháp là trường trung-học
Nguyễn-Trung-Trực Rạch -Giá, Kiên-Giang. Khi
đến Pháp ông tiếp tục ghi danh vừa
học, vừa đi làm để trau giồi
kiến thức và nghề nghiệp. Thế
rồi, ước nguyện đã thành tựu
toại ý, không khác loài sâu hóa bướm và
trở thành nhà toán học. Ngoài ra, ông còn sưu
tầm, nghiên cứu tài liệu để rút
tỉa những kinh nghiệm sống thực và
viết lên những tác phẩm về văn-hóa và
nghề-nghiệp rất có giá trị, được
các nhà khoa bảng Việt Pháp viết lời khen
ngợi. Đặc biệt, ông còn viết cho các
tạp chí ở Âu Châu, Mỹ Châu và Úc Châu, để
có cơ hội gần gũi với bà con đồng
hương. Giáo sư Nguyễn-Phú-Thứ, vốn
là một nhà mô phạm, nhà toán học, tin học
và cũng là nhà văn nữa, đã được
Gs thạc sĩ Vũ-Quốc-Thúc xem như người
bạn trẻ quý mến trong ngành giáo dục, khi
giới thiệu tác phẩm 4000 Từ Ngữ
Thực Hành - Tìm Hiểu Tử Vi Đẩu Số
Và Địa Lý gồm quyển thượng và
quyển hạ trên 1100 trang.
(Trích dẫn tác-phẩm “Tìm Hiểu Lăng
Mộ, Đình Và Trường Học Có Tên Các
Danh Nhân Việt-Nam Trong Hậu Bán Thế Kỷ
XIX” của GS Nguyễn-Phú-Thứ sẽ ra mắt
năm 2002)
Trong dân-gian chúng ta thường được
truyền-tụng với câu: “Trâu chết để
da, người chết để tiếng” cho nên
để ghi lại những tiếng thơm cho
hậu-thế noi gương, những bậc
trí-thức ngày xưa không những có tài về văn-chương
thi phú hoặc võ-nghệ anh hùng chống ngoại
xâm mà còn có đức-tánh đáng kính-phục,
lúc nào cũng đem khả-năng có được
để phụng-sự cho đất nước
và dân-tộc Việt-Nam. Đó là, các danh nhân như:
Lê-Văn-Duyệt, Nguyễn-Đình-Chiểu,
Thủ-Khoa-Nghĩa, Nguyễn-Trung-Trực,
Thoại-Ngọc Hầu v.v... Để ghi lại
công ơn các danh nhân đó, người hậu
thế thường lập các lăng mộ, đình
để cúng kiếng hoặc đặt các tên
đường, các tên cầu và nhứt là các
tên trường trung học: Lê-Văn-Duyệt,
Nguyễn-Đình-Chiểu, Thủ-Khoa-Nghĩa,
Thủ-Khoa-Huân, Thoại-Ngọc-Hầu,
Nguyễn-Trung-Trực, Phan-Thanh-Giản v.v.
Nếu chúng ta bắt đầu từ Gia-Định
để đi về Miền Tây Nam Phần, thì
sẽ thấy tên các danh nhân xin trích dẫn như
sau:
1.- Ông Lê-Văn-Duyệt (Gia-Định):
Lăng Lê-Văn-Duyệt ngày nay thuộc xã
Bình-Hòa nằm ở bên chợ Bà Chiểu (Gia-Định),
nơi đây lăng và miếu thờ Ông Tả
Quân Công Lê-Văn-Duyệt, được dân chúng
trịnh trọng gọi chung là Lăng Ông. Nếu
du khách đến viếng lăng Ông, sẽ
gặp 2 ngôi mộ của Ông và phu nhân của Ông
trước tiên, kế đến bước vào
chánh điện, thấy chân dung Ông được
đặt giữa chánh điện, mặc áo
cẩm bào, đội mão quan võ ngó thẳng về
phía trước, bên trái thờ Ông Lê-Chất,
Tổng trấn Bắc-Thành, bên mặt thờ Ông
Phan-Thanh-Giản, Quan Kinh Lược Sứ Nam
Kỳ. Phía sau bàn thờ của Ông có một bàn
thờ lớn nữa, để thờ Khâm Sai
Đại Thần Quảng Bình Tây Đại Tướng
Quân, bên trái thờ Nam Kỳ Khai Quốc Công
Thần, bên mặt thờ Quận Công Chi Thần
Vị. Kế đến, còn thấy có tủ
kiến thờ áo mão, hia.v.v... hai bên có tạc hai
con Bạch Mã và Hồng Mã. Kế tiếp, chính
giữa là hòm gỗ sơn son thếp vàng đựng
tờ sắc phong của vua ban và thanh gươm.
Ngoài ra, còn có thờ 18 loại binh khí bằng
đồng bóng loáng như: gươm, phủ,
việt, bát, lọng, dù v.v...
Đặc biệt, trong chánh điện có đôi
liễn như sau :
Nam Triều quảng bá thinh danh, tỉnh biên tái
kình thiên nhất trụ,
Bắc chấn trường lưu nghĩa khí,
diệu tinh linh hộ quốc thiên thu.
xin tạm dịch là:
Tiếng tăm xa khắp Nam triều, yên bờ cõi
chống trời một cột,
Miền Bắc nghe danh nghĩa khí, rỡ ràng thiêng
liêng giúp nước ngàn thu.
Đây là, đôi liễn nói lên công-nghiệp
oai-hùng của Ông sống mãi mãi với đất
nước và dân tộc Việt-Nam. Riêng về thơ
văn để ca-tụng Ông Tả-Quân Lê-Văn-Duyệt
rất nhiều, không thể ghi hết lại
được, nhân đây xin trích-dẫn bài thơ
của Ông Nguyễn-Văn-Cuộc, nguyên giáo - viên
hồi-hưu ở Long-An đã đăng trong
tác-phẩm “Gia-Định Xưa Và Nay” của
Ông Huỳnh-Minh như sau đây :
Bà Chiểu có lăng ngài Tả-Quân,
Một thời oanh liệt tiếng vang lừng,
Phò vua, giúp nước tròn trung nghĩa,
Cứu khổn phò nguy vẹn thủy chung,
Bia tạc ngàn đời trang kiện tướng,
Danh lưu muôn thuở đấng anh hùng.
Hương xông, trầm tỏa, chuông ngân vọng,
Tạo cảnh tôn nghiêm đáng kính sùng.
Để biết thêm, xin trích-dẫn sơ-lược
Tả Quân Quận Công Lê-Văn-Duyệt như sau:
Ông Lê-Văn-Duyệt, sanh năm Giáp-Thân (1764)
tại làng Hòa-Khánh, tỉnh Mỹ-Tho, xưa
gần vàm Trà-Lọt. Nội tổ của ông là
cụ Lê-Văn-Hiếu từ Quảng-Ngãi
(Miền Trung) vào Miền Nam, được truy
phong Quảng Tiến Chiêu Nghị Tướng Quân
Hiếu Thuận Hầu. Sau khi cụ Lê-Văn-Hiếu
qua đời, thân phụ của ông là Lê-Văn-Toại
rời vàm Trà-Lọt đến cư ngụ
tại Rạch-Gầm, gần rạch Ông Hổ nay
thuộc làng Long-Hưng, tỉnh Mỹ-Tho. Lúc
bấy giờ, anh em nhà Tây-Sơn và nhà
Nguyễn-Phúc-Ánh tranh giành nhau, chúa Nguyễn thua
bắt buộc phải chạy vào Miền-Nam. Đến
năm Canh-Tý (1780), ông Lê-Văn-Duyệt được
17 tuổi và được chúa Nguyễn tuyển
vào làm Thái-Giám, ít lâu sau thấy ông có võ giỏi
và có tài trí hơn người trang lứa, nên
được phong làm Cai-Cơ để coi 2 đạo
quân để hầu cận, mãi đến năm
Kỷ-Dậu (1789), ông mới trở thành hàng tướng
lãnh, bởi vì ông đã trải qua những
trận đánh oai hùng và lập nhiều chiến
công lẫy lừng, đặc biệt ở
cửa Thị-Nại trong đêm rằm tháng Giêng
năm Tân-Dậu (1801), ông được ghi công
là võ-công đệ nhứt trong thời trung-hưng
nhà Nguyễn. Tháng 5 năm Nhâm Tuất (1802), chúa
Nguyễn lên ngôi là vua Gia-Long và thăng chức
ông làm Khâm-Sai Chưởng-Tả Quân Bình-Tây Tướng
Quân hiệp cùng Lê-Chất đem bộ binh đánh
Bắc-Hà. Tháng 10 thâu phục Bắc-Hà và đổi
là Bắc-Thành. Năm 1804 ông dẹp yên mọi
Đá-Vách ở Quảng-Ngãi. Đến năm 1812
ông được thăng chức Tổng-Trấn
Gia-Định Thành, coi luôn 2 trấn Bình-Thuận
và Hà-Tiên lúc bấy giờ, phụ tá gồm có
các ông: Long-Vân Hầu Trương-Tấn-Bửu
và Tịnh-Viễn Hầu Ngô-Nhân-Tịnh. Kể
từ khi nhậm chức Tổng-Trấn Gia-Định
Thành các nước lân bang như: Miên, Lào, Thái
v.v... đều nể phục như cọp ở
Đồng-Nai. Có một giai-thoại về tài-trí
của ông được truyền-thuyết như
sau: Nhân dịp vua Cao-Miên tức Chân-Lạp ngày xưa
sang dâng phẩm-vật triều cống hằng năm,
trong buổi tiếp đón, có những trò biểu
diễn võ thuật góp vui, ông mật sai người
con nuôi của ông là Lê-Văn-Khôi rất khỏe
mạnh lại võ giỏi, ăn mặc như
một binh-sĩ thường ra đánh cọp cho
phái đoàn Cao-Miên xem. Sau một hồi biểu
diễn, ông Lê-Văn-Khôi đã đánh chết
cọp, ông bèn thét mắng và ra lịnh đem chém
ông Lê-Văn-Khôi, vì cho rằng cuộc chơi sao
lại giết cọp. Vua Cao-Miên tiếc một
nhân tài giỏi, nên xin nhiều lần ông mới
chịu tha và ông nói rằng: Ở nước tôi
hạng võ sanh như thế này nhiều vô số
kể, tiếc gì một người. Từ đó,
nước Cao-Miên càng sợ nhiều hơn và
tiếng đồn truyền sang các lân quốc. Sau
3 năm làm Tổng-Trấn Gia-Định Thành, vì
tình hình đất nước, tháng 6 năm
Ất-Hợi (1815) ông được triệu
hồi về triều hết 5 năm và đến
năm 1820, ông lại được trở lại
làm Tổng-Trấn Gia-Định Thành thêm 12 năm
nữa và ông mất tại Gia-Định Thành vào
ngày 30 tháng 7 năm Nhâm Thìn, nhằm ngày 25-8-1832, hưởng
thọ 69 tuổi.
Theo những vị cao niên nói rằng: ngôi mộ
tại Lăng Ông là ngôi mộ hình ông bằng
sáp, còn hình hài cốt thật thì đem về an
táng tại nơi quê cha đất cũ của
ông ở làng Long - Hưng thuộc Mỹ -Tho. Sau khi
mất được vài năm, người con
nuôi là ông Lê-Văn-Khôi nổi lên chống
triều đình Huế, bởi vì ông
Tổng-Trấn Gia-Đình Thành mới là Ông
Nguyễn-Văn-Quế và Ông Bố-Chánh
Bạch-Xuân-Nguyên là những người tham-lam
tàn-ác và biết vua Minh-Mạng không ưa người
cha nuôi là ông Lê-Văn-Duyệt, nên mới lập
công tìm cớ để khép tội lạm
quyền và công quỹ lúc còn tại chức, đồng
thời bắt giam những người thủ
hạ trước kia của ông Lê-Văn-Duyệt
cùng ông Lê-Văn-Khôi vào ngục thất. Ông Lê-Văn-Khôi
cùng đồng bọn kết hợp với
một số binh-sĩ để âm-mưu khởi
loạn vào đêm 18 tháng 5 năm Quý-Tỵ (1833),
giết được Ông Nguyễn-Văn-Quế
và Ông Bạch-Xuân-Nguyên cùng chiếm thành để
chống lại triều-đình Huế trên 2 năm,
thì bị quân triều đình Huế chiếm
thành, bắt giết tất cả 1831 người
chôn tập thể một mả, gọi là mả
ngụy, bởi vì lương thực và quân trang,
quân dụng đã cạn. Vì việc này, Ông
Tả-Quân Lê-Văn-Duyệt, cựu
Tổng-Trấn Gia-Đình Thành bị tội lây,
vua Minh-Mạng (1820-1840) tức hoàng-tử
Nguyễn-Phúc-Đảm con thứ ba lên ngôi) ra
lệnh san bằng, xiềng-xích phần mộ.
Mãi đến đời vua Tự-Đức
(1847-1883) tức hoàng thái-tử Hồng-Nhậm con
thứ hai vua Thiệu-Trị lên ngôi) mới
được cứu-xét và truy-phong công-trạng
của ông và ngày nay nơi Lăng Ông ở kế
bên chợ Bà Chiểu khói hương nghi ngút,
khách thập phương đến chiêm bái
suốt ngày, đặc-biệt những ngày
húy-kỵ hoặc những ngày mừng xuân đón
Tết hằng năm, dân chúng đến để
cúng kiếng và xin xăm rất tấp-nập
đông-đảo khói nhang bay ngộp cả
bầu trời. Ngoài ra, lấy tên Ông để
đặt tên Trường-Học hay tên cầu
đường để tưởng nhớ
một danh nhân Việt-Nam.
Trường hợp Tả-Quân Lê-Văn-Duyệt
giống như ông Nguyễn-Trãi, bị cái oan án
được tóm lược như sau: Năm Nhâm
Tuất (1442), vua Lê Thái Tôn (con vua Lê Lợi), đi
tuần du phương đông, duyệt võ ở
Chí Linh. Ông Nguyễn-Trãi, lúc bấy giờ đã
về hưu tại Côn Sơn, bèn ra nghinh tiếp
nhà vua. Vua Lê Thái Tôn thấy Bà Nguyễn Thị
Lộ là thiếp của Ông Nguyễn Trãi, có nhan
sắc lộng lẫy, lại có tài văn chương,
bèn phong chức Lễ Nghi Học Sĩ, để
rồi ngày đêm phải chầu hầu nhà vua.
Đến khi đông tuần, xa giá về tới
trại vải Lệ Chi Viên, thuộc xã Đại
Lại, huyện Gia Định, nay là Gia Bình, thình
lình nhà vua nhuốm bịnh, lên cơn sốt
dữ dội. Bà Thị Lộ hầu hạ
thuốc thang suốt đêm, đến sáng, vua băng
hà. Các quan hoảng hốt, vội vã đưa
về kinh. Nửa đêm, về cung mới làm
lễ phát tang. Triều thần buộc tội Bà
Thị Lộ âm mưu giết nhà vua, đem Bà
Thị Lộ thả trôi sông. Thảm trạng này
xảy ra đúng lúc trong võ quan theo phe Lê Sát, sinh
lòng đố kỵ, vì thấy ngày trước
ông Nguyễn Trãi được vua Lê Thái Tổ
trọng dụng, nhân cơ hội này, cáo buộc
ông Nguyễn Trãi chủ mưu giết vua. Thế
rồi, các quan Thừa Chỉ Nhập Nội Hành
Khiển xử đại thần Nguyễn Trãi
với án tru di tam tộc, giống như một
giọt máu rắn trước kia bị thấm ba
trang sách vậy. Mãi đến 22 năm sau ông
Nguyễn-Trãi mới được vua Lê-Thánh-Tôn
xét lại. Vua thấy có nhiều mơ hồ, oan
ức cho một vị khai quốc công thần,
liền truyền lịnh hủy bỏ bản án trước
kia, truy phục chức cho ông Nguyễn-Trãi, tìm
kiếm con cháu ông Nguyễn-Trãi cho làm quan và
cấp tư điền để lo việc tế
tự.
Nhân nói về ông Nguyễn-Trãi, xin trích dẫn sơ
lược tiểu-sử như sau: Ông
Nguyễn-Trãi, sanh năm (1380) Canh Thân, con Ông
Nguyễn-Long theo nghiệp bút nghiên, đã đậu
tiến-sĩ năm 1374 dưới triều vua
Trần-Duệ-Tôn, nhưng không được
bổ-dụng, vì tội có vợ là Bà
Trần-Thị-Thái là người hoàng-tộc, con
gái của quan Chung-Túc Quốc-Thượng Hầu
Trần-Nguyên-Đán, ông này là cháu bốn đời
của Ông Trần-Quang-Khải, mãi đến năm
1402 ông được Hồ-Quí-Ly bổ-dụng
làm Hàn-Lâm-Học Sĩ và đổi tên là
Nguyễn-Phi-Khanh. Sau khi nhà Minh chiếm nước
Nam, Ông Nguyễn-Phi-Khanh bi bắt đưa về
Kim-Lăng bên Tàu năm 1407. Riêng ông Nguyễn-Trãi
người thông-minh, học-hành giỏi, năm 21
tuổi nhằm năm 1400 Canh Thìn, ông thi đậu
Thái-Học-Sanh và được bổ làm
Ngự-Sử, nghe tin ông Nguyễn-Phi-Khanh bị
đưa sang Tàu, ông Nguyễn-Trãi cùng em là
Nguyễn-Phi-Hùng (người em cùng cha khác mẹ)
theo cha để phụng-dưỡng, khi tới
biên-giới, ông Nguyễn-Phi-Khanh bảo ông
Nguyễn-Trãi trở về để: “Chống
giặc cứu nước và trả thù mới là
đại hiếu” đểmột mình
Nguyễn-Phi-Hùng đi theo cũng đủ. Để
rồi, mãi đến năm 1420 Canh Tý, ông
Nguyễn-Trãi mới được yết kiến
Lê-Lợi tại Lợi-Giang (thuộc
Cẩm-Thủy, Thanh-Hóa ngày nay) và dâng: “Bình Ngô
Sách” là một kế hoạch nhấn mạnh và
đặt hàng đầu phép chiếm lấy lòng
người và đánh vào tinh thần của địch,
nghĩa là đặt yếu tố nhân hòa trên
thiên thời và địa lợi, được
ông Lê-Lợi tán thành. Từ đó ông
Nguyễn-Trãi theo Lê-Lợi chống quân Minh đến
khi toàn thắng, quân Minh phải xin hòa, rút quân
về nước, nước Nam thoát khỏi
cảnh ngoại xâm. Ông Nguyễn-Trãi đã nghe
lời cha để cứu nước và báo thù
cho cha và được vua Lê-Thái-Tổ tức
Lê-Lợi gia phong chức tước Quan Phục
Hầu, ban cho Quốc-Tính (tức là họ nhà vua)
và chức Nhập Nội Hành Khiển là chức
đứng đầu các quan văn...
Mùa Đông Năm 2001 Pháp Quốc
|