|
Lê Văn Hưu (1230 - 1322)
Lê Văn Hưu người
làng Phủ Lý, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh
Hóa (nay thuộc xã Triệu Trung, huyện Thiệu Hóa,
tỉnh Thanh Hóa).
Theo lời các cố lão địa phương thì
đất Triệu Trung vốn là trang trại
của vị tổ khai sáng dòng họ Lê - quan
Trấn quốc bộc xạ Lê Lương
thời Đinh Tiên Hoàng, đến nay đã
được hơn hai mươi đời. Lê Văn
Hưu là ông tổ thứ bảy của dòng
họ này. Cuốn Lê thị gia phả hiện còn
được bảo tồn, ghi ông sinh năm Canh
Dần (1230) là người khôi ngô tuấn tú, tư
chất thông minh.
Một hôm đi ngang qua lò rèn, thấy người
ta đang làm những cái dùi sắt, Lê Văn Hưu
muốn xin một cái để làm dùi đóng sách.
Bác thợ rèn thấy chú bé mới tí tuổi
đầu đã chăm lo việc học hành, bèn
ra một vế đối để thử tài:
- Than trong lò, sắt trong lò, lửa trong lò, thổi
phì phò đúc nên dùi vở.
Lê Văn Hưu liền đối:
- Nghiên ở túi, bút ở túi, giấy ở túi,
viết lúi húi mà đậu khôi nguyên.
Bác thợ rèn ngạc nhiên khen ngợi mãi rồi
tặng luôn một cái dùi thật xinh, lại kèm
theo ít tiền để mua giấy bút.
Năm Đinh Mùi, Lê Văn Hưu đi thi, đỗ
Bảng Nhãn. Đây là khoa thi đầu tiên ở
Việt Nam có đặt danh hiệu tam khôi (ba người
đỗ đầu: Trạng Nguyên, Bảng Nhãn,
Thám Hoa). Năm ấy, ông vừa tròn 18 tuổi.
Sau khi thi đỗ, ông được giữ
chức Kiểm pháp quan (chức quan trông coi
việc hình luật), rồi Binh bộ Thượng
thư, rồi Hàn lâm viện học sĩ kiêm
Quốc sử Viện giám tu. Ông cũng là thầy
học của thượng tướng Trần
Quang Khải, một trong những danh tướng
của cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông.
Trong thời gian làm việc ở Quốc sử
Viện, vào năm 1272, ông đã hoàn thành việc
biên soạn Đại Việt sử ký - bộ
quốc sử đầu tiên của Việt Nam, ghi
lại những sự việc quan trọng chủ
yếu trong một thời gian lịch sử dài
gần 15 thế kỷ, từ Triệu Vũ đế
(tức Triệu Đà 207 - 136 trước Công nguyên)
(*) cho tới Lý Chiêu Hoàng (1224 - 1225), tất cả
gồm 30 quyển, được Trần Thánh Tông
xuống chiếu ban khen.
Đại Việt sử ký nay không còn, nhưng
vẫn có thể thấy được thấp thoáng
bóng dáng bộ quốc sử đầu tiên này
trong Đại Việt sử ký toàn thư. Ngô Sĩ
Liên, sử thần đời Lê, người
khởi đầu việc biên soạn Đại
Việt sử ký toàn thư, đã căn cứ vào
Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu,
tiếp đó là Đại Việt sử ký
tục biên của Phan Phu Tiên để biên
soạn những phần liên quan. Trong bài tựa
Đại Việt sử ký ngoại kỷ toàn thư,
Ngô Sĩ Liên viết: "Văn Hưu là người
chép sử giỏi đời Trần, Phu Tiên là
bậc cổ lão của thánh triều ta, đều
vâng chiếu biên soạn lịch sử nước
nhà, tìm khắp các tài liệu còn sót lại,
tập hợp thành sách để cho người
xem đời sau không có gì phải tiếc nữa,
thế là được rồi". Tiếp đó,
Ngô Sĩ Liên nói rõ, ông đã đem "hai bộ
sách của tiên hiền" (tức là Đại
Việt sử ký tục biên của Phan Phu Tiên) ra
"hiệu chỉnh, biên soạn lại, thêm vào
một quyển Ngoại kỷ, thành một số
quyển, gọi là Đại Việt sử ký toàn
thư". Như vậy, khó có thể phân định
được đích xác đâu là nguyên văn
Đại Việt sử ký trong bộ quốc
sử lớn đời Lê này. Tuy vậy, rất
may là trong Đại Việt sử ký toàn thư
hiện đang lưu hành vẫn còn có 29 đoạn
ghi rõ là lời văn của Lê Văn Hưu
với mấy chữ " Lê Văn Hưu viết
". Qua nhưng trích đoạn đó, có thể
thấy được phần nào khuynh hướng
cũng như sắc thái ngọn bút chép sử
của ông. Trân trọng công lao đánh giặc
giữ nước của Tổ tiên, ông đã
nhận định về cuộc khởi nghĩa
của Hai Bà Trưng với những lời lẽ
rất mực hào hùng: " Trưng Trắc Trưng
Nhị... hô một tiếng mà các quận Cửu
Châu, Nhật Nam, Hợp Phố cùng sáu mươi
nhăm thành ở Lĩnh Ngoại đều hưởng
ứng, việc dựng nước xưng vương
dễ như trở bàn tay...". Đoạn ông ca
tụng Ngô Quyền cũng thấm đượm
lòng tự hào sâu sắc trước thắng
lợi huy hoàng của dân tộc: " Tiền Ngô
Vương có thể lấy quân mới họp
của nước Việt ta mà đánh tan
được trăm vạn quân của Lưu
Hoằng Tháo, mở nước xưng vương,
làm cho người phương Bắc không dám sang
nữa. Có thể nói là một lần nổi
giận mà yên được dân, mưu giỏi mà
đánh cũng giỏi vậy... ". Quan tâm sâu
sắc đến cuộc sống của nhân dân,
ông cũng đã nghiêm khắc phê phán những hành
vi bạo ngược, trái đạo lý của vua
chúa, như đoạn nhận xét về cấm
lệnh " không cho con gái nhà quan lấy chồng
trước khi dự tuyển vào hậu cung"
của Lý Thần Tông (1128 - 1137), chẳng hạn:
"Trời sinh ra dân mà đặt vua để chăn
dắt, không phải để cung phụng riêng cho
vua. Lòng cha mẹ ai chẳng muốn con cái có gia
thất; thánh nhân thể lòng ấy còn sợ
kẻ sát phu sát phụ không được có nơi
có chốn... Thần Tông xuống chiếu cho con gái
các quan phải đợi xong việc tuyển người
vào cung rồi mới được lấy
chồng, thế là để cung phụng riêng cho mình,
đâu phải là tấm lòng của người làm
cha mẹ dân!".
Lê Văn Hưu mất ngày 23 tháng Ba năm Nhâm
Tuất (1322), táng ở cánh đồng xứ
Mả Giòm (thuộc địa phận xã Thiệu
Trung, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa).
Hiện nay ở đó vẫn còn phần mộ
với tấm bia dựng năm Tự Đức
thứ 20 (1867), khắc ghi tiểu sử và một
bài minh ca tụng tài đức, sự nghiệp
của ông.
Giáo sư Đặng Đức Siêu
--------------------------------------------------------------------------------
* Khoảng trước năm 179 trước Công
Nguyên, Triệu Đà xâm lược nước Âu
Lạc của dân tộc Việt rồi sáp
nhập vào nước Nam Việt. Lê Văn Hưu,
sau đó là các nhà sử học Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ
Liên đều cho rằng Triệu Đà là vua nước
Việt, xếp "kỷ nhà Triệu" như
một triều đại chính thống trong
lịch sử Đại Việt. Đây là một
sự nhầm lẫn. Đến thế kỷ 18,
Ngô Thì Sỹ (1726-1780) trong cuốn "Việt
sử tiêu án" mới bác bỏ sai lầm này,
khẳng định Triệu Đà "thực chưa
từng làm vua nước ta" vì "nước
Việt ở miền Nam Hải, Quế Lâm" không
ở vị trí nước Việt Nam ngày nay
|