|
Trần quang Khải (1240 - 1294)
Trần Quang Khải sinh năm 1240, mất năm
1294, là con trai thứ ba của vua Trần Thái Tông.
Dưới triều Trần Thánh Tông (1258 - 1278).
Trần Quang Khải được phong tước
Chiêu minh đại vương. Năm 1274, ông
được giao giữ chức Tướng
quốc Thái úy. Năm 1282, dưới triều
Trần Nhân Tông, Trần Quang Khải được
cử làm Thượng tướng Thái sư,
nắm giữ quyền nội chính. Trong cuộc kháng
chiến chống quân Nguyên lần thứ hai (1285) và
thứ ba (1288), Trần Quang Khải là vị tướng
chủ chốt thứ hai, sau Trần Quốc
Tuấn, có nhiều công lao lớn trên chiến trường.
Trong sự nghiệp quân sự của Thượng
tướng Trần Quang Khải, thì trận ông
chỉ huy đánh tan quân Nguyên ở Chương Dương
và Thăng Long, khôi phục kinh thành vào cuối tháng
5-1285 "là chiến công to nhất lúc bấy
giờ", như sử sách từng ca ngợi.
Trần Quang Khải còn là một nhà ngoại giao
giỏi. Năm 1281, khi nhà Nguyên chuẩn bị xâm
lược Việt Nam lần thứ hai, chúng cho Sài
Thung đem 1.000 quân đưa bọn Trần Dĩ
ái về nước. Khi tới biên giới, quân
Nguyên bị nhà Trần phục đánh. Trần Dĩ
ái bỏ chạy. Sài Thung được "rước"
về Thăng Long để dùng vào kế hoãn binh
để có thêm thời gian chuẩn bị đối
phó với giặc. Lúc Sài Thung về Trung Quốc,
Trần Quang Khải làm bài thơ tiễn tặng
rất thân, nhã, đoạn kết có câu viết:
Vị thẩm hà thời trùng đỗ diện,
Ân cần ác thủ tự huyên lương.
(Chưa biết ngày nào lại cùng gặp mặt,
Để ân cần nắm tay nhau hàn huyên).
Đối với viên sứ giả hống hách
của một nước sắp tràn quân sang xâm lược,
thái độ Trần Quang Khải vẫn ung dung,
niềm nở như vậy, đó cũng thể
hiện một nghệ thuật ngoại giao khôn khéo
của ông và con người Việt Nam thời
ấy.
Trong văn học sử Việt Nam, Trần Quang
Khải là một nhà thơ có vị trí không
nhỏ. Thơ ông sáng tác có tập Lạc đạo,
nay đã thất truyền, chỉ còn lưu
được một số bài. Là một vị tướng
cầm quân xông pha khắp trận mạc đánh
giặc, song thơ ông lại "thanh thoát, nhàn nhã",
"sâu xa, lý thú" (Phan Huy Chú). ấy cũng là
cốt cách phong thái của các vua Trần, của
người Việt Nam ngàn đời nay. Hãy đọc
bản dịch bài thơ Vườn Phúc Hưng
của Trần Quang Khải để thấy rõ hơn
tâm hồn ông:
Phúc Hưng một khoảnh nước bao quanh,
Vài mẫu vườn quê đất rộng thênh.
Hết tuyết chòm mai hoa trắng xóa,
Quang mây đỉnh trúc sắc tươi xanh.
Nắng lên mời khách pha trà nhấp,
Mưa lạnh sai đồng dỡ thuốc nhanh,
Báo giặc ải Nam không khói lửa,
Bên giường một giấc ngủ êm lành.
(Theo Hoàng Việt thi văn tuyển).
Tâm hồn Trần Quang Khải vừa thoáng đạt,
vừa gần gũi, gắn bó với cuộc
sống bình dị của đất nước và
con người:
Nhất thanh ngưu địch thanh lâu nguyệt,
Kỷ phiến nông soa bích lũng vân.
(Tiếng sáo mục đồng dưới ánh trăng
bên lầu xanh, Mấy chiếc áo tơi dưới
mây trên ruộng biếc)
(Chùa Dã Thự).
Cuộc đời Trần Quang Khải là một
cuộc đời sung mãn, khí phách dọc ngang. Vào
tuổi 50, Trần Quang Khải vẫn còn viết
những câu thơ đầy khát vọng anh hùng:
Linh bình đởm khí luân khuân tại,
Giải đảo đông phong phú nhất thi.
(Chí khí dũng cảm lúc còn trẻ vẫn ngang tàng,
hăng hái. Muốn quật ngã ngọn gió đông,
ngâm vang một bài thơ).
Ngoài bài Tụng giá hoàn kinh sứ, Lưu Gia độ
(Bến đò Lưu Gia) cũng là một bài thơ
nổi tiếng của Trần Quang Khải, có
thể xếp vào trong số những bài thơ hay
của thơ cổ Việt Nam.
Lưu Gia độ khẩu thụ tham thiên,
Hỗ tụng đông hành tích bạc thuyền.
Cựu tháp giang đình lưu thủy thượng,
Hoang tử cổ trùng thạch lân tiền.
Thái bình đồ chí kỷ thiên lý,
Lý đại quan hà nhị bách niên.
Thi khách trùng lai đầu phát bạch,
Mai hoa như tuyết chiếu tình xuyên.
(Bến đò Lưu Gia cây cao ngất trời,
Xưa phò giá sang đông từng đỗ
thuyền nơi đây.
Tháp cũ, đình xưa dựng trên sông thu,
Đền hoang, mộ cổ trước mấy con
lân đá.
Bản đồ thái bình ghi mấy ngàn dặm,
Non sông nhà Lý trải hai trăm năm.
Khách thơ nay trở lại đầu đã
bạc,
Hoa mai như tuyết chiếu xuống sông trong).
Những vần thơ Trần Quang Khải để
lại là những ánh hào quang, ghi dấu ấn
của một sự nghiệp lớn trong cuộc
đời vị Thượng tướng nhà
Trần - vừa làm thơ, vừa đánh giặc
|