Bác Nguyễn Mạnh Tường là bạn của bố tôi (GS. Nguyễn
Lân) và bố vợ tôi (GS. Nguyễn Văn Huyên). Tôi được gặp bác nhiều lần
và được bác dành nhiều thời gian kể cho chúng tôi nghe về tình bạn với
bố vợ tôi khi hai người cùng du học tại Pháp, và bác còn kể sự khâm
phục của bác đối với Hồ Chủ tịch. Bác nói (có ghi âm): Ông Vũ Đình
Huỳnh có bảo tôi biết là Hồ Chủ tịch muốn gặp riêng. Tôi hỏi ông Huỳnh
tôi có thằng bé con nó muốn được gặp Hồ Chủ tịch. Ông Huỳnh bảo :
« Được thôi, anh cứ cho cháu đi ». Tôi và cháu Hưng cùng đi đến gặp Hồ
Chủ tịch. Cụ Hồ ẵm cháu Hưng, để ngồi trên lòng và cho nó một ngôi sao
vàng. Lúc đó cụ gọi tôi bằng « Ngài ». Cụ bảo : «Bây giờ chúng ta
phải ký hiệp định, nhờ ngài nghiên cứu hộ lập trường để Chính phủ bênh
vực khi đi dự Hội nghị Đà Lạt ». Tôi thưa với Cụ ở trong nước nhiều
người có đủ khả năng làm việc này hơn tôi. Không phải vì khiêm tốn
nhưng tôi thấy việc đó quá sức mình. Cụ bảo « Không, thưa Ngài, chúng
tôi đã thăm dò ý kiến của nhiều anh em. Anh em đều tán thành cái này
thì phải nhờ luật sư Nguyễn Mạnh Tường».Tôi gặp anh Huyên nói chuyện,
anh bảo : «Bây giờ thì cố gắng mà làm ». Tôi đình chỉ hết công việc ở
Văn phòng luật sư lại trong vòng hai tháng để nghiên cứu Đề án tham dự
Hội nghị Đà Lạt. Sau khi xong, lúc trình lên, Cụ Hồ thấy là được. Do
đó mới cử tôi vào trong phái đoàn của Chính phủ đi dự Hội nghị. Còn
anh Huyên về bộ phận văn hóa thì là cố vấn »
Là lớp hậu sinh tôi càng thêm khâm phục bác Tường
qua lời của các trí thức cao niên. Cụ Vũ Đình Hòe kể rằng:
Ông Nguyễn Mạnh Tường là người trí thức cao cấp,
được cấp học bổng của Chính phủ Pháp, học giỏi, đỗ 2 bằng Tiến sĩ Quốc
gia nước Pháp về Văn, về Luật. Trước Cách mạng tháng Tám 1945 và trong
kháng chiến tôi có tiếp xúc với ông rồi cũng có gặp nhau ở Mặt trận Tổ
quốc. Đi theo kháng chiến cũng rất vất vả và ông Nguyễn Mạnh Tường làm
được việc quý hóa đó là luật sư tích cực đi cãi cho người nghèo. Ở Tòa
án, các vụ hình sự thường có luật sư giúp đỡ. Cãi trước tòa án quân
sự, thứ nhất là những vụ về chính trị, thứ hai là những vụ phá rối là
điều bắt buộc. Người Pháp thì vẫn cứ muốn lôi kéo ông Nguyễn Mạnh
Tường về thành. Kéo không được thì họ làm trở ngại công việc của ông...
Nhà Cách mạng lão thành Phí Văn Bái- người đã tham
gia cách mạng từ năm1936, đã từng nuôi giấu đồng chí Hoàng Văn Thụ, đã
kết nạp Đảng đồng chí Lê Trọng Tấn - khi kể về việc đi vận động bác
Tường tham gia kháng chiến đã nhận xét:
Luật sư Nguyễn Mạnh Tường hăng hái nhiệt tình tham gia vào kháng
chiến. Ông xuống với quần chúng nhân dân. Ông đi khắp miền Bắc miền
Trung làm nhiệm vụ bào chữa theo sự phân công của cấp trên, đồng thời
còn tham gia giảng dạy ở trường Dự bị Đại học. Ông được cử tham gia
các Hội nghị Quốc tế để bảo vệ tính chất chính nghĩa của cuộc đấu
tranh vũ trang của nhân dân ta chống thực dân Pháp, tranh thủ sự đồng
tình ủng hộ của nhân dân thế giới trong đó có giới trí thức Pháp nhằm
sớm chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam.
GS Trần Văn Giàu và LS Nguyễn Mạnh Tường vốn là
đồng nghiệp trong giáo giới cách mạng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ
trước. Cụ thể, vào năm 1952 khi trường Dự bị Đại học được mở
tại Liên khu IV, GS Trần Văn Giàu làm Bí thư Đảng ủy nhà trường, phụ
trách cơ sở tại huyện Thiệu Hóa – tỉnh Thanh Hóa (GS Đặng Thai Mai làm
Giám đốc nhà trường, phụ trách cơ sở tại huyện Thanh Chương – tỉnh
Nghệ An), còn GS Nguyễn Mạnh Tường tham gia giảng dạy Văn học phương
Tây. Kể về quan hệ với GS.Trần Văn Giàu , bác Tường gái (Tống Lệ Dung)
nói: “Nhà tôi với bác Trần Văn Giàu cũng là chỗ quen thân đấy. Hồi
dạy Đại học, bác Trần Văn Giàu dạy về Lịch sử, dạy về Triết học. Bác
ấy đọc nhiều sách, lại giỏi ăn nói, nói chuyện rất là mạch lạc”.
Tháng 8 vừa qua
GS Trần Văn Giàu đã gặp nhà báo Kiều Mai Sơn và gửi tặng bác Tường gái
cuốn sách mới nhất của GS “Vĩ đại một con người” tài
liệu phục vụ cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh”, do nhà xuất bản Chính trị Quốc gia xuất bản năm
2008, với những dòng chữ run run mà vẫn còn ấm tình nặng nghĩa:
“Thân tặng gia đình Nguyễn Mạnh Tường – Giàu”. Trước khi chia tay
GS Giàu dặn dò: “Lúc về Hà Nội nhớ cho tôi thăm gia đình ông Nguyễn
Mạnh Tường”.
GS. Nguyễn Văn Hoàn đã có dịp gặp gỡ với bác Tường
và được bác Tường kể lại như sau: “Tôi sinh năm 1909, năm 1927 sang
Pháp. Bạn bè khuyên tôi đừng lên Paris, lạnh quá, ở Montpellier, một
năm có 300 ngày nắng, hợp với ta hơn. Sau hai năm tôi đỗ Cử nhân Văn
khoa, với 4 chứng chỉ: Văn học Pháp, Văn học Hy Lạp, Văn học La Mã,
Ngữ Pháp.

Luật sư Nguyễn Mạnh Tường thời trẻ.
Năm 1930, tôi đỗ Cử nhân Luật. Sau đó xin thi
Thạc sĩ. Đây là một kỳ thi tuyển, nếu đậu sẽ được bổ làm giáo sư trung
học, nhưng họ không cho vì tôi không có quốc tịch Pháp. Các giáo sư
bảo, vậy thì học lên để thi Tiến sĩ. Thời đó, Tiến sĩ Pháp có hai
loại: Tiến sĩ đại học và Tiến sĩ quốc gia. Tiến sĩ Đại học chỉ là một
danh nghĩa, chứ chưa đem lại cho mình quyền lợi gì cụ thể. Tiến sĩ
quốc gia thì khó lắm, trước hết phải có bằng chuyên sâu cao đẳng, như
Phó Tiến sĩ Liên Xô, sau đó phải trình hai luận án, một chính, một
phụ, lại phải thi vấn đáp hai ngoại ngữ Anh và Đức.Năm 1932, tôi thi
đậu Tiến sĩ Luật, một tháng sau thi đậu Tiến sĩ Văn, đều ở Đại học
Montpellier, 22 tuổi rưỡi tôi đậu hai bằng Tiến sĩ là như vậy.Về nước
có hai viên mật thám, trong đó có Louis Marty, gặp và gợi ý tôi vào
làm việc với Bảo Đại, cấp bậc Thượng thư. Tôi từ chối, sau đó họ gây
khó khăn, ở nhà ba tháng, tôi trở lại Pháp. Năm năm trời đi du lịch và
nghiên cứu các nước châu Âu: Tây Ban Nha, Ý Đại Lợi, Hy Lạp, Thổ Nhĩ
Kỳ, Ai Cập… Trong thời gian này tôi viết bốn cuốn sách bằng tiếng
Pháp:1. Nền tảng Pháp;2. Kinh nghiệm Địa Trung Hải;3. Kinh nghiệm và
nước mắt tuổi trẻ; 4. Du lịch và cảm xúc (Kịch).Dụng ý của tôi là cung
cấp cho công trường Việt Nam và châu Á những nguyên vật liệu xây dựng
của văn minh châu Âu.Sau 5 năm đi du lịch, năm 1936 tôi về nước được
vào dạy ở Trường Bảo Hộ (Trường Bưởi). Nhà ở số 1 Mai Xuân Thưởng,
trông ra Hồ Tây, chỉ cách trường 200 mét. Đây là quãng một thời gian
hạnh phúc của đời tôi. Đồng nghiệp thì có Hoàng Xuân Hãn dạy Toán,
Nguyễn Văn Huyên dạy Sử, Kontum dạy Vật lý. Các học trò xuất sắc, tôi
còn nhớ có Lê Kim Chung sau làm ngoại giao, Lê Khắc làm ngoại thương,
Nguyễn Sĩ Quốc, Tiến sĩ về Y khoa.Năm 1940, Pháp thua trận, Nhật đưa
quân vào Đông Dương, lập ra một Hội đồng, do Phạm Lê Bổng đứng đầu,
vận động nông dân bán lúa, gạo cho Nhật. Họ muốn tôi tham gia nhưng
tôi từ chối. Họ lại gây khó khăn, tôi nộp đơn xin từ chức, ra mở văn
phòng luật sư ở phố Trần Hưng Đạo, đây là nghề tôi đã tập sự bên
Pháp.Tháng 9 năm 1945, Cách mạng thành công. Chỉ hơn một tháng sau khi
đọc bản tuyên bố thành lập nước Việt Nam độc lập ở quảng trường Ba
Đình, cụ Hồ ký sắc lệnh lập thêm Trường Đại học Văn Khoa, bổ sung vào
hệ thống trường đã có, do Pháp lập, ông Đặng Thai Mai làm Giám đốc,
tôi được cử dạy Khoa Văn chương Tây Phương.Năm sau, cụ Hồ lại mời tôi
đến giao cho một nhiệm vụ quan trọng. Người đến mời là Nguyễn Hữu
Đang. Tôi biết Đang từ hồi này.Cụ Hồ nói: Ta sẽ ký với Pháp một tạm
ước, nhưng lại muốn đạt được cao hơn một tạm ước. Sẽ có hội nghị, lúc
đầu ở Việt Nam (Đà Lạt), sau ở Pháp. Nhờ Ngài xây dựng cho lập trường
Việt Nam để đi đấu tranh. Tôi từ chối, nói còn có nhiều người giỏi hơn
tôi. Cụ Hồ khẩn khoản: Tôi đã hỏi nhiều anh em, họ đều bảo chỉ có Ngài
làm được, xin Ngài về suy nghĩ và giúp cho Chính phủ. (Hồi này cụ Hồ
cứ gọi tôi là Ngài!).Đi Đà Lạt là Đoàn Liên hiệp các đảng phái. Trưởng
đoàn là Nguyễn Tường Tam. Phó là Võ Nguyên Giáp và Vũ Hồng Khanh,
nhưng khi họp đoàn ở Bắc Bộ phủ thì không thấy hắn đến. Không thuộc
đảng phái nào thì có Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Văn Huyên và tôi .Lúc tiễn
đoàn lên đường, cụ Hồ nói to: Xin chúc anh em đi thành công, đặc biệt
tôi có lời khuyên: Nội bộ đoàn kết, phải đấu tranh
găng nhưng không được gãy.
Hoàng Xuân Hãn có viết hồi ức về Hội nghị nhưng không nhắc lại chi
tiết quan trọng này, tôi hỏi thì anh bảo quên! Các thành viên của Đoàn
ta đều nói thạo tiếng Pháp nhưng để biểu thị là Đoàn đại biểu của một
nước Việt Nam độc lập, ta chỉ phát biểu ý kiến bằng tiếng Việt. Có một
phiên dịch, nhưng dịch dở quá, Tây không hiểu được, tôi tự động đứng
ra dịch thay. Phía Pháp nghe rất khen ngợi.Kết thúc Hội nghị,
D’Argenlieu có tổ chức tiệc trà tiễn Đoàn. Một sĩ quan hầu cận Pháp
đến nói: Thủy Sư Đô đốc muốn gặp riêng Ngài. Tôi nói: Tôi chưa hân
hạnh được quen biết Ngài Thủy Sư Đô đốc. Có anh em nói: Nó mời thì anh
cứ đi, tôi đi xuyên qua phòng họp, đông khoảng một trăm người, đến gặp
nó, chỉ toàn nói chuyện xã giao vớ vẩn. Thế mà khi về Hà Nội, có dư
luận nói: “Tường là tay trong của
Pháp, Tường phản quốc”. Hãn tức, đến
gặp Võ Nguyên Giáp, dư luận mới được dập tắt.Năm 1946, tôi đang cãi ở
Hải Phòng thì tiếng súng toàn quốc kháng chiến bùng nổ. Tôi phải đi
đường Nam Định để về Hà Nội, rồi tản cư đi Hà Nam, ở Ngô Khê. Nó đánh
Hà Nam, chạy sang Thái Bình, ở Hưng Nhân. Nó đánh Thái Bình, chạy vào
Thanh Hóa. Hồi dạy Dự bị Đại học, tôi ở dốc Đu, Thiệu Hóa, bên cạnh là
nhà Hồ Đắc Liên, gần nhà Nguyễn Khánh Đàm, anh ruột nhà văn Nguyễn
Tuân.Điện Biên Phủ thắng lợi, được về lại Hà Nội. Tôi vinh dự được
tiếp quản trường Đại học Luật và Đại học Sư Phạm. Được cử làm Giám đốc
Đại học Luật, Đại học Sư Phạm thì Đặng Thai Mai làm Giám đốc, tôi làm
phó, cùng với Trần Văn Giàu. Tôi vui sướng được dạy Văn học Pháp.Năm
1952, tôi được cử đi dự Hội nghị bảo vệ Hòa Bình châu Á - Thái Bình
Dương ở Bắc Kinh. Ba tháng sau đi dự Đại hội Hòa Bình Thế giới ở
Vienne. Tại Vienne có cuộc gặp riêng giữa hai đoàn Việt – Pháp. Bên ta
có nữ Anh hùng quân đội Nguyễn Thị Chiên, bên đoàn Pháp có Raymond
Dienne. Xuân Thủy bảo tôi: Anh phải nói vài lời, chứ ngồi nhìn nhau
thế này à!

Đoàn đại biểu Việt Nam đi dự Hội nghị Hòa Bình ở Vienne (1952).
Người đứng giữa ôm cặp tài liệu là Luật sư Nguyễn Mạnh Tường.
Tôi đứng dậy nói: Trong khi máy bay của quân
viễn chinh Pháp quần đảo trên bầu trời đất nước chúng tôi thì đêm
xuống học sinh chúng tôi vẫn học tiếng Pháp, thưởng thức văn chương
của các văn hào Pháp. Đoàn Pháp rất cảm động, họ yêu cầu tôi viết lại
để đăng lên báo Bảo Vệ Hòa Bình.
Sau đó là đến thời Cải cách ruộng đất.Ở Hội nghị
của Mặt trận Tổ Quốc, họp ở Hà Nội ngày 30 tháng 10 năm 1956, sau khi
ông Trường Chinh, thay mặt Đảng Lao động Việt Nam, tự phê bình về các
sai lầm đã phạm trong Cải cách ruộng đất, tôi đọc bản tham luận Qua
những sai lầm trong Cải cách ruộng đất, xây dựng quan điểm lãnh đạo.
Từ góc độ một người hoạt động trong lĩnh vực luật pháp, tôi nói đến
một chế độ pháp trị chân chính, một chế độ dân chủ thực sự.
Đi Hội nghị về, Nguyễn Hữu Đang đến phỏng vấn,
rồi viết bài đăng lên báo Nhân văn. Tôi như thành một người “phạm pháp
quả tang”, bị sa thải khỏi Đại học và không được hành nghề Luật sư
nữa.
Từ 1957 là thời kỳ đen tối của cuộc đời tôi. Tuy
vậy, tôi đã lợi dụng thời gian rảnh rỗi này để viết sách, trong đó có
cuốn Lý luận giáo dục châu Âu từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII, tôi cố ý
viết bằng tiếng Việt để lãnh đạo có thể đọc được.Tôi đánh giá rất cao
nền Văn học châu Âu, từ Văn học Hy Lạp – La Mã đến Văn học Pháp, từ
Montaigne đến Rousseau. Theo tôi, về xây dựng con người ta thiếu cân
bằng giữa trí tuệ và tình cảm, về phương pháp tư duy ta nặng về ý chí
không tưởng mà nhẹ về duy lý và đầu óc phê phán.
Năm 1989, tôi sang Pháp và lưu lại Pháp 4 tháng.
Phóng viên Le Monde đến phỏng vấn. Họ muốn tôi lợi dụng cơ hội này để
trả thù. Tôi lấy ý “cú đá của con lừa” trong thơ ngụ ngôn của La
Fontaine để trả lời, tôi nói: Chỉ có con lừa mới đá con sư tử già,
người tri thức đâu phải là con lừa!Họ lại hỏi: Ở Roumanie, Ceausescu
đã sụp đổ, Việt Nam thì sao?Tôi trả lời: Roumanie là Roumanie, Việt
Nam là Việt Nam. Ceausescu thì so sánh thế nào được với Hồ Chí
Minh. Trên đất nước Việt Nam, Đảng Cộng Sản Việt Nam là mạnh nhất.
Không thể lật đổ Đảng Cộng Sản Việt Nam nhưng nó phải được tổ chức
lại, phải sa thải bọn tham ô. Phải lập lại truyền thống Diên Hồng và
lắng nghe ý kiến của nhân dân.Họ lại hỏi: Thế theo ông, bao giờ thì có
cách mạng dân chủ ở Việt Nam?Tôi đọc câu thơ của Paul Valéry:
Patience, patience,Patience dans l’azur!Chaque atome de silence.Est la
chance d’un fruit mur!(Kiên nhẫn, hãy kiên nhẫn,Kiên nhẫn trong trong
xanh!Mỗi sát-na yên tịnhCơ may một quả lành!-Bác sĩ Trần Ngọc Ninh
dịch)
Ông Phạm Bình, Đại sứ ta ở Pháp hồi đó mời tôi đến thăm Sứ quán,
tôi vừa vào, ông ôm hôn nồng nhiệt. Các vị lãnh đạo ở Hà Nội cũng hài
lòng”.
Có thể coi đây là trích ngang ngắn gọn, thành thực và khá đầy
đủ về bản thân mình của bác Tường.
Tôi tò mò tìm kiếm để đọc lại nguyên văn bài phát biểu Qua
những sai lầm trong Cải cách ruộng đất, xây dựng quan điểm lãnh đạo
của bác Tường tại Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, và thực sự kinh ngạc
về những ý kiến của Bác . Thật là những ý kiến chính xác với tinh thần
xây dựng và yêu nước, cho đến nay vẫn còn có đầy đủ giá trị hiện thực.
Tiếc rằng khi đó chúng ta chưa có thói quen nghe các ý kiến phản biện
của các nhà trí thức.
Chẳng hạn, bác Tường đã
nói : Tôi phấn khởi được nghe bản phê bình của Đảng Lao Động do ông
Trường Chinh đọc trước Hội nghị. Nhưng tôi cũng phải thú rằng lòng
phấn khởi của tôi một phần bị giảm đi, vì tôi nhớ lại kết quả tai hại
của các sai lầm đã phạm trong công cuộc Cải Cách Ruộng Đất.... Quả
thực như ông Trường Chinh đã tuyên bố, uy tín của chính phủ, của Đảng
bị tổn thiệt rất nhiều. Thế tại sao đồng bào chúng ta lại khổ cực?
Phải chăng vì cán bộ của chúng ta non, hẹp hòi, chưa thấm nhuần lý
luận cách mạng, không tôn trọng giá trị của con người, các nhu cầu và
đòi hỏi chính đáng của nó? Phải chăng vì ta đang mắc trầm trọng bệnh
ấu trĩ của cách mạng? Các điều đó là có, ta không hề chối và ta cũng
không thể chối cãi được. Nhưng nhận định như vậy vẫn còn hời hợt. Ta
phải đi sâu hơn nữa. Khi trong Cải Cách Ruộng Đất của ta, ta thấy bao
nhiêu người bị tù tội, bị giết oan, trong đó bao nhiêu người dân ưu tú
đã từng góp phần không nhỏ vào sự nghiệp cách mạng, khi hiện thời ở
nông thôn vẫn có người bị đánh đập, ngược đãi, khi ta không xây dựng
được đoàn kết giữa các đồng bào, thì ta phải nhận định rằng các sai
lầm ta đã mắc trong cuộc Cải Cách Ruộng Đất này chỉ là những biểu hiệu
cực độ của các sai lầm ta đã phạm, và các sai lầm ấy nêu lên, như tôi
trình bày trên đây, một vấn đề cực kỳ quan trọng là vấn đề lãnh đạo...
ông Trường Chinh đã nhận thấy là ở chỗ: ta quên hẳn ta hiện thời nắm
chính quyền và chính quyền ấy, nếu ta biết sử dụng nó, khai thác nó
một cách sáng suốt, nhất định ta vẫn thành công nhưng ta tránh được
bao tai hoạ làm ta đau khổ hiện thời. Con đường ông Trường Chinh đã đi
để tiến tới kết luận ấy là con đường chính trị. Các anh em tôi là
những nhà luật học, chỉ là nhà chuyên môn và lý luận trên cơ sở chuyên
môn thôi, đã trông thấy kết luận ấy ngay từ khi chính sách phát động
và Cải Cách được đề ra. Tại sao? Vì giải pháp chính quyền cụ thể là
giải pháp pháp lý, đảm bảo thắng lợi hoàn toàn của cách mạng nếu ta
biết mang nó ra phục vụ chính trị và cách mạng.
Ta muốn gì? Tìm kẻ thù của nông dân, của cách
mạng để tiêu diệt nó. Nhưng đồng thời nếu ta biết lo xa, nhìn xa, ta
cũng không quên rằng công lý của cách mạng, muốn bảo toàn được uy tín
và thắng lợi của cách mạng, phải biết đánh đúng địch. Khi đưa ra khẩu
hiệu “thà chết 10 người oan còn hơn để sót một địch” thì khẩu hiệu này
không những quá tả một cách vô lý mà phản lại cách mạng là đằng khác
nữa. Muốn chứng minh điều này ta chỉ cần nhìn thực tế: kết quả sai lầm
ta đã phạm khi thực hiện khẩu hiệu này rất tổn thiệt cho uy tín của
cách mạng và cho bản thân bao nhiêu chiến sĩ cách mạng. Nếu không phải
đó là phản lại cách mạng thì là gì?
Khẩu hiệu của pháp lý thì khác hẳn: “Thà 10 địch
sót còn hơn một người bị kết án oan”. Thế ta có lo ngại rằng 10 địch
sót không? Không, vì ta nắm chính quyền, vì cách mạng ta đã thành
công. Như vậy kẻ thù của cách mạng chẳng sớm thì chậm, nhất định hoặc
cải thiện, giác ngộ, hoặc lọt vào lưới của ta. Khẩu hiệu này lợi ở
chỗ: không một người oan nào bị kết án. Do đó, không có các kết quả
cực kỳ tai hại diễn ra hiện thời.
Làm thế nào thực hiện được khẩu hiệu ấy? Kinh
nghiệm pháp lý của hàng nghìn năm lịch sử thế giới cho ta biết rằng ta
có phương pháp để tìm đúng địch mà đánh, không đánh tràn lan, không
đánh người vô tội. Tôi xin phép nhắc tóm tắt sau đây các nguyên tắc
căn bản mà pháp lý nêu lên để đạt mục đích ấy.
Một nguyên tắc đầu tiên là không hình phạt các
tội đã phạm quá lâu rồi mà bây giờ mới khám phá ra. Tại sao? Vì rằng
vấn đề bằng chứng khó giải quyết được. Tang vật đã mất, nhân chứng có
người đã từ trần, có người không nhớ rõ các sự việc họ đã mục kích.
Hơn nữa, sở dĩ hình luật phạt các tội, là vì các tội ấy đã xâm phạm
vào trật tự xã hội: tác hại cho nạn nhân và gây tác dụng xấu trong
quần chúng. Nhưng khi tội đã phạm quá lâu, trật tự xã hội hết bị xâm
phạm rồi, nạn nhân không còn đau khổ, tác dụng xấu của tội cũng hết,
thời gian đã hàn gắn các vết thương. Bây giờ lại vạch chuyện cũ thì
không những khó thu thập được bằng chứng kết tội mà lại gây một sự náo
động trong xã hội không cần thiết. Chính xã hội thấy “quên” lợi hơn là
“nhớ”.
Một nguyên tắc thứ hai là trách nhiệm của phạm
nhân thì chỉ một mình phạm nhân phải chịu, không có trách nhiệm chung
của vợ con, của gia đình. Nêu trách nhiệm truớc hình luật của các
người “có quan hệ” với phạm nhân không những là bất công mà lại còn
gây các sự rung động vô ích trong xã hội. Hơn 400 năm nay không một
nước Tây phương nào làm việc đó nữa. Trách nhiệm trước hình luật chỉ
là một trách nhiệm cá nhân mà thôi. Không những thế, về phương diện
nhân đạo, thì các phạm nhân quá già được miễn nghị, miễn tố và các vị
thành niên được chiếu cố.
Môt nguyên tắc thứ ba là muốn kết án một người
phải có bằng chứng xác đáng. Phải có nhân chứng là những kẻ đã mục
kích sự phạm pháp và cung khai một cách cụ thể, rõ ràng, chắc chắn.
Một nhân chứng thôi chưa đủ, ít ra cũng phải có hai nhân chứng cung
khai phù hợp với nhau mới được coi là đáng kể. Cung khai của các nhân
chứng phải ăn khớp với nhau và trong quá trình phạm pháp các tang vật
thu được phải có tác dụng hợp lý, sát hợp với kết quả do cuộc điều tra
mang lại.
Một nguyên tắc thứ tư là thủ tục điều tra, xét
xử phải bảo đảm quyền lợi của bị tố nhân. Bị tố nhân có quyền nhờ luật
sư bào chữa cho mình, và khi thiếu điều kiện nhờ luật sư, khi nào là
một trọng tội, Toà phải cử luật sư bào chữa không, cho bị can. Trong
tất cả, giai đoạn điều tra ở trình độ công an thẩm vấn trong phòng dự
thẩm, buộc tội trước toà, quyền lợi của công tố viện ngang với quyền
lợi bị can, nghĩa là nếu công tố viện đưa hết lý lẽ để buộc tội, bị
can đưa hết lý lẽ để minh oan. Cuộc đấu lý diễn ra trong tất cả quá
trình điều tra, truy tố, xét xử giữa công tố viện và luật sư. Các vị
thẩm phán ngồi xét xử phải là vô tư, đứng giữa để theo rõi cuộc đấu lý
diễn ra dưới mắt mình. Như thế mới nhận định đúng và xử công minh. Toà
án xét xử không chịu lệnh của ai trong khi xét xử, chỉ biết xét xử
theo lương tâm của mình và căn cứ vào tài liệu trong hồ sơ, sau khi
nghe hai tiếng chuông buộc tội và gỡ tội. Người thẩm phán phải được đủ
đảm bảo để làm nhiệm vụ của mình mà không sợ ai khiển trách hay gây
khó khăn cho mình được. Khi điều tra thẩm vấn, tuyệt đối cấm không
được dùng phương pháp tra khảo, đánh đập, hành hạ bị can, mớm cung cho
bị can, doạ nạt hay dụ dỗ hắn. Khi nào có điều nghi ngờ thì bị can
được miễn nghị. Nếu bị kết án thì còn quyền chống án lên toà trên. Nếu
bị kết án tử hình thì lại còn quyền xin ân giảm trước vị Chủ tịch
Chính phủ. Con người của bị can, trong tất cả quá trình truy tố và xét
xử phải được tôn trọng triệt để, khi bị can ra trước toà thì không
được xiềng xích họ và không lúc nào được dùng nhục hình đối xử với họ.
Theo một nguyên tắc căn bản,
không phải vì một người tác hại cho một người khác mà người ấy phải
chịu trách nhiệm trước hình luật. Tác hại cho ai thì chỉ nêu trách
nhiệm về phương diện dân sự, nghĩa là bồi thường thôi — của người đã
tác hại. Muốn truy tố người ấy để thi hành hình luật đối với hắn thì
phải chứng minh rằng hắn phạm một tội, nghĩa là phạm vào một điều
khoản nào qui định trong hình luật, và hình luật không bao giờ có tác
dụng đối với quá khứ cả: nếu hành động của một người diễn ra trong
thời kỳ mà hình luật chưa quan niệm là một tội thì người ấy không thể
mang ra truy tố được. Không những bị can phải phạm một tội đã qui định
rồi trong pháp luật, mà ta lại còn phải xét xem rằng lúc phạm tội ấy
bị can có ý thức, có ý chí phạm pháp hay không, hay là vô tình mà phạm
pháp. Sự đối xử trong hai trường hợp ấy khác nhau.
Lúc tôi nhắc lại các nguyên
tắc này thì có vị cho rằng như thế là phiền phức, phức tạp. Dĩ nhiên
rồi, nhưng tất cả vấn đề là: ta có muốn giết người vô tội không? Nếu
không thì không thể nào làm khác được. Hơn nữa, muốn nhận định vấn đề
cho đúng, ta không nên đứng vào vị trí một người hiện thời không dây
dưa với pháp luật, một người ở một cương vị chính quyền.Ta phải đứng
vào cương vị của bị tố nhân; lúc ấy vấn đề rất sáng tỏ, không những ta
đòi thi hành các nguyên tắc pháp luật, ta còn cố gắng tìm hiểu thêm
các nguyên tắc mới để đảm bảo người oan khỏi bị chết....”
Tại sao bây giờ các khiếu kiện vẫn còn rất
nhiều và không ít khiếu kiện kéo rất dài mà chưa được xử lý thích
đáng. Tôi cho rằng vì chúng ta không quan tâm đến những nguyên tắc
pháp lý mà bác Tường đã nêu lên tại Hội nghị của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam từ ngày 30-10-1956.
Tôi
càng thấy thấm thía lời căn dặn của Bác Hồ: “ So với số nhân dân
thì số đảng viên chỉ là tối thiểu, hàng trăm người dân mới có một
người đảng viên. Nếu không có nhân dân giúp sức thì Đảng không làm
được việc gì hết...Ta cần hợp tác với người ngoài Đảng. Ta không được
khinh rẻ họ, chê bai họ...Cũng vì bệnh hẹp hòi mà không biết dùng nhân
tài, việc gì cũng ôm lấy hết. Ôm lấy hết thì cố nhiên không làm nổi”.
(Hồ Chí Minh Toàn tập, 1995, T.5, tr.238).