|
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1565)
Sinh năm 1491, mất năm 1585, quê ở làng Trung Am nay
thuộc huyện Vĩnh Bảo Hải Pḥng, năm 1535
đỗ tiến sỹ, từng được vua
Mạc phong tước Tŕnh tuyên hầu nên được
người đời gọi là Trạng Tŕnh, về hưu
năm 53 tuổi lập am Bạch Vân, lấy tên
hiệu là Bạch Vân cư sỹ. Nguyễn Bỉnh Khiêm
sống vào thời phong kiến suy vi: năm 1527, nhà
Mạc tiếm ngôi của nhà Lê, nhà Lê chống
lại, tạo nên t́nh trạng cát cứ, đánh nhau
liên miên. Từ năm 1545, ông c̣n chứng kiến
cảnh Trịnh Nguyễn phân tranh. Nhân dân lầm than
ly tán. Các tập đoàn phong kiến cũng thành
bại hưng vong đổi thay trong chớp mắt.
Thực tiễn ấy tạo một tâm trạng
bất an trong ḷng người. Nguyễn Bỉnh Khiêm là
một trí thức lớn, là bạn là thầy
nhiều nhân vật nổi tiếng, ông lại có tâm,
có chí giúp nước, cứu đời nhưng không
xoay chuyển được t́nh thế. Thay cho tiếng
thở dài tuyệt vọng, như nhiều nhà thơ chán
đời thuở xưa vẫn gửi vào thơ phú,
Nguyễn Bỉnh Khiêm đề cao và đấu tranh
cho sự trong sạch của tâm hồn con người,
lên án thói đời tráo trở, vụ lợi, chà
đạp lên thủy chung, t́nh nghĩa. Thơ ông, do
vậy, nặng về nhân t́nh thế thái, triết lư
đạo làm người. Chủ đề này vốn
dễ khô khan, tư biện nhưng Nguyễn Bỉnh
Khiêm đă vận dụng cách nghĩ, cách nói của
nhân dân, giữ được tính sinh động
thời sự của sự kiện nên câu thơ đúc
kết giáo lư mà vẫn nóng hổi cảm xúc:
C̣n bạc, c̣n tiền, c̣n đệ tử
Hết cơm, hết rượu, hết ông tôi.
H́nh ảnh minh họa chân lư thường cụ
thể, gần gụi trong đời sống hàng ngày,
ai cũng thấy, cũng biết nên câu thơ triết
lư mà không nặng nề, trái lại, được người
đọc vận dụng ngay vào đời sống,
biến nó thành một dạng thức biểu hiện
t́nh cảm của chính ḿnh trước mọi hay
dở của cuộc đời:
Thớt có tanh tao ruồi đậu đến
Ang không mật mỡ kiến ḅ chi.
Nguyễn Bỉnh Khiêm đề cao phép tu dưỡng
bản thân, dám giữ phẩm chất thanh cao khi
cuộc đời ô trọc, dám từ bỏ chốn
lao xao danh lợi để về nơi vắng vẻ
trong sạch cho tâm hồn, xét lại nghĩa dại khôn
của người đời:
Ta dại, ta t́m nơi vắng vẻ
Người khôn, người đến chốn lao xao.
Tự nhiên trong thơ ông là tự nhiên nâng đỡ
đạo đức con người, tôn vinh sự thanh
khiết của tâm hồn:
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.
Chính ở chỗ này nhiều bài thơ của
Nguyễn Trăi và Nguyễn Bỉnh Khiêm bị lẫn vào
nhau, đến nay vẫn c̣n khoảng ba mươi bài.
Ngay cả giọng thơ, Nguyễn Bỉnh Khiêm rất
gần Nguyễn Trăi, nhất là trong các câu sáu chữ:
Ḷng vô sự, trăng in nước
Của thảng lai, gió thổi hoa.
Nếu trong thơ chữ Nôm, Nguyễn Bỉnh Khiêm bàn
nhiều tới phép đối nhân xử thế th́
trong thơ chữ Hán ông lại thiên về mô tả, b́nh
luận các sự kiện xă hội, chính trị
tạo nên bức tranh hiện thực thời tao
loạn: Nhà ở đem làm củi/ Trâu cày mổ làm
thịt ăn/ Cướp đơạt tài sản không
phải là của ḿnh/ Hiếp dỗ người không
phải là vợ ḿnh. Nhiều lúc ông dùng cách diễn
đạt biểu tượng tố cáo giai cấp
thống trị (Ghét chuột, Cá lớn nuốt cá bé...)
Nỗi ḷng sâu kín của tác giả cũng được
bộc lộ rơ hơn: Được yên thân trong
thời loạn, biết là có sự may mắn/ Muốn
cứu nước khỏi nguy nan, thẹn ḿnh không có tài.
Tương truyền, Nguyễn Bỉnh Khiêm c̣n là
một nhà tiên tri, tác giả của nhiều lời
sấm. Nhà Mạc, nhà Trịnh, nhà Nguyễn đều
đến xin lời khuyên của ông để dựng
nghiệp. Ông giúp tất: khuyên nhà Mạc lên Cao
Bằng, khuyên nhà Nguyễn vào Hoành Sơn, khuyên nhà
Trịnh đừng có lật vua Lê (giữ chùa mà
ăn oản). Thế là ông đứng ngoài phe phái,
tọa sơn quan hổ đấu, hay ông muốn tách các
tập đoàn thù địch ấy xa nhau để nhân
dân đỡ phần xương máu. Lư do thứ hai có
lư hơn. Khi về hưu, ông đă cho khắc vào
tấm bia ở Quán Trung Tân: Ở triều đ́nh th́
tranh nhau cái danh; ở chợ búa th́ giành nhau cái
lợi; khoe sang th́ xe mát quán ấm; khoe giàu th́ nhà múa
lầu hát; thấy có người chết đói
dọc đường, không dám bỏ một đồng
tiền ra cứu giúp; thấy nơi trống trải không
có ǵ che mưa, không chịu bỏ một bó tranh để
che đậy. Đó là bản tổng kết cái tâm, cái
chí của một đời người, giúp ta
hiểu thêm nỗi ḷng Nguyễn Bỉnh Khiêm gửi
gắm trong thơ ông.
|