|
Nguyễn Gia Thiều (1741 - 1798)
Ôn-như Hầu tức Nguyễn-gia-Thiều tiên-sinh, người
làng Liễu-Ngạn, huyện Siêu-Loại, tỉnh
Bắc-ninh (nay là phủ Thuận-thành), thân-phụ là
Nguyễn gia Cư, thân-mẫu là bà Ngọc Tuân
Quỳnh Liên công-chúa, con gái chúa Trịnh hy Tô.
Nguyễn tiên-sinh vốn con ḍng-dơi trâm-anh, sinh năm
1741, có tính-chất thông-minh dĩnh-ngộ khác thường,
khi trẻ ngoài sự học văn c̣n theo học vơ,
tinh-thông nghề cung-kiếm, 19 tuổi được
tuyển-dụng vào cung-trung làm chức Hiệu-uư
quản binh mă, có chiến công, được phong tước
Ôn-như Hầu. Từ phong hầu về sau tiên-sinh
lại chuyên nghiên-cứu luyện-tập văn-chương
và thiên-văn địa-lư, khảo-cứu đạo
Phật, đạo Tiên, thường tự xưng là
Hy Tôn Tử và Nhu Yư Thuyền, giao-du cùng các nhà
triết học, thi-học, lấy sự nhàn-hạ khoáng-dật
phong-lưu tiêu-sái làm chí thú, ngâm phong vinh nguyệt làm
thích, không quản việc triều-đ́nh, nên mất
sự tín-nhiệm của nhà nước. Vả cũng
có nhiều người đương thời không
ưa v́ ganh tài-năng nên gièm-pha, tiên-sinh cũng
chẳng quan tâm. Đến khi Tây-sơn lấy
Bắc-hà, th́ tiên-sinh đi ở ẩn không chịu ra
làm quan, và thọ bệnh mất năm 1798, hưởng
thọ 58 tuổi (ngày mồng 9 tháng 5 năm
Mậu-ngọ).
Những tác-phẩm c̣n để lại, về
phần chữ nho có bộ Tiền-hậu thi-tập, nhưng
chưa t́m thấy, chỉ c̣n khẩu truyền một
đôi bài. Về quốc-âm th́ c̣n Tây-hồ
thi-tập, bộ tứ-trai và Cung-oán ngâm khúc.
Tiên-sinh rất tinh nghề Thanh nghệ luật (nghề
làm thơ), đă d́u-dắt phái thi học đời
hậu Lê được lắm nhà thơ hay.
ở tập Chuyết-thập tạp-chí của ông Lư
văn Phức chép truyện Ôn-nhu Hầu có nói
rằng: " Nhất thị ứng khẩu thành
tụng, ngữ ngữ khả nhân, nhất thị thiên
đoàn bách luyện, ngữ ngữ kinh nhân". Nghĩa
là: một là ra lời nói thành câu thơ, lời
lời thảy nghe được, hai là ngh́n lần
nhồi nặn, trăm lần nung-luyện ra câu thơ,
lời lời khiến người nghe phải sợ...
tức là tiên-sinh có tài nhanh-chóng cũng hay và có công
trau-nắn càng hay.
Tài lành dễ đâu chôn lấp được,
một thiên " Cung-oán ngâm-khúc " nay c̣n truyền
xa.
Huế ngày 6 tháng 5-1950
Vân-b́nh Tôn Thất Lương kính thuật
Tiểu dẫn
Hai chữ Cung-oán là sự oán-hờn nơi cung cấm
của các cung-phi, cung-tần đă từng được
vua yêu rồi lại bị ghét bỏ, v́ lời gièm-pha
ghen-tuông lẫn nhau ; hoặc có người đă
chọn mà suốt đời không được
sự hạnh-sủng, nên đă thốt ra nỗi oán-hờn.
Trải xem các đời từ xưa nơi cung
cấm, cung-nhân nhiều đến số ba bốn ngh́n,
mà trong số ấy thường chỉ có vài người
được sủng ái, nên phần nhiều cung-nhân
có tài học tự làm ra lời cung-oán, hoặc các nhà
thơ đặt ra lời cung-oán, mượn thân-phận
của cung-nữ mà tỷ-nghĩ thân-phận ḿnh, cũng
đề là cung-oán. Về sau hai chữ " cung-oán
" thành một cái nhan đề, chuyên nói sự oán-hờn
của cung-nữ.
Lại có đề "khuê-oán" chyên nói sự oán-hờn
của người đàn-bà có chồng, bị
chồng đi xa không về ; đề "khuê-oán"
phần nhiều cũng là lời của các nhà thơ
mượn sự t́nh của người để bày
thân-phận của ḿnh vậy.
"Cung-oán ngâm khúc" sau đây là một khúc ngâm
về nỗi oán-hờn của cung-nhân mà Ôn-như
Hầu tiên-sinh đă mượn t́nh-trạng cung-phi
để tự ví thân-phận ḿnh ; khúc ngâm này dùng
điệu "song-thất lục-bát". Lời van
đă thâm-thuư, nghĩa lư lại mắc-mỏ và đoạn
lại khó phân. Nếu cứ để suông tự
đầu đến cuối, đem đọc mấy
lần cũng không hiểu thấu, nên đây phải
dùng lối phân-tích, chia ra làm tám đoạn, mỗi
đoạn kể lược-tự sự-trạng
của tác giả đă nói, có những t́nh-ư ǵ ở
trong nguyên văn; theo nguyên văn lại tiếp mục
giải-nghĩa và chú-thích để người đọc
đến hiểu ngay, không phải mờ-mịt mà hóa
ra chán nản.
Mong rằng các độc-giả chú ư: phàm viết
một bài chuyên nói một mục-đích ǵ, th́ cũng
như theo ư của nhan-đề mà làm thành lối dàn-bài
như một bài thơ "Đường-luật"
tám câu:
câu 1 là câu "phá", câu 2 là câu "thừa";
- "Phá" là mở lời đầu tiên nói
tổng-quát toàn cả một sự-trạng của
đề mục hay của nhan-đề.
- "Thừa" là thừa-tiếp nghĩa của câu
"Phá" để đem ban bố sự-trạng
ấy ra sau
- Hai câu 3, 4 là hai câu "Trạng", tả rơ
từng thái-trạng của nhan-đề ấy;
rồi tiếp đến hai câu 5, 6 là hai câu
"Luận" luận-bàn và dẫn-chứng mà bài-liệt
thêm ra cho nhiều rộng ư-nghĩa; Sau câu
"Luận" tiếp câu thứ bẩy là câu "Thúc"
hay là "Chuyển", nghĩa là gói và thu-tóm,
hoặc di-chuyển cả ư-tứ những câu 1, 2, 3, 4,
5, và 6 mà thu tóm ư nghĩa ở câu 7,
để kết-liễu toàn ư-tứ của nhan-đề
ở câu 8 là câu "Kết" trọn vẹn ; thành
một bài thơ có thứ-tự theo lối dàn bài, có
kiểu mẫu nhất-định.
Có thứ-tự như thế th́ không lộn-xộn, và
theo phép ấy, nếu làm một bài dài trường-thiên
hay là một khúc ca ngâm có mấy trăm câu mặc dù,
ta cũng phải biết chia ra làm tám phần, ít
nhiều câu tuy không dịnh, nhưng phải phân-tích thành
đoạn-lạc rạch-ṛi, cũng như một bài
thơ Đường-luật vậy.
Bài "Cung-oán ngâm khúc" này có 356 câu, đă phân ra
tám phần như đă nói trên. Các độc-giả
khi đọc nên cẩn-thận rơ từng chi-tiết
một, và sưu-tầm những lời chú-thích
dẫn-giải đă chỉ rơ lối dùng chữ,
lối mượn điển, dùng điển phân-minh.
Đó là dẫn-giải tŕnh-bày theo lối phổ-thông,
hầu được giúp ích cho kẻ hậu học tân-tiến,
trong khi luyện-tập quốc-văn, giảng-cầu
cổ-điển.
Nếu không dùng lối thích nghĩa này th́ dù đọc
mấy lần cũng chỉ hiểu từng câu một
với một nghĩa-lư mơ-hồ, hư-huyễn, không
dính-dáng vào đâu, chẳng c̣n biết tác-giả
muốn nói việc ǵ, càng thêm rối trí vô-ích.
Vậy các độc-giả đọc sau đây
dần dần hiểu thấu suốt toàn thiên và không
c̣n thiếu-sót một nghĩa ǵ đáng nghi-hoặc
vậy.
|