|
Trần Văn
Giáp
(1902-1973) |
Học
giả Trần Văn
Giáp tự là
Thúc Ngọc,
sinh ngày
13-10-1902
tại Hà Nội
và tạ thế
ngày
25-11-1973
cũng tại Hà
Nội. Quê
quán ông ở
làng Từ Ô,
xã Tân Trào,
huyện Thanh
Miện, tỉnh
Hải Hưng.
Ông xuất
thân từ một
gia đình
khoa bảng.
Thân phụ ông
là Trần Văn
Cận, một nhà
nho tuy đã
đỗ cử nhân
nhưng chỉ ở
nhà làm
ruộng và dạy
học.
Theo học chữ
Hán từ thuở
nhỏ, Trần
Văn Giáp mới
14 tuổi đã
thi hương.
Ông thi đỗ
Tam Trường.
Sau đó ông
chuyển sang
học tiếng
Pháp. Đến
năm 18 tuổi
(1916), ông
làm việc tại
Trường Viễn
Đông Bác Cổ
(École
française
d'Extrême-Orient).
Năm 25 tuổi
(1927), ông
du học ở
Pháp và học
tại Trường
Cao Học Thực
Hành ở
Sorbonne
(École
pratique des
Hautes
Études de la
Sorbonne),
Viện Cao Học
Hán Học
(Institut
des Hautes
Études
Chinoises),
và Viện Dân
Tộc Học
(Institut
d'Ethnologie).
Hai luận án
của ông là «Le
Bouddhisme
en Annam des
origines au
XIIIè siècle»
(Phật giáo
Việt Nam từ
khởi nguyên
đến thế kỷ
XIII) và «Les
chapitres
bibliographiques
de Lê Quý
Đôn et de
Phan Huy Chú»
(Các thiên
thư tịch chí
của Lê Quý
Đôn và Phan
Huy Chú).
Năm 30 tuổi
(1932) ông
hồi hương và
tiếp tục làm
việc cho
Trường Viễn
Đông Bác Cổ,
chuyên
nghiên cứu
lịch sử và
ngữ văn cổ
trung đại
Việt Nam.
Ông là một
thành viên
sáng lập Hội
Truyền Bá
Quốc Ngữ;
từng cộng
tác với
Hoàng Xuân
Hãn và Vũ Hy
Trác soạn
quyển Vần
quốc ngữ
(1938).
Ngay sau
Cách Mạng
Tháng 8-1945
và khi Toàn
Quốc Kháng
Chiến bùng
nổ (1946),
ông theo
kháng chiến
và công tác
ở Bộ Giáo
Dục, rồi dạy
học ở một số
trường. Năm
1954, ông
công tác tại
Ban Nghiên
Cứu Văn Sử
Địa, sau
chuyển thành
Viện Sử Học
Việt Nam.
Ông từng
tham gia các
công trình
nghiên cứu
tập thể như:
Lược
Truyện Các
Tác Giả Việt
Nam (2
tập),
Nguyễn Trãi
Toàn Tập, Từ
Điển Tiếng
Việt.
Ông có nhiều
bài viết giá
trị trên tờ
Nghiên
Cứu Lịch Sử
và trên
các tạp chí
nghiên cứu
khoa học
khác. Ông đã
khảo dịch và
chú thích
các tác phẩm
như Bích
Câu Kỳ Ngộ,
Vân Đài Loại
Ngữ, Phong
Thổ Hà Bắc,
Ngọc Kiều
Lê,
v.v... Ông
còn viết
sách bằng
Hán văn (3
quyển) và
Pháp văn (4
quyển); dịch
sách Trung
Quốc (2
quyển). Tác
phẩm cuối
cùng của ông
là Tìm
Hiểu Kho
Sách Hán Nôm
- nguồn tư
liệu văn học
và sử học
Việt Nam.
Bộ sách
gồm 2 tập.
Tập I được
Thư Viện
Quốc Gia
xuất bản năm
1971, sau đó
được Nxb Văn
Hoá tái bản
(Hà Nội,
1984). Tập
II của thư
tịch chí này
được Nxb
Khoa Học Xã
Hội xuất bản
nốt vào năm
1990.
|
|
Tìm Hiểu
Kho Sách
Hán Nôm:
tập I
(1984),
tập II
(1990) |
Bộ sách
Tìm Hiểu
Kho Sách Hán
Nôm
là một thư
tịch chí,
bao quát 428
tác phẩm văn
học và sử
học Việt Nam
từ xưa cho
đến đầu thế
kỷ XX (gấp
đôi số sách
được nêu
trong Văn
Tịch Chí
của Phan Huy
Chú và gấp
bốn số sách
được nêu
trong
Nghệ Văn Chí
của Lê
Quý Đôn).
Bộ
sách bao gồm
8 phần:
I.
LỊCH SỬ (166
tác phẩm);
II. ĐỊA LÝ
(37
tác phẩm);
III. KỸ
THUẬT (10
tác phẩm);
IV. NGÔN NGỮ
(14 tác
phẩm);
V.
VĂN HỌC (151
tác phẩm);
VI. TÔN GIÁO
(17 tác
phẩm);
VII.
TRIẾT HỌC
(20 tác
phẩm);
VIII.
SÁCH TỔNG
HỢP (17 tác
phẩm). Mỗi
phần lại
phân ra
nhiều tiểu
loại. Học
giả Thúc
Ngọc giúp
độc giả rất
nhiều qua
việc thẩm
định sơ bộ
của ông về
các tác phẩm
cổ: tác phẩm
nào có giá
trị, tác
phẩm nào kém
giá trị, các
tác phẩm hay
các tác giả
dễ lầm lẫn
với nhau,
nguỵ tác,
v.v... Đặc
biệt là khi
giới thiệu
một tác
phẩm, ông
còn nêu ra
nguồn tư
liệu liên
quan đến tác
phẩm đó. Bộ
thư tịch chí
này đóng góp
đáng kể về
mặt văn bản
học, nêu ra
những nguỵ
tác (như:
Binh thư yếu
lược, Lê
Hoàng ngọc
phả, Thánh
Tông di
thảo, Việt
sử tiệp
kính,
v.v...) và
việc phân
biệt chân
nguỵ này
giúp ích rất
nhiều cho kẻ
hậu học.
Khi biên
soạn bộ
thư tịch chí
hay kinh
tịch chí
này, Thúc
Ngọc Trần
Văn Giáp
quan niệm
rằng:
Kinh 經
nghĩa là các
sách cổ điển
phương Đông
về triết
học, tôn
giáo, và các
sách chuyên
môn. Tịch
籍 là sổ
sách, sách
vở, giấy tờ
biên chép
những tri
thức cần
thiết, làm
thành một
cuốn sách.
Kinh tịch
chí
(bibliographie)
là một bộ
sách nhằm
ghi chép,
thu thập các
tên sách, và
chú thích
tuỳ theo yêu
cầu. Theo
ông, thuật
ngữ kinh
tịch chí
xuất hiện từ
thế kỷ VII
trong Tuỳ
Thư.
Người mở
đường lĩnh
vực này là
Lưu Hướng
đời Hán (bấy
giờ lĩnh vực
này gọi là
Biệt Lục),
nối tiếp là
Lưu Hâm (con
Lưu Hướng)
biên soạn
quyển
Thất Lược.
Khi Ban Cố
soạn Tiền
Hán Thư,
cũng mô
phỏng cha
con Lưu
Hướng-Lưu
Hâm mà dành
riêng một
thiên gọi là
Nghệ Văn
Chí.
Việc này
thành lệ cho
các bộ
Tân Đường
Thư, Tống
Sử, Minh Sử
về sau. Đến
đời Thanh
thì lĩnh vực
này phát
triển mạnh
với Tứ
khố toàn thư
tổng mục đề
yếu (năm
1772, đời
Càn Long).
Riêng ở Việt
Nam, ông
thấy có hai
tài liệu
quan trọng
liên quan
đến lĩnh vực
kinh tịch
chí: Thiên
Nghệ Văn
Chí
trong Lê
Triều Thông
Sử của
Lê Quý Đôn
và thiên
Văn Tịch Chí
trong
Lịch Triều
Hiến Chương
Loại Chí
của Phan Huy
Chú. Hai
thiên này có
nét đặc sắc
và sáng tạo
riêng của
Việt Nam, vì
không phỏng
theo khuôn
mẫu của
Trung Quốc.
Ngoài hai
thiên trên,
ông còn nhận
thấy sự hiện
diện của một
số mục lục
sách tuy sơ
lược mà cũng
có giá trị
của các thư
viện công
cũng như thư
viện tư. Ông
chủ yếu dựa
trên hai
thiên của Lê
Quý Đôn và
Phan Huy Chú
mà phát
triển thành
bộ Tìm
Hiểu Kho
Sách Hán Nôm.
Lê Quý Đôn
nghiên cứu
thư tịch
(gồm 115 bộ
sách) từ đời
Lý-Trần đến
đầu đời Lê
Trung Hưng
(tức từ thế
kỷ X đến thế
kỷ XVII).
Phan Huy Chú
liệt kê thêm
thư tịch từ
thế kỷ XVII
đến thế kỷ
XVIII (cuối
đời Lê Chiêu
Thống), cả
thảy gồm 214
bộ sách (gộp
luôn số sách
mà Lê Quý
Đôn liệt
kê). Trần
Văn Giáp đã
so sánh từng
tác giả và
từng tên
sách trong
hai thiên đó
và trong các
mục lục sách
do các học
giả Cadière,
Pelliot,
v.v... Ông
theo trình
tự trước
sau, phân
tích và phê
phán từng
điểm cần
thiết, nói
rõ tình
trạng của
từng sách.
Bộ nào không
tìm thấy
sách thì ông
đành để
nguyên như
cũ và sưu
tầm lai lịch
của nó trong
các sử cũ,
các tập văn
cổ, v.v...
Ngoài ra,
ông còn
nghiên cứu
thêm một số
sách hiện có
trong Thư
Viện Quốc
Gia, Thư
Viện Khoa
Học Xã Hội,
Thư Viện
Viện Sử Học.
Đối với ông,
mỗi nhan đề
sách là một
đối tượng
của một bài
nghiên cứu,
gồm ba phần:
(1) Miêu tả
sách (tên,
tác giả, số
quyển, cỡ
sách, số tờ
hay số
trang, năm
xuất bản,
tên nhà xuất
bản, tức là
giám định
văn bản);
(2) Nội dung
(phân tích
và phê phán
nội dung,
phân loại
tác phẩm,
v.v...); (3)
Tiểu truyện
tác giả
(giới thiệu
thân thế, sự
nghiệp, kèm
thêm các tác
phẩm chính).
Tìm Hiểu
Kho Sách Hán
Nôm là
một công
trình khoa
học rất giá
trị về thư
tịch văn
học-lịch sử
cổ điển Việt
Nam. Với nội
dung phong
phú, bộ sách
này chắc
chắn giúp
ích rất
nhiều cho
giới nghiên
cứu Hán Nôm
nói riêng và
giới nghiên
cứu Việt Nam
Học nói
chung.●
* Tham
khảo:
Tìm Hiểu Kho
Sách Hán Nôm
, tập I
(1984) và
tập II
(1990)
TÁC PHẨM CỦA
THÚC NGỌC
TRẦN VĂN
GIÁP
I. SÁCH IN
BẰNG QUỐC
NGỮ
1. Vần
Quốc Ngữ.
Soạn cho
Hội Truyền
Bá Quốc Ngữ,
cùng Hoàng
Xuân Hãn và
Vũ Hy Trác.
Hà Nội,
1938.
2. Lược
Khảo Về Khoa
Cử Việt Nam,
Khai Trí
Tiến Đức tập
san, Hà Nội,
1941.
3. Nguyễn
Trãi Quốc Âm
Thi Tập,
(soạn chung
với Phạm
Trọng Điềm),
Nxb Văn Sử
Địa, Hà Nội,
1957.
4. Lưu
Vĩnh Phúc -
tướng Cờ
Đen, Nxb
Sông Lô, Hà
Nội, 1958.
5. Bích
Câu Kỳ Ngộ
khảo thích,
Nxb Văn Hoá,
Hà Nội,
1958.
6. Vân
Đài Loại Ngữ
(2 tập),
biên dịch &
khảo thích,
Nxb Văn Hoá,
Hà Nội,
1962.
7. Lược
Truyện Các
Tác Gia Việt
Nam (tập
1), chủ biên
& đồng tác
giả, Nxb Sử
Học, Hà Nội,
1962. In lần
2 có bổ
sung: Nxb
Khoa Học Xã
Hội, Hà Nội,
1971.
8. Lược
Truyện Các
Tác Gia Việt
Nam (tập
2), chủ biên
& đồng tác
giả, Nxb
Khoa Học Xã
Hội, Hà Nội,
1972.
9. Phong
Thổ Hà Bắc,
biên dịch &
khảo thích,
Ty Văn Hoá
Hà Bắc xuất
bản, 1971.
10.
Nguyễn Trãi
Toàn Tập,
đồng tác
giả, Nxb
Khoa Học Xã
Hội, Hà Nội,
1969; in lần
2: 1976.
11. Từ
Điển Tiếng
Việt,
đồng tác
giả, Nxb
Khoa Học Xã
Hội, Hà Nội,
1967; in lần
2: 1977.
12. Ngọc
Kiều Lê,
biên dịch &
chú thích,
Nxb Khoa Học
Xã Hội, Hà
Nội, 1976.
13. Tìm
Hiểu Kho
Sách Hán
Nôm. Tập
I: Thư Viện
Quốc Gia
xuất bản năm
1971; Nxb
Văn Hoá tái
bản, Hà Nội,
1984. Tập
II: Nxb Khoa
Học Xã Hội,
Hà Nội,
1990.
II. SÁCH IN
BẰNG HÁN NGỮ
14. Hà
Nội Viễn
Đông Khảo Cổ
Học Viện
Hiện Tàng
Việt Nam
Phật Điển
Lược Biên,
Quốc Tế Phật
Giáo Hiệp
Hội xuất
bản, Tōkyō,
1943.
15. Hán
Văn Trích
Thái Diễn
Giảng Khoá
Bản,
viết chung
với Bùi Kỷ,
Hà Nội,
1942.
16. Ức
Trai Quân
Trung Từ
Mệnh Tập Bổ
Biên Phụ
Hiệu Khám
Biểu.
III. SÁCH IN
BẰNG PHÁP
NGỮ
17. Le
Bouddhisme
en Annam des
origines au
XIIIè siècle
(Phật giáo
Việt Nam từ
khởi nguyên
đến thế kỷ
XIII), Hà
Nội, 1932.
18.
Esquisse
d'une
histoire du
Bouddhisme
au Tonkin
(Phác thảo
lịch sử Phật
giáo ở Bắc
Kỳ), Bảo
Viện Âm xuất
bản, Huế,
1932.
19. Les
chapitres
bibliographiques
de Lê Quý
Đôn et de
Phan Huy Chú
(Các thiên
thư tịch chí
của Lê Quý
Đôn và Phan
Huy Chú).
20.
Relation
d'une
ambassadem
annamite en
Chine au
XVIII siècle
(Quan hệ của
một số sứ
thần Việt
Nam ở Trung
Quốc thế kỷ
XVIII).
IV. SÁCH
DỊCH
21. Lịch
Sử Trung
Quốc (từ
thượng cổ
đến trước
chiến tranh
Nha Phiến),
3 tập, Khu
Học Xá Trung
Ương xuất
bản,
1955-1956.
22. Lịch
Sử Cận Đại
Trung Quốc
(từ
chiến tranh
Nha Phiến
đến 1955),
Khu Học Xá
Trung Ương
xuất bản,
1955-1956.
23. Việt
Sử Thông
Giám Cương
Mục,
dịch chung
với Hoa Bằng
và Phạm
Trọng Điềm,
Nxb Văn Sử
Địa, Hà Nội,
1957.
V. SÁCH CHƯA
XUẤT BẢN
24. Danh
Nhân Hà Bắc.
25. Về
Vấn Đề Giao
Lưu Văn Hoá
Giữa Việt
Nam và Triều
Tiên.
26. Lược
Sử Vấn Đề
Chữ Nôm. |