Nền
văn hoá toàn cầu ngày nay tạo ra nhiều của cải
vật chất, nhưng vô trách nhiệm đối với việc chăm sóc đạo đức của
con người!
Jawaharlal Nehru, 1949
Chưa bao giờ kinh tế Việt Nam phát triển mạnh mẽ như hiện nay. Nhưng đúng
vào lúc này, trong xã hội lại dấy lên một nỗi lo lắng sâu sắc: sự xuống
cấp về nhân cách và đạo đức đang ngày càng trở nên nghiêm trọng!
Đó là một bài
toán lớn, RẤT LỚN, vì thực chất, vấn đề xuống cấp về đạo đức đã và đang
trở thành một VẤN NẠN TOÀN CẦU, tương tự như VẤN NẠN KHÍ THẢI TOÀN CẦU.
Cả hai vấn nạn này đều do chính con người tạo ra, đều là sản phẩm song
hành của một nền văn hoá “dương tính” – nền văn hoá thực dụng
đương đại lấy vật chất làm thước đo giá trị, thước đo văn minh và tiến
hoá.
Nhưng càng ngày
nhân loại càng cảm thấy rất khó có thể chấp nhận một hình ảnh tiến
hoá đơn thuần chỉ có tăng trưởng vật chất nhưng tha hoá về tinh thần.
Với thước đo thuần tuý vật chất, tiến hoá có nguy cơ trở thành phản
tiến hoá, hoặc “tiến hoá ngược” như cảnh báo trong bức tranh sau
đây:

Một trong những
bậc thức giả đầu tiên nhận thấy nguy cơ phản tiến hoá của nền văn minh
vật chất là vị thủ tướng đầu tiên của Ấn Độ, Jawaharlal Nerhu
(1889-1964). Trong chuyến đi thăm Mỹ năm 1949, ông đã đến thăm Albert
Einstein tại Princeton. Trong cuộc trao đổi lịch sử này, Nerhu phàn nàn:
“Nền văn hoá toàn cầu ngày nay
tạo ra nhiều của cải vật chất, nhưng vô trách nhiệm đối với việc chăm
sóc đạo đức của con người!”. Einstein đáp: “Vâng, nền văn hoá
chăm lo đạo đức chính là nền văn hoá đông phương cổ truyền của các ông”(1).
Sự vô trách nhiệm
đó dẫn tới một nghịch lý lớn: Vật chất tăng trưởng nhưng đạo lý suy
giảm! Đó là nghịch lý “phú quý phi lễ nghĩa”(2), thay
vì “phú quý sinh lễ nghĩa” như ngạn ngữ truyền thống đông phương đã tổng
kết.
1] Khi đạo đức
tỷ lệ nghịch với tăng trưởng:
Cách đây khoảng
200 năm, Napoléon nói: “Trung Quốc là một con sư tử đang ngủ. Hãy để
cho nó ngủ, đừng đánh thức nó dậy!”. Nhưng con sư tử đó đã thức dậy
năm 1949, và đã thực sự vươn mình đứng dậy gầm vang từ nửa sau thập kỷ
1980.
Tuy nhiên, vị
hoàng đế tinh tường của nước Pháp không thể đoán trước được rằng sau ông
200 năm, nhân cách và đạo đức của con cháu Khổng tử sẽ ra sao.
Câu trả lời có
thể tìm thấy trong cuốn tiểu luận phê bình “Đối thoại văn học: Người
đẹp tặng ta thuốc bùa mê”(3) của Vương Sóc, một
nhà văn Trung Quốc rất nổi tiếng hiện nay. Vương Sóc viết:

“Ở Canberra
(thủ đô Úc), người Trung Quốc đến đó xây không ít nhà thổ, cướp đi khá
nhiều phi vụ buôn bán mãi dâm của người địa phương, bởi vì kỹ viện của
người Trung Quốc giá rẻ hơn. Một người bạn đã dẫn tôi đến một nhà chứa
do người Thượng Hải kinh doanh. Tôi định thử đi một chuyến xem nó thế
nào. Điều khiến tôi hết sức sửng sốt là con trai của ông chủ nhà chứa đã
chơi gái trong đó. Tôi hỏi ông, sao không tìm cho cậu ấm một con ở? Ông
đáp con ở ở đây đắt lắm. Tôi bảo nghề này của ông chẳng phải hái ra tiền
đó sao? Việc gì phải để thằng con sau khi đi học về sống trong môi
trường này? Lúc ấy vợ ông chủ từ nhà trong đi ra, bà vừa hầu hạ một
khách hàng. Ba người trong nhà họ đều ở trong nhà chứa, khi thiếu người
thì bà vợ thay chân. Mẹ kiếp, muốn có tiền người ta đã phát điên lên mất
rồi”.
Nếu gia đình đó
thuộc hạng người mà xã hội coi là cặn bã, kiểu sống phi luân của họ
chẳng có gì lạ, thì hãy xem Vương Sóc nhận định ra sao về trí thức:
“Cho nên nói,
vấn đề của giới trí thức Trung Quốc là không biết thành thật là thế nào
… Đối với loại trí thức này thì điểm mù lớn nhất của họ không phải là sự
vô tri về tri thức, mà là sự vô tri về nhân cách, về làm người … sự vô
tri về linh hồn là điểm mù lớn nhất ….. Sự tàn nhẫn vô liêm sỉ
nhất thế giới này đều do trí lực gây nên. Con người có thể dùng trí tuệ
đi làm những việc vô liêm sỉ. Đặc biệt là ở mặt đối xử với đồng loại. Sự
tàn sát lẫn nhau giữa các con vật làm sao có thể tàn nhẫn hơn, vô liêm
sỉ hơn sự tàn sát lẫn nhau giữa các con người với con người”.
Trong Phần V, mục
2, nhan đề “Có một sức mạnh dã man trong đời sống”, Vương Sóc
viết những lời làm ta sởn gai ốc: “Bởi vì trong quá khứ, để có sự
tiến bộ gì đó về chính trịm chúng ta đã bỏ cái ba-lô đạo đức xuống từ
lâu, đã vứt bỏ lương tâm và sự thành thực đi từ đời nào rồi, chứ không
phải bây giờ mới như vậy… Đời sống hình như đã nhổ tận gốc tính người …
Tê dại trơ lỳ về nhân tính, tê dại trơ lỳ về linh hồn, cuối cùng mẹ
kiếp, ngay đến thể xác cũng trơ lỳ theo … Qua thất bại của cuộc đại cách
mạng văn hoá, mới thấy chúng ta đã làm những chuyện vô liêm sỉ vào bậc
nhất rồi”.
Đối với Vương
Sóc, sự tha hoá đạo đức lớn nhất ở Trung Quốc hiện nay là sự giả dối: “Chúng
ta làm gì có cao thượng? Ngay cả sự thành thực, giới hạn tối thiểu của
việc làm người, cũng không có, thì sự cao thượng chẳng phải là xa sỉ quá
hay sao?”.
Tôi chưa từng đến
Trung Quốc nên không thể đánh giá mức độ chính xác của những ý kiến nói
trên, nhưng tư cách của Vương Sóc buộc tôi phải tôn trọng ông: Trong một
cuộc thăm dò dư luận ở Thượng Hải đầu những năm 1990, người dân Thượng
Hải được quyền bình chọn những nhà văn mà mình yêu quý nhất, Vương Sóc
được xếp thứ ba, sau Kim Dung và Lỗ Tấn.
2] Khi khoa
học không đếm xỉa tới lương tri:
François
Rabelais, văn hào nổi tiếng người Pháp, ngay từ thế kỷ 16 đã cất lời
cảnh báo tiên tri : “Khoa học không có lương tri chỉ là sự băng hoại
của linh hồn!”.
Nhưng lương tri
khoa học có vẻ như ngày càng trở nên xa lạ với những nhà khoa học bị lợi
lộc cám dỗ. Một trong những lĩnh vực bị cám dỗ mạnh nhất hiện nay là
nghiên cứu tế bào gốc (stemcells), vì tế bào gốc sẽ cho phép tạo ra các
mô dùng trong y học phẫu thuật lắp ghép các cơ phận của con người, phục
vụ cho những bệnh nhân tỷ phú trên thế giới.
Hãy đến thăm Công
ty Stemcells ở California: Sau khi thành công trong thí nghiệm cấy não
người vào não chuột, chuẩn bị thí nghiệm ngược lại, cấy não chuột vào
não người, người chủ trì đề tài là Irving Weissman, giáo sư Đại học
Stanford, bị báo chí chất vấn về nguy cơ thí nghiệm này sẽ xoá nhoà ranh
giới giữa động vật và con người, Irving trả lời: “Vấn đề bạn lo lắng
thuộc phạm trù của các nhà đạo đức học, còn giới khoa học chúng tôi
không thể quy định đâu là giới hạn nghiên cứu”.

Tế bào gốc tốt
nhất là tế bào bào thai. Vì thế, ngoài các bào thai có thể có bằng những
con đường mà luật pháp không cấm, các trung tâm tế bào gốc đều nghĩ tới
mọi phương pháp khả dĩ miễn là đạt được mục đích, trong đó có một phương
pháp hữu hiệu là nhân bản vô tính để tạo ra bào thai người – nguồn tế
bào gốc vô tận! Các bào thai này không cần để cho sống sót thành con
người đàng hoàng như chúng ta, mà chỉ cần ngâm trong các bình thí nghiệm
để lấy tế bào (!). Vì nhân bản vô tính người thể hiện tính vô luân đến
mức trầm trọng nên hiện nay nó vẫn bị cấm tại nhiều nước. Nhưng một số
nhóm nghiên cứu, chẳng hạn như nhóm Antinori ở Ý, đã tuyên bố rằng sẽ
tạo ra con người bằng nhân bản vô tính tại những nơi không bị luật pháp
cấm, bất chấp sự nguyền rủa của dư luận.
Tại Úc, một công
ty stemcells đã bị phát giác làm thí nghiệm cấy tế bào người vào nhân
trứng lợn, và đã tạo ra một tế bào sống được 42 ngày. Thực ra tế bào này
không tự chết, mà đã bị giết chết, vì khi kiểm tra, các nhà nghiên cứu
phát hiện thấy “cơ thể” của nó chứa cả ADN của người lẫn ADN của lợn.
Nếu để nguyên cho nó sinh thành thì sao đây? Sẽ có một sinh vật mới ra
đời, đó là một người-lợn hoặc lợn-người, một tác phẩm khoa học trứ danh
không có gì có thể so sánh được (!). Ai dám khẳng định rằng hiện nay một
bào thai quái vật như thế không ngấm ngầm tồn tại trong một phòng thí
nghiệm nào đó trên thế giới? Khi câu chuyện tế bào người-lợn ở Australia
bị báo chí đưa ra ánh sáng, xã hội Australia đã thật sự rùng mình. Các
em nhỏ đã lên tivi phát biểu rằng các em thấy sợ hãi. Tờ Daily Telegraph
đã lên án gay gắt việc làm bất lương này, nhưng sau đó không nghe thấy
ồn ào gì tiếp. Việc tầy trời như thế có vẻ như đã bị ỉm đi, không hề
thấy xét xử giống như bao nhiêu vụ tội phạm khác.
Ngày xưa, lũ trẻ
chúng tôi được xem một cuốn phim kinh dị nhan đề “The Ghost of
Frankenstein” (Con quỷ của Frankenstein), sản xuất năm 1942, trong đó có
một nhân vật nửa người nửa quỷ, ban ngày là người, nhưng ban đêm mỗi khi
trăng lên lại biến thành quỷ. Đó là con quỷ làm tôi kinh hãi nhất trong
đời. Tôi có cảm giác rằng một con người ra đời bằng nhân bản vô tính sẽ
làm tôi khiếp sợ gấp 10 lần con quỷ của Frankenstein, nhưng tôi còn
khiếp sợ các chuyên gia nhân bản vô tính người gấp 100 lần!

1-Quảng cáo phim “Con
quỷ của Frankenstein”;
2-Chuột tạo sinh vô tính
to hơn chuột bình thường
3-Antinori, người tuyên
bố sẽ tạo sinh vô tính người tại một nơi không bị luật pháp cấm.
3] Khi khoa
học phục vụ cho quỷ dữ:
Nếu khoa học được
coi là một bộ phận của văn hoá thì tại sao một nhà khoa học như Werner
Heisenberg, cha đẻ của Cơ Học Lượng Tử, lại có thể cam tâm làm tay sai
trung thành cho chủ nghĩa phát xít? Chính Heisenberg chứ không phải ai
khác, là người lãnh đạo chương trình chế tạo bom nguyên tử của Hitler.
Rất may là nghiên cứu của Heisenberg bị thất bại, nếu không thì thế giới
sẽ ra sao? Ai sẽ phải trả giá nếu chương trình nghiên cứu của Heisenberg
thành công? Lúc đó nhân loại sẽ đánh giá Heisenberg ra sao? Khi đó ông
sẽ là một quỷ dữ hay một thiên thần?

1-Werner Heisenberg đầu
những năm 1940;
2-Báo cáo mật ngày 20-02-1940 của Heisenberg gửi tới Văn phòng vũ khí
của quân đội Đức quốc xã “Về khả năng sản xuất năng lượng bằng kỹ thuật từ sự vỡ
đôi của hạt nhân Uranium”;
3-Báo cáo mật năm 1942;
4-Thí nghiệm của
Heisenberg tại Leipzig kiểm tra phản ứng dây chuyền
Trong thâm tâm
rất nhiều nhà khoa học hiện nay, Heisenberg vẫn là một “ông thánh khoa
học số 2” sau Einstein. Tại sao một tên cai tù trong các trại giam của
Hitler bị coi là một tội phạm chiến tranh, còn những nhà bác học cung
cúc tận tụy trong việc nghiên cứu chế tạo những công cụ giết người khủng
khiếp nhất cho Hitler lại vẫn được ngự trên ban thờ của khoa học? Sự
phán xử của khoa học không đếm xỉa tới lương tri hay sao? Phải chăng đó
chính là cái mà Vương Sóc đã phải dằn giọng mà nói rằng “Sự tàn nhẫn
vô liêm sỉ nhất thế giới này đều do trí lực gây nên. Con người có thể
dùng trí tuệ đi làm những việc vô liêm sỉ”?
Tất nhiên có
những nhà khoa học có trái tim nhân bản tuyệt vời, như Pierre Curie
chẳng hạn. Trong diễn văn nhận Giải Nobel vật lý năm 1903, ông đã nói
lên lời khẩn thiết: “Tôi thuộc trong số những người muốn nói gương
Nobel, mong muốn khám phá của mình không bao giờ bị lợi dụng vào những
mục đích chống nhân loại”. Vợ chồng ông đã tặng không cho người Mỹ
công nghệ chắt lọc radium để dùng cho y học, không lấy một xu tiền bản
quyền. Loại người như vợ chồng Pierre và Marie Curie hiện nay có còn
không?
Một nhà khoa học
nữ danh tiếng khác cũng có tấm lòng nhân bản cao thượng không kém gì
Marie Curie, đó là Lise Meitner, người đã khám phá ra hiện tượng phân rã
hạt nhân (cơ chế bị lợi dụng để chế tạo bom nguyên tử). Meitner đã
nguyền rủa những nhà khoa học phục vụ cho triều đại Hitler là một lũ hèn
nhát, phản bội chính nhân dân Đức và phản bội toàn nhân loại. Bà không
kể đích danh Heisenberg, nhưng chắc chắn Heisenberg nằm trong số bị bà
coi là hèn nhát đó. Khi người Mỹ mời bà tham gia nghiên cứu chế tạo bom
nguyên tử, bà cũng từ chối: “Tôi chẳng có gì để làm với một quả bom
cả!”. Bà không muốn tham gia vào bất cứ một hành động chính trị hoặc
quân sự nào chống lại nước Đức, mặc dù bà bị chính nước Đức xua đuổi.
Đơn giản vì bà nhận thức được rằng sẽ là tội lỗi không thể sửa chữa được
nếu để cho bom nguyên tử rơi xuống đầu nhân dân Đức. Tại sao một phụ nữ
như Meitner có thể có quan điểm rất rõ ràng rành mạch về mối quan hệ
giữa khoa học và đạo đức như thế, trong khi Heisenberg và nhiều người
khác thì không?

4]
Khi nền tảng đạo đức bị huỷ hoại:
Và như chúng ta
đã thấy, cuối cùng thì vật tế thần cho những cuộc “tế lễ chính trị” của
những kẻ muốn thống trị thế giới lại là nhân dân Nhật Bản: Hai trái bom
nguyên tử rơi xuống Hiroshima và Nagasaki năm 1945 đã để lại một vết nhơ
vĩnh viễn trong lịch sử văn hoá nhân loại. Hơn bao giờ hết, lương tri bị
đánh thức:
“Ngay từ cuối
thế kỷ 19, người ta đã sớm tưởng rằng, với sự kỳ diệu của khoa học, con
người có thể sẽ biết được mọi thứ và sẽ củng cố vị trí của mình như
những chủ nhân ông thực sự của Vũ Trụ. Một kỷ nguyên hoàn toàn mới của
công nghiệp đã ra đời, dựa trên các khám phá khoa học – động cơ đốt
trong, đường sắt, điện,… Nhưng hai trái bom nguyên tử rơi xuống
Hiroshima và Nagasaki năm 1945 đã đánh dấu một cột mốc đen tối với chủ
nghĩa lạc quan đó. Chúng ta đã thực sự trở thành chủ nhân ông của hành
tinh, nhưng cũng là chủ nhân của sự tàn phá – sử dụng các hạt nhỏ nhất
mà khoa học đã biết, chúng ta đã tạo ra một cuộc khủng hoảng toàn cầu
chưa từng thấy. Ngày nay chúng ta đang phải chứng kiến một xu thế chống
đối lại khoa học. Xu thế này kết tội rằng chúng ta đang lao xuống vực
thẳm trong một tương lai chỉ toàn lặp lại những vấn nạn cố hữu của bệnh
tật, đói nghèo và chiến tranh. Việc đốt nóng bầu khí quyển, vũ khí hoá
học, nguy cơ bùng nổ chiến tranh hạt nhân, bệnh dịch như ebola, AIDS, …
tất cả những điều này đều là sản phẩm song hành (byproducts) của khoa
học trên con đường phát triển”. Đó là một trích đoạn trong phần mở
đầu chương khoa học của cuốn “Ideas that shaped our world” (Những tư
tưởng định hình thế giới của chúng ta) do Marshall Editions của Anh xuất
bản vào thời điểm bản lề chuyển từ thế kỷ 20 sang thế kỷ 21. Toàn bộ
nhận định trong cuốn sách này là nhận định mang tính tổng kết nhận thức
của nhân loại trong suốt hai thiên niên kỷ đã qua.
Thực ra không cần
phải đợi đến cuối thế kỷ 20 nhân loại mới giật mình nhận ra tính chất vô
đạo đức của nền văn hoá thực dụng vật chất. Ngay sau thảm hoạ nguyên tử
1945 đã xuất hiện rất nhiều cảnh báo của những nhân vật được coi là
thông thái bậc nhất:
Đó là cảnh báo
của Max Born, một nhà vật lý xuất sắc từng đoạt Giải Nobel vật lý năm
1954: “Khoa học và kỹ thuật phá hoại nền tảng đạo đức của văn minh,
và sự phá hoại đó là vô phương cứu chữa”(4)!.
Đó cũng là cảnh
báo của Jawaharlal Nerhu: “Con người về phương diện kỹ thuật đã vươn
tới những vì sao, nhưng lại không hề được trau dồi một tí gì về quan hệ
giữa người và người. Và chính vì lẽ đó mà nền văn hoá đạo đức xã hội tụt
lại xa đằng sau kỹ thuật”(5).
Tư tưởng của
Nerhu đã được ái nữ của ông là Indira Gandhi, người đã hai lần làm thủ
tướng Ấn Độ, nhắc lại nhiều lần dưới một dị bản khác: “Ngày nay khoa
học kỹ thuật thì tiến lên, nhưng văn hoá thì thụt lùi”.
Sự thụt lùi đó
chính là đầu mối của sự băng hoại đạo đức mà chính “ông thánh khoa học”
Albert Einstein cũng phải cảnh báo: “Hãy thận trọng đừng biến trí tuệ
thành chúa của chúng ta; nó có sức mạnh cơ bắp, nhưng phi nhân tính”.
Tại sao khoa học
“cơ bắp” được tôn sùng như chúa? Vì nó tạo ra của cải vật chất, tức là
mang lại tiền bạc và sức mạnh. Tại sao khoa học nhân văn ngày càng bị
lép vế? Vì nó lo chăm sóc phần hồn của con người, do đó không trực tiếp
tạo ra tiền bạc và sức mạnh “cơ bắp”. Một khi bị loá mắt trước tiền bạc,
con người sẽ tôn sùng cái làm ra tiền và khinh thường cái không làm ra
tiền. Đó là lúc họ đánh mất lương tri.

A. Einstein: “Hãy thận
trọng đừng biến trí tuệ thành chúa
của chúng ta; nó có sức
mạnh cơ bắp, nhưng phi nhân tính”.
“Trong thập kỷ
cuối của cuộc đời, Einstein thấy rằng chủ nghĩa tư bản, như được áp
dụng tại phương tây, đã huỷ hoại nền giáo dục bằng cách đề cao
mục tiêu chủ yếu là thắng lợi tiền bạc. Einstein nói: Một
thái độ đua tranh quyết liệt để đạt tới thắng lợi tiền bạc đã ăn sâu vào
đầu óc sinh viên”. Đó là một trích đoạn bài báo “Albert Einstein
condemns superstition and exploitation” (Einstein kết tội mê tín dị đoan
và bóc lột) của hãng Raab Collection, một hãng chuyên buôn bán những thư
từ, văn kiện, bản thảo lịch sử. Chính vì những quan điểm như thế, cộng
với thái độ chống chạy đua vũ trang, chống chủ nghĩa dân tộc, Einstein
bị cơ quan FBI của Mỹ dưới triều đại Edgar Hoover xếp vào lớp trí thức
cánh tả và bị điều tra theo dõi ngầm. Mãi đến gần đây hồ sơ này mới được
bạch hoá.

5] Bài toán
đạo đức của chúng ta:
Thưa đọc giả,
chưa bao giờ những lời phàn nàn và cảnh báo về tình trạng xuống cấp đạo
đức trong xã hội ta lại ồn ào như hiện nay. Trừ những người đang ngủ mơ
trên đống của cải tích cóp được và những kẻ ích kỷ chỉ biết đến bản
thân, còn đại đa số những người tỉnh thức và có lương tri đều không thể
ngủ yên khi phải chứng kiến những chuyện đau lòng mà báo chí và các
phương triện truyền thông đang hàng ngày đưa tin. Trong hàng đống thông
tin đó, có một ý kiến đáng chú ý. Đó là bài viết "Đạo đức năm 2007 -
Những nỗi đau không bao giờ cũ!” của Đỗ Lãng Quân trên Viettimes
ngày 24-12-2007. Xin trích đoạn:
Mở đầu là vụ
nhà hàng đặc sản thú rừng Thanh Loan ở Lương Sơn, Hoà Bình tra tấn em
gái Bùi Thị Thương … Em Thương bị kẹp cắt thịt da bằng kìm sắt,
que sắt nung nóng, bị ông chủ đánh đến ngất, ném vào chuồng lợn,
xúc phân lợn đổ vào mồm bắt phải ăn hết. Chúng ta đang sống ở thời đại
nào, thưa độc giả? … Nhưng chúng ta đã vô cảm. Bằng chứng là vụ em
Nguyễn Thị Bình, bị tra tấn suốt 13 năm trời, ngay giữa lòng Thủ đô.
Bằng lột quần áo phơi sương, bằng thúc guốc nhọn và quật cả bó dây điện”
… hai vợ chồng tên chủ quán cùng đánh, bằng dây điện chập lại, bằng kìm,
bằng sống dao, bắt lột quần áo ra để
đánh không chừa chỗ nào trên cơ thể cô thiếu nữ … Cơ thể em chằng chịt
sẹo đến mức, khi bức ảnh do một PV TTXVN chụp cái lưng trần của em đăng
tải lên báo, lên mạng, người cả trong và ngoài nước phải kinh hãi. Vợ
chồng kẻ thủ ác bị bắt, nhưng cán bộ phường, công an khu vực cũng không
thể thoát cái tội bàng quan, vô cảm đến nhẫn tâm. Họ có biết không? …
Mới đây nhất là chuyện bé gái Hồ Thị Bông, 9 tuổi, bị đối tượng chăn dắt
Hồ Thị Ba (P19, Q. Bình Thạnh, TP HCM) tra tấn, hành hạ suốt 4 năm đến
thân tàn ma dại, cái lưng em chụp trên báo đã nhuộm đỏ mắt người xem,
bên cạnh là các dụng cụ tra tấn do con dã thú cái mang hình mặt người sử
dụng … Tôi lại đặt câu hỏi:… Các vị có bao giờ hỏi han, ngắm nghía cháu
bé và nghĩ rằng cơ quan bảo vệ chăm sóc trẻ em cần xem cháu ở đâu, ở địa
ngục hay ở thiên đường chưa? Chính quyền cơ sở, nơi em Bông sinh sống,
các vị biết không? Đúng là chuyện con voi lọt qua lỗ kim. Đến lúc “trâm
gẫy bình tan” rồi thì chúng ta mới bày tỏ niềm xót thương và lớn tiếng
đòi kỷ luật cảnh cáo cái bọn mất tính người (hành hạ các nạn nhân) …
Nhưng, tôi xin hỏi: làm như vậy, có cứu vãn được cho cái tuổi thơ, tuổi
trăng tròn của bé Bình, bé Thương, bé Bông đã bị đánh cắp và nhuộm máu,
nước mắt không? Có cứu được những tổn thương, những sang chấn tâm lý (bị
sốc) của hàng triệu triệu người khi phải đọc, xem, nghe, chứng kiến sự
tàn độc kia không? … Tôi càng buốt lòng, khi mà vụ em Bình đang làm xôn
xao dư luận tột độ, Báo Lao Động kịp thời đăng tải cái lời than xót xa
và rất văn chương của bạn Phạm Thị (số ra ngày 18/11/2007): “Jean
Valjean không còn nữa. Những người đàn ông tốt trên đời này đi
đâu cả”.
Còn rất rất nhiều
chuyện đáng buồn khác, nào là ăn cắp, tham nhũng, vơ vét, bòn rút của
cải nhà nước, lừa đảo, v.v. nhưng khuôn khổ một bài báo không cho phép
kéo dài lan man, đành để một dịp khác vậy.
Nếu ai đó đến lúc
này vẫn còn cho rằng những lời cảnh báo về “đạo đức xuống cấp” là chuyện
cường điệu, “đao to búa lớn” thì nên dành thì giờ đọc cuốn “Đạo
Đức Xã Hội ở nước ta hiện nay” của Viện Khoa Học Xã Hội Việt
Nam. Nhận định quan trọng nhất trong cuốn này có lẽ nằm ngay ở Lời nói
đầu: “Đồng tiền lên ngôi, lối sống vụ lợi, vị kỷ, thực dụng, tôn thờ
các giá trị vật chất, các tiện nghi tiêu dùng và hưởng lạc, sự trỗi đậy
của chủ nghĩa cá nhân cực đoan... đã lấn át và làm xói mòn các giá trị
tinh thần, làm hủy hoại đạo đức, nhân cách … Phát triển có
nguy cơ biến thành phản phát triển bởi sự coi thường đạo đức
và các giá trị nền tảng của đạo đức xã hội khi đi vào kinh tế thị
trường. Tình trạng thương mại hóa trong lĩnh vực giáo dục, y tế đến mức
nghiêm trọng và gây ra những hậu quả tai hại. Đạo đức của người thầy
giáo và người thầy thuốc bị xâm phạm, làm vẩn đục, hoen ố các quan hệ
con người, làm tha hóa nghiêm trọng con người, đạo đức và nhân cách.
Trong bối cảnh
hiện nay, mỗi người phải làm gì và nên làm gì để đóng góp vào việc giải
bài toán đạo đức? Tôi nghĩ rằng những người có trách nhiệm quản lý xã
hội, và đặc biệt là quản lý giáo dục, có trách nhiệm lớn nhất.
Nhưng điều đó
cũng không có nghĩa là mỗi cá nhân cứ ngồi chờ sự vận động của xã hội.
Tôi cho rằng sự nghiệp giáo dục phải bắt đầu từ gia đình, bởi vì gia
đình là tế bào của xã hội. Cha và mẹ chính là những người thầy đầu tiên
của con cái. Đặc biệt trong hoàn cảnh hiện nay, khi xã hội ngày càng trở
nên phức tạp, khi nhà trường ngày càng ôm đồm quá nhiều việc, và khi nhà
trường không chú trọng đủ mức trong việc rèn luyện nhân cách cho học
trò, hoặc có chú trọng nhưng sai về phương pháp, thì giáo dục gia đình
lại trở nên tối quan trọng.
Tôi đã chứng kiến
nhiều trường hợp giáo dục gia đình quyết định sự thành đạt của con cái.
Xin kể một chuyện nhỏ:
Em Kiều Oanh học
lớp 1 đúng vào thời kỳ “cải cách chữ viết”. Bố mẹ em không tán thành chữ
viết cải cách, yêu cầu em phải viết đúng như cách viết truyền thống. Em
phản đối, nói rằng cô giáo bắt phải viết đúng như cô dạy, nếu không sẽ
bị điểm kém. Bố em nghĩ ra cách dung hoà: Đến trường em nên viết theo
cách cô giáo dạy, để khỏi bị cô trừ điểm, nhưng về nhà em phải làm đúng
như bố mẹ yêu cầu. Đến lớp 3, cô giáo lại bắt em không được viết 2m + 3m
= 5m, mà chỉ được viết 2 + 3 = 5, nếu viết kèm đơn vị đo theo kiểu
truyền thống sẽ bị trừ điểm. Một lần nữa, phương pháp “trung dung” của
bố em lại được đem ra áp dụng. Một mặt, bố em dạy em phải tôn trọng cô
giáo, mặt khác ông tìm cách “cứu” kiến thức cho con. Lớn lên, KM học
giỏi cả toán lẫn văn. Nhà trường đề nghị với gia đình nên cho em theo
lớp chuyên toán hoặc chuyên văn, nhưng bố em chỉ cảm ơn và từ chối. Ông
nói: “Ngày xưa, không cần phải có một lớp chuyên, trường chuyên nào
cả mà vẫn đào tạo ra những con người xuất sắc, có ích cho xã hội. Đó là
chưa nói đến sai lầm của nhứng lớp chuyên, trường chuyên. Họ chỉ biến
học sinh thành những cái máy thôi chứ không phải là những con người biết
suy nghĩ. Điều quan trọng nhất là phải làm cho học sinh thích học. Nếu
học sinh thích học thì chương trình phổ thông trước đây đã là quá đủ
rồi, không cần phải chuyên gì cả”. KM đã trưởng thành theo đúng bài
bản của bố, và nay đã trở thành một nhà khoa học xuất sắc. Nhưng kỷ niệm
giáo dục đáng ghi nhớ nhất trong đời KM là lúc cô lên đường đi du học
(theo học bổng). Bố cô dặn: “Con phải chú ý rằng ở nước ngoài cũng đủ
các hạng người, có cả Jean Valjean lẫn Ténardier đấy con ạ. Con phải
biết phân biệt các loại người để giao tiếp, đừng có tưởng cứ mắt xanh
mũi lõ là văn minh đâu”. Khi biết chuyện này, tôi hỏi ông: “Tại
sao anh lại dạy con như thế? Làm gì mà đến nỗi phải làm cho con cái có
ấn tượng xấu về mắt xanh mũi lõ như vậy?”. Ông trả lời: “Là vì
bây giờ xã hội ta sính Mỹ, sính Tây, sính ngoại ghê quá. Cứ nói đến Mỹ,
đến ngoại là xuýt xoa ngưỡng mộ thán phục rồi bắt chước đến mức thảm
hại. Nhiều cái lố lăng lắm. Thí dụ sính tiếng Anh đến nỗi nhập cảng cả
tiếng Anh bồi, tiếng Anh chợ búa. Rồi cứ thế ra rả ngay cả trên tivi mới
khổ chứ. Chưa bao giờ sự vô học lộ ra thảm hại như thế. Tôi lo con tôi
ra nước ngoài mà thiếu bản lĩnh để rồi cũng lố lăng như thế thì buồn
lắm, bao nhiêu công phu giáo dục sẽ vứt đi hết. Cảnh báo trước là vừa”.
Nhìn ra xã hội,
tôi buồn biết bao khi thấy các ngành đại học nhân văn bây giờ thiếu sinh
viên. Định hướng nghề nghiệp bây giờ là tiền, tiền, và tiền!
Đau đớn thay khi
chúng ta được biết có những em bé bị đối xử như con vật, mà gần đây báo
chí phanh phui tố cáo. Xét cho cùng, người có lỗi đầu tiên chính là cha
mẹ các em. Cha mẹ đã bỏ rơi các em, hoàn toàn vô trách nhiệm với các em.
Đó là chưa nói đến nhiều trường hợp bản thân bố mẹ chỉ mê cờ bạc, mê
bi-a, mê chứng khoán, mê tửu sắc, mê kiếm tiền, mê chạy chọt, luồn lọt
để kiếm chức tước, bổng lộc, v.v. chẳng mấy khi có mặt bên cạnh con cái
để tâm sự chia sẻ, mọi việc phó mặc cho nhà trường thì còn nói gì đến
chức năng giáo dục của bậc làm cha làm mẹ nữa. Chính những bậc cha mẹ đó
phải chịu trách nhiệm trước tiên.
6] Hướng tới
một nền văn hoá cân bằng Tâm-Vật:
“Thế kỷ XX là
thời đại nhân loại thu được những thành tựu to lớn, đồng thời cũng là
thời đại bộc lộ những tệ hại của văn minh hiện đại. Một mặt, nhu cầu vật
chất của nhân loại được thoả mãn ở mức trước đây chưa từng có, mặt khác,
tinh thần và tâm linh của nhân loại lại bị tổn thương ở mức trước đây
chưa từng có … Sự phân hoá lưỡng cực cao độ đưa ra trước mắt mọi người
một bức tranh về sự rất mất nhân đạo của nhân loại. Sự phát triển cao độ
của kỹ thuật … cũng thành ra một vũ khí sắc bén để nhân loại tàn hại lẫn
nhau … người ta vốn là đứa con của tự nhiên, giờ đây họ muốn lấy trí
thức và kỹ thuật làm chỗ tựa, hy vọng trở thành chủ nhân của tự nhiên.
Thế rồi họ làm những việc lay trời chuyển đất, tát đầm bắt cá, kết quả
là phá vỡ sự cân bằng sinh thái vốn có của giới tự nhiên, từ đó mà khiến
nhân loại gặp phải nguy cơ là mất đi chỗ dựa sinh tồn. Con người hiện
đại sau khi thoát khỏi gông cùm của “chủ nghĩa cấm dục” truyền thống, đi
đến chỗ phóng túng không biết đến kiêng kị là gì, cuối cùng đau đớn cảm
thấy rằng cuộc sống chẳng còn gì đáng gọi là hứng thú nữa. Ngoài ra bởi
sự chủ tể của kỹ thuật đối với con người, tác động vạn năng của đồng
tiền, sự tha hoá nhân tính và sự lầm lẫn ngọn nguồn của giá trị … không
thể không khiến người ta đau đớn cảm thấy sự chìm lấp ý nghĩa nhân sinh:
Người ta ở đời, vội vã tất tả, cũng có không ít sự lạnh nhạt, phiền
muộn, hèn kém, dối trá, thống khổ, kinh hãi, vậy ý nghĩa rốt cuộc là ở
đâu nhỉ?”.
Đó là ý kiến của
nhà nghiên cứu xã hội học Trung Quốc Lý Tường Hải, được dẫn ra ở đây để
chỉ ra rằng khuyết tật chủ yếu của nền văn hoá thực dụng vật chất đương
đại là sự thiếu hụt chữ TÂM.
Vậy, lối thoát
duy nhất cho bài toán đạo đức là bổ sung cho nền văn hoá “dương tính”
đương đại những giá trị mà nó bị thiếu hụt để đưa nó về trạng thái hài
hoà cân bằng: Cân bằng tâm-vật, cân bằng trí-đức, cân bằng đông-tây,
cân bằng cổ-kim, cân bằng âm-dương, …
Đó chính là sự
vận dụng Nguyên Lý Cân Bằng Âm Dương của Đạo học đông phương + Nguyên
lý bổ sung (Complementary Principle) của Niels Bohr
vĩ đại: “Trái ngược không phải là mâu thuẫn, mà bổ sung
cho nhau”.
Cái thiếu hụt lớn
nhất của nền văn hoá đương đại là chữ TÂM.
Việc
bổ sung chữ
Tâm ấy phải được thực hiện theo một hệ thống giáo dục mà nền minh triết
đông phương từ lâu đã chỉ rõ: “Mất Đạo phải giữ Đức, mất Đức giữ
Nhân, mất Nhân giữ Nghĩa, mất Nghĩa giữ Lễ, mất Lễ là mất hết”.
Mùa xuân 2008
Chú Thích:
(1): Einstein rất
ngưỡng mộ Phật giáo. Ông từng ca ngợi Đức Phật là nhân vật vĩ đại nhất.
(2): Xem “Phú quý phi
lễ nghĩa” của Phạm Việt Hưng trên Văn Nghệ Trẻ các số 47, 48, 49 năm
2003.
(3): Bản dịch tiếng
Việt của Vũ Công Hoan, NXB Văn Hoá Dân Tộc xuất bản năm 2000.
(4): Xem “Cảm nhận gia
đình” của Tương Lai trên Tia Sáng số 12/Tháng 7-2003
(5): Tài liệu đã dẫn
ghi chú (4).