Những bài cùng tác giả
Liệu có
người dân thành phố nào không có một gốc gác nông thôn? Người Hà Nội
cũng vậy thôi. Chuẩn bị kỷ niệm 1000 năm Thăng Long, đã có nhiều công
trình nghiên cứu Hà Nội miêu tả và phân tích kỹ về những dấu ấn của
làng quê trên gương mặt phố phường Hà Nội, tưởng chẳng phải
nói thêm. Chỉ xin được gợi lên hình ảnh phố phường Hà Nội trong các
tác phẩm của danh họa Bùi Xuân Phái, một niềm kiêu hãnh của người Hà
Nội. “Phố Phái”, một danh xưng đã đi vào lịch sử được người Hà
Nội trân trọng giữ gìn như báu vật của thủ đô. Vâng, của thủ đô, của
riêng Hà Nội không trộn lẫn vào đâu được, mặc dầu những tác phẩm nghệ
thuật độc đáo là tài sản vô giá của một quốc gia. Ngẫm cho kỹ, qua đôi
mắt thiên tài và đường nét, sắc mầu của “Phố Phái”, cảm quan thẩm mỹ
đậm đặc vẫn thức dậy trong người nhìn ngắm niềm xao xuyến giữa “phố”
và “làng”.
Một thủ
đô xinh xắn và tao nhã, “sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội, những
phố dài xao xác heo may, người ra đi đầu không ngoảnh lại, sau lưng
thềm nắng lá rơi đầy”1.
“Những phố dài xao xác heo may” ấy không là những “bin đinh” cao to và
hãnh tiến, những “villa” diêm dúa khoe mẽ cái thị hiêu giàu tiền mà
nghèo tri thức, đói thẩm mỹ. Với “Phố Phái” chỉ có mái nâu cũ kỹ chẳng
khác mấy với những mái ngói làng quê, được thăng hoa bên những gam màu
quen thuộc trong cảm thức dân dã. Nét dáng “làng” và nét dáng “phố”
quyện vào nhau, thức dậy những ý niệm sâu lắng về đất nước: nghèo,
nhưng dám là mình, từ một nền văn minh lúa nước của miền nhiệt đới gió
mùa mà chủ động và sáng tạo trong cách đi vào công nghiệp hóa , đô thị
hóa, hiện đại hóa.
Rồi đây
khi Hà Nội mở rộng gấp nhiều lần, liệu dấu ấn ấy có mờ phai đi trong
nhịp độ tăng tốc của đô thị hóa, công nghiệp hóa nhân danh hiện đại
hóa, hay lại sẽ đậm nét hơn lên với cả hai chiều kích tốt và xấu? Chắc
sẽ có nhiều kịch bản xảy ra, tùy thuộc vào nhiều yếu tố. Chuyện này
rồi đây những nhà quy hoạch, nhà quản lý với trái tim đập theo nhịp
đập của ý nguyện nhân dân cả nước và nhân dân thủ đô, được dẫn dắt bởi
một tầm tư duy tương xứng với trách nhiệm trước lịch sử dân tộc, và
trước những đôi mắt sắc sảo, đầy kinh nghiệm của thế giới hiện đại, sẽ
dày công suy nghĩ để không nảy nòi ra những kịch bản xấu về thủ đô
ngàn năm văn vật.
Cái
thế đất “rồng cuộn hổ ngồi” mà đôi mắt xanh của Lý Thái
Tổ đã nhìn thấu và đưa ra quyết định dời đô từ Hoa Lư về đây “tiện
hướng nhìn sông tựa núi. Địa thế rộng mà bằng phẳng” đúng là “nơi
thắng địa”2
bậc nhất, để nghìn năm Thăng Long sừng sững tồn tại, ghi đậm dấu ấn
của tầm nhìn vĩ nhân. Thăng Long, Đông Đô, Hà Nội qua những
biến thiên của lịch sử, từng chiêm nghiệm bao cuộc bể dâu “tạo
hóa gây chi cuộc hý trường” từng ghi lại những “dấu xưa
xe ngựa hồn thu thảo”3
hiên ngang thách thức và đánh bại mọi toan tính, mọi thủ đoạn của
những thế lực ngoại xâm đến từ mọi hướng. Trong thế trận “lấy
yếu chống mạnh, lấy ít địch nhiều”, ông cha ta đã nhiều lần
dám bỏ ngỏ thủ đô cho giặc tràn vào, quay trở về làng, cái nôi của sức
mạnh dân tộc, làng còn thì nước sẽ không mất. Từ làng mà tập họp lực
lượng, chọn thế đánh, dồn sức quật ngã kẻ thù, giải phóng thủ đô, lấy
lại nước. Những Thoát Hoan, Vương Thông, Tôn Sĩ Nghị…hùng hổ vào chiếm
Thăng Long để rồi cụp đuôi chạy về nước trong cái thế “ngựa
không kịp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp”.
Giữa
thế kỷ XX, đạo quân viên chinh xâm lược Pháp, sau Điện Biên Phủ, tiêm
tất hơn khi làm lễ cuốn cờ có kèn “bú dích” thổi lên cũng không che
được vẻ bẽ bàng của đám tàn quân thất trận, kéo theo luôn sự sụp đổ cả
hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân cũ. Dẫn đầu đoàn quân thắng
trận về tiếp quản thủ đô là người nông dân mặc áo lính, anh hùng
Nguyễn Quốc Trị. Và trong “trùng trùng say trong câu hát, lớp
lớp đoàn quân tiến về” 4
có những chàng trai Hà
Nội “bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa”5
nhưng nếu nhìn cho kỹ, thì họ chỉ điểm xuyết trong đội ngũ trùng trùng
những người nông dân rời làng quê ra đi chiến đấu, sau khi “đạp
quân thù xuống đất đen, súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa”6
chỉ một bộ phận nhỏ trong họ ở lại thành phố, số đông rồi sẽ về lại
làng quê “côi cút làm ăn, toan lo nghèo khó”
7.
Bởi lẽ,
những người nông dân mặc áo lính ấy “việc cuốc , việc cày, việc
bừa, việc cấy tay vốn quen làm”8,
vì nước lâm nguy mà phải
cầm súng. Bao đời, người nông dân vẫn phải gánh trên vai mình gánh
nặng nhất của việc dựng nước và giữ nước. Từ chính sách “ngụ binh ư
nông” đời Trần cho đến các cuộc chiến tranh chống các thế lực xâm lược
đến từ mọi hướng trong thời đại Hồ Chí Minh, nông dân vẫn là quân chủ
lực. Chuyện ấy ai cũng có thể thấy và nói được. Rồi ngay trong sự
nghiệp xây dựng đất nước, chỉ tính trong vòng hơn hai thập kỷ sau
1975, hai lần nông thôn và nông dân đã cứu nguy cho nền kinh tế đất
nước khỏi sụp đổ. Một là, vào cuối năm 1980 với sự sụp đổ của Liên Xô
và khối XNXN Đông Âu, và hai là, cuối 1990 với khủng hỏang ở các nước
Đông Nam Á. Cả hai lần, sản xuất công nghiệp, có lần cả dịch vụ đều sa
sút, có lúc tăng trưởng âm, chỉ nhờ nông dân kiên cường và nhẫn nại
trên mặt trận sản xuất, nông nghiệp phát triển, mới cứu được cho cả
nền kinh tế đã đứng bên bờ vực.
Là tác
giả của Đổi Mới với “khoán chui” dẫn đến chỉ thị 100 của Ban Bí thư và
8 năm sau có nghị quyết của Bộ Chính trị về “khoán hộ’, trả lại quyền
tự chủ cho hộ kinh tế gia đình nông dân, đem lại động lực cho sản
xuất, từ nông nghiệp và nông thôn mà đưa đến những khởi sắc cho đô thị
và công nghiệp. Thế là “cái truyền thống-nông thôn, nông nghiệp,
nông dân” đã cứu cho “cái hiện đại - đô thị, công nghiệp”
những “ bàn thua trông thấy”( nói theo ngôn ngữ của “EURO bóng
đá”), nhưng rồi sau đó, những thành quả của Đổi Mới thì dường như nông
thôn chỉ được tí chút còn đô thị hưởng trọn!
Chỉ xin
gợi lên một chút xíu về chuyện bất công đó : người thành phố được nhà
nước kéo điện vào tận giường ngủ, bật sáng ngôi nhà với bao tiện nghi
cần đến điện : tivi, tủ lạnh, máy điều hòa nhiệt độ, máy hút bụi, máy
lọc không khí…, họ chỉ phải trả tiền điện tính từ công tơ điện lắp
trong nhà. Nông dân và nông thôn thì với một hai bóng điện phập phù,
song họ phải trả tiền kéo điện từ trạm biến áp về xã, về làng, về xóm,
về nhà. Hãy chỉ làm một con tính về số tiền phải rút ra từ chiếc hầu
bao lép kẹp của người “nhà quê” trả cho việc kéo điện đó, để thấy sự
bất công bày ra thật trần trụi. Còn to chuyện ra nữa, sẽ thấy sự trần
trụi đó in đậm dấu ấn rất lộ liễu trong việc “quy hoạch” về chuyển
mục đích sử dụng đất nông nghiệp.
Chỉ cần
mở lại bộ Luật Hồng Đức đời Lê hay bộ Luật Gia Long đời Nguyễn, cũng
thấy ra được những quy định thật nghiêm cẩn và chặt chẽ trong việc
chuyển quyền sở hữu ruộng đất và sự tùy tiện trong việc nhân danh “sở
hữu toàn dân” để tước đoạt hoặc vi phạm quyền sử dụng đất của
người nông dân hiện nay. Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa năm 1946, rồi Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992 được bổ sung
năm 2001, rồi “Luật đất đai” năm 2003 cũng đều hết sức chặt chẽ
(tuy nhiên cũng còn nhiều điều cần phải hoàn thiện) trong việc quy
định sử dụng quyền sở hữu toàn dân đó. Thế nhưng, trong quá trình thực
hiện, một chữ ký của ông chủ tịch tỉnh, thậm chí chủ tịch huyện và có
khi chủ tịch xã, cũng có thể dễ dàng “thu hồi” đất của nông dân đang
sử dụng cho “mục đích công nghiệp hóa, đô thị hóa, hiện đại hóa” với
“đên bù, giải tỏa”!
Thế là,
mảnh đất mà về danh nghĩa, là “sở hữu toàn dân” này, cho dù đã bao đời
cha ông họ tưới đẫm mồ hôi và có khi cả máu trên đó, rồi nay lại tiếp
tục cày sâu cuốc bẫm trên mảnh đất ông cha để lại, trong phút chốc, do
“quy hoạch chuyển mục đích sử dụng”, họ ngỡ ngàng đau đớn phải
rời bỏ. Quá ư dễ dàng trong việc tước quyển sử dụng đất của nông dân,
cũng có nghĩa là người nông dân không được bảo vệ quyền được ghi trong
Hiến pháp và Luật Đất đai, nhưng cũng chính mảnh đất đó khi đã “chuyển
mục đích sử dụng”, được giao cho nhà đầu tư, thì lập tức được bảo
vệ thật chu đáo với tường xây bao quanh, có vệ sĩ, thậm chí cả chó
“bẹcgiê” giữ gìn chu đáo và cẩn mật. Trong chuyện công nghiệp hóa và
đô thị hóa này thì hóa ra người nông dân lại là người ít được bảo vệ
nhất, nói là vật lót đường thì cũng phũ phàng quá, nhưng rõ ràng họ
chỉ được “nhìn ngắm” những công trình “ngoạn mục” về đô thị hóa và
công nghiệp hóa đó, khi mà, như lời cảnh báo của ông Sáu Dân trong một
bài viết không lâu trước khi ông nằm xuống, họ “bị đặt ra ngoài rìa”.
Nói cho
đúng, họ cũng “được” vào đô thị đấy chứ, vào để kiếm việc làm. Họ cũng
góp vào công nghiệp hóa đấy chứ khi họ góp phần vẫy gọi các nhà đầu tư
bằng “lợi thế nhân công rẻ”, một lợi thế đau lòng! Ruộng
thiếu, lao động thừa, làm nông nghiệp không có lãi, nông dân phải rời
bỏ nông thôn ra đô thị chịu thân phận “phó thường dân” để kiếm sống.
Tuy vậy, do không tin lắm vào công việc bấp bênh ở đô thị công nghiệp
hóa, họ vẫn không nhượng quyền sử dụng mà vẫn giữ đất làm một cứu
cánh, nhỡ lúc sa cơ ở đô thị công nghiệp thì quay về làng còn có đất
làm vật “bảo hiểm”!
Cứ
quan sát kỹ các “chợ” lao động ở Hà Nội “ngàn năm văn vật”, nơi những
trai làng đứng chầu hẫu đợi người thuê để được bán sức lao động, sẽ
hiểu được phần nào thân phận người nông dân ở thành phố. Ấy thế mà,
nhớ lại hai cuộc kháng chiến, người nhà quê sẵn sàng nhường gian giữa
hoặc chiếc giường độc nhất trong căn nhà lá của họ cho người “sơ tán”,
tức là những vị khách đô thị không mời mà đến. Những người Hà Nội độ
tuổi trung niên chắc đều nếm trải kỷ niệm đó. Và, có thể nói, đây là
một kỷ niệm rất đẹp của mối quan hệ nông thôn – đô thị .
Chỉ có
điều, kỷ niệm rất đẹp ấy chỉ được diễn ra ở làng quê trước đây, khi
bom đạn đe dọa các thành phố, chứ lại không phải ở phố phường khi
triển khai công nghiệp hóa và hiện đại hóa! Nếu có chăng, nó chỉ có
thể lưu giữ trong cảm quan thẩm mỹ của nhà danh họa Thủ Đô trong những
“Phố Phái” gợi nhớ nỗi xao xuyến giữa “phố’ và “làng”!
Còn
nỗi xót xa trong hiện thực, thì theo một báo cáo tại cuộc Hội thảo nọ,
nông thôn đang trở thành bãi rác của đô thị. Những “con sông quê
hương” nước gương trong soi tóc những hàng tre”9
đang chuyển sang mầu nâu đen và bốc mùi vì chất thải công
nghiệp, chất thải đô thị xối xả trút thẳng vào. Hằng năm, lưu
vực Sông Cầu phải tiếp nhận thêm ít nhất 180.000 tấn phân hóa học và
1.500 tấn thuốc trừ sâu ! Có 800 cơ sở sản xuất công nghiệp, 200 làng
nghề và 1200 cơ sở y tế trong khu vực có mật độ dân số cao hơn hai lần
mật độ dân số cả nước. Nước thải của nhà máy giấy Hoàng Văn Thụ giữa
thành phố Thái Nguyên xả thẳng vào các nhánh nhỏ đổ ra sông Cầu mang
theo các chất ô nhiễm vô cơ, xơ sợi khó lắng và độ kiềm cao. Khu công
nghiệp gang thép này cho tuôn chảy vào sông Cầu một lưu lượng khoảng
1,3 triệu m3/năm với những chất độc hại như dầu mỡ, phenol và cyanure.
Lưu
vực sông Nhuệ-sông Đáy với mật độ dân số 874 người/km2, gấp đôi lưu
vực sông Cầu, bị nước thải đô thị xối thẳng trực tiếp làm đen ngòm
nước sông. Mỗi ngày sông Nhuệ và sông Đáy tiếp nhận khoảng 800.000m3
nước thải sinh hoạt. Riêng sông Nhuệ tiếp nhận từ sông Kim Ngưu, Tô
Lịch, sông Lù, sông Sét từ Hà Nội thải ra 400.000m3 chưa được xử lý
qua đập Thanh Liệt. Con sông Đáy thơ mộng với nước trong vắt, chảy
qua những vùng đầy ắp những danh lam thắng cảnh, chùa chiền, miếu mạo,
đền thờ, di tích lịch sử cùng với những con sông Châu Giang, sông
Tích, sông Hoàng Long, sông Đào từng tắm mát tâm hồn bao thế hệ cư dân
Hà Nội, Hà Tây, Hà Nam, Nam Định, Hòa Bình, Ninh Bình thì nay đang
chuyển màu, khô kiệt và hôi thối. Không khéo đến “ngựa đá”
trong “lưỡng hồi lao thạch mã” từ bài thơ của ông vua
anh hùng thời Trần lao ra, cũng đến chết chìm trong dòng sông ô nhiễm
thời hiện đại đang lượn sát vùng đất thiêng Tức Mạc, nơi phát tích của
khí phách Đông A.
Hai
câu hỏi được đặt ra cũng trong cuộc Hội thảo nói trên : Có nhất
thiết buộc phải đánh đổi một nông thôn xanh tươi và hài hòa với
thiên nhiên, nơi ấp ủ nền văn hóa truyền thống dân tộc, nơi nuôi dưỡng
sự trong lành, ấm áp của tuổi thơ bao thế hệ Việt Nam, để đổi lấy
những ngôi nhà bê tông vô hồn đang kệch cỡm mọc lên, phô ra cái thị
hiếu hạ cấp, đổi lấy một lối sống lai căng ngấu nghiến những cặn bã
của văn minh đô thị chưa kịp tiêu hóa, những hàng rởm, hàng giả độc
hại, đổi lấy những dòng sông đen ô nhiễm và cạn kiệt nguồn nước tưoi
mát bao đời tắm tưới, thanh lọc tâm hồn Việt Nam, nuôi dưỡng và bồi
đắp bản sắc văn hóa dân tộc? Câu thứ hai : Chẳng nhẽ lại vô ơn
đến thế với người nông dân sao ?
Để đi
tìm câu trả lời, người đặt câu hỏi ấy đã đưa ra một tổng kết khái quát
về “Mười cái nhất” của người nông dân : Cống hiến nhiều
nhất. Hy sinh lớn nhất. Hưởng thụ ít nhất. Được giúp kém nhất. Bị
đè nén thảm nhất. Bị tước đoạt nặng nhất. Cam chịu lâu dài nhất. Tha
thứ cao cả nhất. Thích nghi tài giỏi nhất. Năng động khôn ngoan nhất.
Câu
chuyện đô thị và nông thôn còn dài dài, xin hãy tạm dừng ở đây, có dịp
xin bàn tiếp.
Chú thích
:1 và 6 Thơ Nguyễn
Đình Thi 2.Chiếu dời đô của Lý Thái Tổ. 3.Thơ Bà huyện Thanh Quan
4. Lời trong Nhạc Văn Cao. 5 Thơ Chính Hữu. 7 và 8. Văn tề Ngĩa sĩ
cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu. 9 Thơ Tế Hanh
Đã
đăng trên Nguyệt San Hà Nội Mới “Hà Nội ngàn năm”
©
http://vietsciences.free.fr
và http://vietsciences.org
B
|