Nguyễn Anh Tuấn
phỏng vấn Ngô Vĩnh Long, Nguyễn Quang A, Phạm
Chi Lan
Trao đổi về những vấn
đề nóng của 2008, các chuyên gia đều thống nhất: Cải tổ giáo dục không
thể chậm trễ được nữa bởi xã hội không đủ kiên nhẫn để chờ đợi lâu. Việc
có thể làm ngay lập tức là giảm tải chương trình học phổ thông. Theo các
chuyên gia, đã đến lúc "con trâu phải chỉ đạo cái cày rẽ theo hướng mình
muốn".
Từ cấp 1 đến cấp 3 chỉ
dạy 7-8 môn là đủ
Nhà báo Nguyễn
Anh Tuấn: Một vấn đề khác cũng rất được
dư luận quan tâm là cải tổ giáo dục đại học, và giáo dục ở Việt Nam nói
chung. Đây là vấn đề cũng đã bàn nhiều trong những năm vừa qua. Bạn
Nguyễn Đình Anh ở Hà Nội cho rằng: Theo
tôi, để Việt Nam trong 2008 bay lên được thì không thể chậm trễ hơn nữa
trong cải tổ giáo dục, đặc biệt là giáo dục đại học. GS. Ngô Vĩnh Long
nghĩ gì về ý kiến này?
|
GS Ngô Vĩnh Long: Đã đến lúc con trâu
phải chỉ đạo cái cày rẽ theo hướng mình muốn |
GS. Ngô Vĩnh Long: Muốn một nền giáo dục đại học nghiêm chỉnh thì
các cấp học ở dưới từ cấp 1, cấp 2, cấp 3 phải tốt. Có như vậy, lên đại
học mới tốt được. Nếu chỉ nghĩ vấn đề làm sao cho giáo dục đại học tốt
lên thì cũng chỉ làm được trong thời gian ngắn, không có gốc để phát
triển ĐH lâu dài.
Vấn đề giáo dục đại học ở
Việt Nam là một vấn đề rất lớn. Nếu đi vào chi tiết rất khó. Tuy nhiên,
tôi nghĩ, không nên cứ để cái cày đi trước con trâu mà đã đến lúc con
trâu phải chỉ đạo cái cày rẽ theo hướng mình muốn.
Việt Nam nên phát triển,
đổi mới từ thế hệ trẻ, ít nhất từ cấp 3 phải có kỹ năng học thật tốt,
nếu không lên đại học rất khó để sửa đổi.
Nhà báo Nguyễn Anh
Tuấn: Làm thế nào Việt Nam có thể cải tổ giáo dục trong khi bản
thân chất lượng giáo viên chưa đảm bảo, thiếu và đã quen trong một môi
trường sư phạm kiểu cũ, rất khó thay đổi?
GS. Ngô Vĩnh Long:
Tất nhiên không thể đổi mới được mọi thứ cùng một lúc. Nhưng theo tôi có
thể bắt đầu từ một khu đặc biệt để làm mẫu rồi nhân lên sau đó mới làm
tràn lan.
Nhà báo Nguyễn Anh
Tuấn: Có cách gì làm đồng loạt không?
GS. Ngô Vĩnh Long:
Làm tràn lan ta không có sức nên phải làm thí điểm.
Điều này không có nghĩa
chỉ thí điểm ở 1,2, 3 trường mà có thể thí điểm lớn hơn, tập trung thành
một khu vực. Tôi thấy chương trình học hiện nay của ta quá tải. Không có
lý do gì mà học sinh phải học mười mấy hai chục môn khác nhau. Các em
học như vậy có giỏi hết các môn thì lên đại học cũng đuối sức.
Việt Nam nên xem ở các
trường nước ngoài người ta dạy con cái họ như thế nào rồi học theo để
làm tốt hơn. Cấp 1, cấp 2, cấp 3 nên học 7 đến 8 môn là đủ, học nhiều
vừa quá tải vừa mất thì giờ của các em và cả thầy cô nữa. Đó cũng là một
cách thí điểm không phải ở một số trường mà nên thí điểm dạy một số môn
trọng tâm, dạy những vấn đề cần thiết, đừng dạy những thứ vô bổ nữa.
Xã hội không đủ kiên
nhẫn để chờ đợi quá lâu
Nhà báo Nguyễn Anh
Tuấn: TS. Nguyễn Quang A nghĩ thế nào về giải pháp này?
|
Ts
Nguyễn Quang A: Cải cách giáo dục không thể tính một, hai năm mà
giải quyết được. Đó là một hệ thống rất lớn, đụng đến hàng chục
triệu con người và phải làm rất thận trọng. |
TS. Nguyễn Quang A: Tôi nghĩ rằng là vấn
đề giáo dục là một vấn đề rất lớn. Cải cách giáo dục không thể tính một,
hai năm mà giải quyết được. Đó là một hệ thống rất lớn, đụng đến hàng
chục triệu con người và phải làm rất thận trọng.
Cách tiếp cận cần thiết
là phải rà soát lại xem có những biện pháp tức thời, theo kiểu "chữa
cháy" để đáp ứng nhu cầu thực tiễn trước mắt của doanh nghiệp. Bên cạnh
đó phải tính đến những biện pháp lâu dài để cải tổ toàn bộ hệ thống giáo
dục.
Riêng đối với đại học và
dạy nghề, trong vài 3 năm có thể chuyển ngay thành người lao động. Do
đó, hướng dạy nghề nên tập trung hơn nữa vào mở rộng tiếp cận thị
trường, để khu vực tư nhân, nước ngoài có thể tham gia vào đào tạo để
huấn luyện công nhân ở bậc kĩ thuật nhanh chóng, để cho những em học
sinh học học cấp 2, hay học hết PTTH có thể nhanh chóng trong vài năm có
thể bổ sung những kỹ năng cần thiết, bổ sung cho lực lượng lao động
ngay. Cải tiến sớm những chuyện về ĐH sau 4 năm là có thể tạo sự thay
đổi.
Cải cách cả hệ thống là
chuyện rất lớn, từ chuyện mẫu giáo cho đến tiểu học, THCS, THPT. Hệ
thống phía dưới này hoạt động không hữu hiệu thì hệ thống bên trên: cao
đẳng, trung cấp kĩ thuật hay đại học rất khó chuyển biến.
Vấn đề hệ thống giáo dục
phức tạp và rất khó. Việt Nam cần có nghiên cứu thấu đáo, tìm biện pháp
khả thi có thể thực hiện được ngay và có những kế hoạch làm dài hơi.
Viện IDS cũng đang tiến
hành một đề tài nghiên cứu về vấn đề này. Chúng tôi mong muốn nhận được
ý kiến đóng góp của học giả trong, ngoài nước để khoảng 6 tháng nữa, khi
kết thúc đợt 1 đề tài có thể nêu ra được những kiến nghị sơ bộ.
Cải cách cả hệ thống giáo
dục thì không thể tính bằng vài ba hay 5 năm được. Đó là một hệ thống
rất lớn, rất phức tạp, làm không khéo thì rất là rắc rối.
|
Bà Phạm Chi Lan:
Xã hội không đủ kiên nhẫn để chờ đợi quá lâu |
Bà Phạm Chi Lan: Giáo dục là vấn đề bức xúc của tất cả mọi người
trong xã hội này, không trừ một ai. Không những người lớn quan tâm, mà
đến trẻ nhỏ cũng quan tâm ở mức độ rất cao. Ngay cháu nội tôi đang đi
học lớp 4, 10 tuổi cũng bức xúc về cách dạy trong nhà trường hiện nay,
chương trình học quá nặng đối với một đứa trẻ.
Nếu chờ đợi quá lâu để mà
làm theo một cách cẩn trọng, thời gian rất dài như TS. Nguyễn Quang A
nói thì xã hội ta có lẽ không đủ kiên nhẫn để mà chờ đợi.
Tất cả những nhu cầu về
phát triển kinh tế, phát triển con người, những cọ xát của chúng ta với
thế giới bên ngoài liên quan đến thân phận từng người một đang đến ngày
một dồn dập hơn. Đó là điều bức xúc ngay trước mắt chứ không phải dài
hạn.
Một số giải pháp ngay
trước mắt, ta có thể làm được, ví dụ như giảm tải ở chương trình phổ
thông như GS. Ngô Vĩnh Long vừa nói, hoàn toàn có thể làm được. Tại sao
phải dạy tới 18, 20 môn mà sao không thể bớt đi.
Tôi nhớ không sai thì Bộ
trưởng Nguyễn Thiện Nhân cũng từng nói ngay cả người lớn bây giờ làm
việc khi nào nào cần vẫn phải giở sách tra cứu lại , tại sao lại bắt trẻ
con học thuộc tất cả những thứ đó, nhồi vào đầu nó những điều đó? Những
gì chưa thiết thực lắm, có thể học được trong lâu dài thì có thế cắt bớt
đi.
Tôi nghĩ là chuyện giảm
tải là chuyện có thể làm ngay được. Bây giờ, từ học sinh lớp 1 trở đi là
đã rất vất vả trong chương trình học ở trường rồi.
Chúng ta cũng không phải
nghiên cứu gì nhiều. Nhìn sang các nước láng giềng, không thiếu những
gia đình Việt Nam đang gửi con em từ cấp 2 sang học ở Singapore, và một
số nước xung quanh, hoặc một số người đi công tác nước ngòai mang theo
con em đi học. Chúng ta có thể nhìn ngay ra trong các chương trình học,
những gì đang là thừa so với nước ngoài thì cắt bớt đi. Cần để các cháu
tập trung vào học những gì thật cần, tạo được thói quen, yêu thích học
tập, và ham muốn học tập quan tọng hơn. Cách học tập quá nặng thế này
gây tâm trí sợ đến trường cho trẻ con.
Điều cần nhất là phải
giáo dục cho mỗi người Việt Nam ý thức cần phải trau dồi kiến thức không
ngừng. Việc này có thể làm được ngay. Tôi nghĩ là không quá khó. Nếu chờ
đợi tuần tự hoặc chờ quá dài cho các nhà nghiên cứu giáo dục đưa ra được
giải pháp thì sẽ là quá trễ đối với nền kinh tế cũng như đối với xã
hội.
TS Nguyễn Quang A:
Tôi cũng đồng ý với chị Chi Lan, có những cái là mình thấy bất hợp lý
ngay thì có thể sửa ngay lập tức. Như anh Phạm Toàn có nêu một một ý
kiến rất là lí thú: trẻ con Nhật và Trung Quốc phải học đến 5, 6 năm năm
thì mới có thể đọc thông viết thạo, nhưng đối với trẻ con Việt Nam thì
nếu có phương pháp dạy thì trong vòng 1 năm, năm rưỡi hoặc 6 tháng là có
thể đọc thông thạo được. Anh ấy đặt vấn đề là tại sao phải học 12 năm?
Nếu gọt bớt được chương trình học đi, những thứ không cần thiết thì
chúng ta có thể tiết kiệm được một vài năm. Thời gian đó là để học sinh
đi làm việc có ích hơn. Đó là một ý kiến tôi nghĩ là nên xem xét.
Bạn Nguyễn Thành Nam,
TP. HCM: Tôi thấy trong lúc chúng ta
đang hô hào cải tổ giáo dục và giáo dục chất lượng cao, mà chúng ta đang
thiếu những chương trình đào tạo thạc sĩ chính sách công. Trong khi đó,
tại TP. HCM có trung tâm Fulbright với ĐH kinh tế là một chương trình
rất hay. Tại sao không công nhận và không nhân rộng mô hình đó ra?
TS Nguyễn Quang
A: Tôi nghĩ là người nào đã học và chỉ cần
có chứng chỉ của trường Fulbright còn giá trị hơn nhiều các loại bằng
của những cơ sở chính thức khác. Đây là vấn đề tư duy của người sử dụng
lao động. Đối với khu vực tư nhân, tôi nghĩ rằng họ không nặng nề lắm về
chuyện bằng cấp, mà chú ý hơn đến thực lực, tri thức thực. Trong khu vực
nhà nước, đây là một căn bệnh trầm kha của nền hành chính Việt Nam.
Nhà báo Nguyễn
Anh Tuấn: Nhưng chính sách công lại
phục vụ cho nhà nước là chính. Khi nhà nước là người sử dụng nhưng lại
không công nhận bằng cấp đó, thì làm sao sử dụng những con người đó?
TS Nguyễn Quang
A: Phải hỏi Bộ trưởng Bộ Nội vụ thì mới
trả lời một cách kĩ hơn. Còn chúng tôi chỉ có thể phán đoán.
Bà Phạm Chi Lan:
Theo tôi được biết qua làm việc với một số người, thì những người học ở
chương trình Fulbright, kết hợp với trường ĐH Kinh tế TP. HCM đến nay
vẫn chưa được cấp bằng thạc sĩ chính thức. Tuy nhiên, về các địa phương,
về các cơ quan làm việc thì phần nhiều đã phát huy được tác dụng rất
tốt, được các cơ quan đánh giá là những người có chất lượng.
Ở đây, tôi cũng cảm nhận
được ở một số cơ quan đã thấy được vấn đề chất lượng mà không nhất thiết
phải thể hiện qua bằng cấp. Xu hướng này nên phổ biến rộng hơn trong xã
hội.
Mô hình phối hợp như
Fulbright là cách mà chúng ta nên học hỏi và nhân rộng ra, bởi vì đây là
một cách đào tạo thực sự hữu hiệu và rất coi trọng về chất lượng của
những người được đào tạo. Chính những nơi sử dụng cũng đánh giá được
chất lượng.
Về chuyện văn bằng, ở
nước ta tồn tại một nghịch lí là không thiếu những người nhiều bằng,
bằng cao, nhưng không có năng lực. Những người này không chỉ khu vực tư
không sử dụng được mà ngay cả khu vực công cũng rất khó có thể xài.
Nhà báo Nguyễn
Anh Tuấn: Như vậy cải cách giáo dục
cũng còn là tư duy sử dụng con người?
TS Nguyễn Quang
A: Tôi có thể gợi ý một cái mẹo để lách
qua những khó khăn về cái chuyện sính bằng cấp của ta: trường Kinh tế
TP. HCM hay Kinh tế Quốc dân không ký với Fulbright một hợp tác gì đấy,
trên cơ sở những chứng chỉ anh học ở đây, thêm một chứng chỉ khác là lập
tức tôi cấp một bằng thạc sĩ. Việc này tạo được điều kiện cho những
người theo học kiến thức, vừa có bằng cấp. Đây chỉ là một gợi ý.
Nhà báo Nguyễn
Anh Tuấn: Có thể thấy, giáo dục là vấn
đề bức thiết, trong năm 2008 buộc phải làm đến nơi đến chốn. Hy vọng IDS
có thể có những giải pháp hữu hiệu về cải cách giáo dục Việt Nam trong
những năm tới.
Bà Phạm Chi Lan:
Tôi cũng hi vọng là có thể góp thêm tiếng nói và công sức của rất nhiều
người ở các tổ chức khác nhau đang làm về lĩnh vực này. |