Những bài cùng tác giả
1. Vấn đề trí thức nói cho cùng là vấn đề giáo dục.
Khi góp ý kiến về chính sách trí thức cách đây không lâu
tôi có đề nghị không nên đi sâu phân tich các yếu kém
khuyết điểm của trí thức đang làm hạn chế sự đóng góp
của họ vào công cuộc chấn hưng đất nước, mà nên suy nghĩ
xem vì đâu dân tộc VN vốn thông minh không kém nhiều dân
tộc khác, mà chí khí kiên cường càng không nhường ai,
lại chưa có được một lớp trí thức xứng đáng ? Thời thế
tạo anh hùng thì cũng thời thế, cơ chế tạo ra phẩm chất
người trí thức. Nói rõ hơn là hoàn cảnh chính trị xã
hội, là bản lĩnh, tài năng các nhà lãnh đạo quốc gia, và
một phần chính yếu, là môi trường giáo dục đương thời.
Sau nhiều năm Phần Lan nổi lên với những thành thựu kinh
tế, khoa học, công nghệ làm cả thế giới khâm phục, người
ta phát hiện ra cái gốc của sự thịnh vượng ấy là giáo
dục. Ba phần tư thế kỷ qua, nước Mỹ đã chiếm vị trí số
một trên hầu hết mọi lĩnh vực khoa học, công nghệ then
chốt. Nếu nói trí thức là nói tài năng thì không đâu tài
năng nở rộ nhiều như ở Mỹ. Nhiều người chúng ta bất
bình, phẫn nộ chính đáng với một sô chính sách nước lớn
có khi quá tàn bạo của giới cầm quyền Mỹ, song vẫn chưa
bao giờ hết ngưỡng mộ trí tuệ và tài năng của trí thức
Mỹ mà những mầm mống thịnh vượng đã nẩy nở từ những đại
học đầu tiên khi Mỹ mới lập quốc. Đọc thư của Tổng
Thống Pháp gửi các nhà giáo Pháp, đọc bài diễn văn nhậm
chức của bà Chủ Tịch ĐH Havard, càng thấy rõ vấn đề trí
thức nói cho cùng là vấn đề giáo dục. Nước Pháp muốn
khôi phục truyền thống văn hóa rạng rỡ của mình từ Thế
kỷ Ánh Sáng, nước Mỹ muốn tiếp tục dẫn đầu trong thế kỷ
văn minh trí tuệ, đều thấy cần dựa vào trụ cột giáo dục.
Mà trong giáo dục thì quan trọng trước hết là tư duy cơ
bản về giáo dục, tức là triết lý giáo dục, đương lối
giáo dục.
2. Về triết lý giáo dục.
Nhìn lại lịch sử hình
thành lớp trí thức VN qua các thế hệ, tôi vẫn băn khoăn
một câu hỏi lớn: tại sao trong hơn 80 năm qua, hình như
chưa có thế hệ trí thức nào vượt qua được về tài năng,
trí tuệ và cả phẩm chất nhân cách, thế hệ trí thức những
năm 30-45 thế kỷ trước – thời kỳ Tự Lực Văn Đoàn, trào
lưu Thơ Mới, có các nhạc sĩ Văn Cao, Đặng Thê Phong, có
các nhà khoa học, giáo dục hiện đại Đặng Thai Mai, Hoàng
Xuân Hãn, Tạ Quang Bửu, Lê Văn Thiêm, Tôn Thất Tùng, Hồ
Đắc Di, Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Văn Huyên, Trần Đức
Thảo, có những nhà hoạt động chính trị Phạm Văn Đồng, Võ
Nguyên Giáp, Phan Thanh, v.v. Hầu hết những trí thức
này đều học trường Pháp ra, mà sao tinh thần dân tộc rất
cao và năm 1945 tuyệt đại bộ phận họ đều đứng trong hàng
ngũ cách mạng để chống lại thực dân Pháp. Điều đó tựa hồ
mâu thuẫn với quan niệm phổ biến xưa nay là nhà trường
thực dân chỉ cốt đào tạo ra những người làm tay sai cho
thực dân.
Trong khi đó, các thế hệ trí thức được đào tạo sau này ở
Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa cũ một cách bài
bản, lớn lên trong nền giáo dục thấm nhuần lý tưởng xã
hội chủ nghĩa cao đẹp, hàng ngày được gián tiếp hay trực
tiếp bồi dưỡng tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội,
yêu lao động, ghét bóc lột, xả thân vì dân vì nước,
v.v.. mà sao có vẻ như phẩm chất không được như ta kỳ
vọng. Dường như có cái gì không thật, có cái gì chưa ổn
lắm, cho nên gặp hoàn cảnh không thuận lợi thì bộc lộ
nhiều nhược điểm. Chúng ta có nhiều tiến sĩ, giáo sư và
gần đây rộ lên cả mấy tá viện sĩ (chức danh này chưa có
ở VN, nhưng nếu muốn trưng ra thì cả nước hiện nay cũng
có thể trưng ra cả nghìn viện sĩ kiểu này chứ không it),
rồi lại có cả những “bộ óc vĩ đại thế kỷ 21”, nhiều nhân
vật trí thức xuất chúng đến nỗi đang có kế hoạch phải
dành 25 hecta đất vào thời buổi đất quý hơn vàng, để xây
một Văn Miếu hiện đại mới đủ chỗ vinh danh bấy nhiều bậc
đại trí. Thế nhưng có ai dám chắc cái gia tài trí thức
lớn ấy sau này sẽ được con cháu hoan nghênh khi đất nước
đến hồi hưng thịnh ?
Đó là cái nghịch lý cần phân tích và lý giải khi bàn về
giáo dục và đào tạo. Riêng tôi nghĩ rằng nền giáo dục,
văn hóa Pháp mà thế hệ trí thức tiền bối 30-45 đã được
hưởng thật sự là một nền giáo dục tiên tiến thời đó.
Cái phần thực dân trong nền giáo dục ấy chỉ là cái vỏ
ngoài do bọn thực dân áp đặt ở thuôc địa mà cũng chỉ có
tác dụng rất hạn chế, còn cái phần nhân văn, cái phần
văn hóa cơ bản, cái phần thật sự là tinh túy trong triết
lý giáo dục của nó thời đó thì ai tiếp thu được đều tốt
cho họ, cho đất nước họ, cho nhân dân họ, không cứ là
cho người Pháp, cho nước Pháp. Có lẽ chính vì nhìn thấy
điều ấy mà Phan Chu Trinh đã sáng suốt đề ra : hưng dân
trí, chấn dân khí, hậu dân sinh. Giờ đây khi mà văn hóa,
giáo dục đã lệch pha quá xa với kinh tế, đã đến lúc
chúng ta phải suy nghĩ nghiêm túc vê đường lối, triết lý
giáo dục, chứ không phải chỉ bàn chuyện nay “hai
không”, mai “năm không”, v.v. Những việc này cũng cần
làm để khởi động dạo đầu cho công cuộc cải cách, nhưng
sa đà vào đó mà quên đi cái côt lõi sẽ có tác dụng ngược
lại.
Không thể máy móc vơ đũa cả nắm, nhưng có một sự thật là
dường như phần lớn những cán bộ được đào tạo ở Liên Xô
và các nước xã hội chủ nghĩa trước đây đều thiếu căn bản
về văn hóa phổ quát. Tư duy của họ chỉ phát triển theo
một đường ray mà hễ ai trật ra là nguy hiểm. Cho nên trừ
những người ý thức được điều đó, còn số khá đông thường
chỉ là những chuyên viên kỹ thuật được trang bị một số
vốn kiến thức kỹ thuật, chuyên môn hẹp nào đó, ở thời
đó, và cũng rất mau lạc hậu, nhưng thiếu một nhãn quan
rộng, thiếu một tầm nhìn ra ngoài ngành nghề hẹp của
mình, cho nên bị hạn chế ngay trong việc phát triển
chuyên môn, và càng bị hạn chế đứng trước những vấn đề
xã hội, văn hóa không thuộc phạm vi chuyên môn hẹp của
mình. Hầu như mỗi người chỉ biết việc của mình, chỉ lo
cho mình, it khả năng và cũng không thich thú hợp tác
với bạn bè đồng nghiệp. Dễ bị lâm vào thế ếch ngồi đáy
giếng, dễ mắc bệnh vĩ cuồng, không hòa nhập vào dòng
chảy văn minh của thời đại, không chấp nhận luật chơi
quốc tế, rồi ngày càng tụt hâu mà vẫn tự ru ngủ mình, tự
đánh lừa mình, và đánh lừa nhân dân mình với những
thành tich không có thật. Chạy theo danh hão, chạy theo
quyền lực, chạy theo chức tước, là căn bệnh thời đại của
trí thức VN. Chưa bao giờ trong xã hội ta có nhiều Xuân
Tóc Đỏ như bây giờ. Tôi nói có vẻ bi quan, nhưng thà
nhìn khắt khe môt chút để biết người biêt ta, còn hơn
nhắm mắt chủ quan một cách lố bịch.
3. Những sai lầm làm tha hóa giáo dục.
Trở lại
vấn đề giáo dục hiện nay của ta, điều tôi lo lằng nhất
là sự tha hóa trầm trọng của nó. Nói khủng hoảng nhưng
nét chính của khủng hoảng ấy là sự tha hóa, biến chất.
Giáo dục có nguy cơ trở thành phản giáo dục. Có nhiều
nguyên nhân nhưng trực tiếp làm tha hóa giáo dục có ba
sai lầm lớn có thể gọi là sai lầm hệ thống trong
quản lý giáo dục.
Sai lầm
đầu tiên tai hại nhất là chính sách đối với người
thầy dựa trên quan niệm lệch lạc về sứ mạng và vai
trò người thầy trong nền giáo dục hiện đại. Phê phán tư
duy lạc hậu trong nhà trường cũ gán cho thầy quyền uy
tuyệt đối, biến giáo dục thành quá trình truyền đạt và
tiếp thu hoàn toàn thụ động, là đúng.. Nhưng từ đó đã
xuất hiện tư duy cực đoan ngược lại, phủ nhận vai trò
then chốt của thầy đối với chất lượng giáo dục. Với cách
hiểu giáo dục thô sơ nặng về cảm tính, khi thì nhấn mạnh
một chiều “học sinh là trung tâm”, khi khác tôn chương
trình, sách giáo khoa lên địa vị “linh hồn giáo dục”,
nhận định chất lượng đại học thấp “không phải do thầy mà
do chương trình”, v.v. dẫn đến hoàn toàn xem thường việc
xây dựng đội ngũ thầy giáo theo chuẩn mực chuyên môn và
đạo đức hiện đại. Trong mọi khâu từ đào tạo, tuyển chọn
đến sử dụng và bồi dưỡng người thầy, khâu nào cũng phạm
sai lầm lớn. Đặc biệt tệ hại là chính sách lương.
Ngay từ đầu đã bỏ qua kinh nghiệm muôn thuở “có thực mới
vực được đạo”, trả lương cho thầy cô giáo dưới mức sống
hợp lý, lấy cớ ngân sách eo hẹp (thật ra chỉ là do tham
nhũng và sử dụng ngân sách không hợp lý), bỏ mặc các
thầy cô “tự cứu” kiếm thêm thu nhập bằng mọi cách (dạy
thêm, làm thêm, đến nỗi không hiếm giảng viên đại học
dạy sô trên 30 giờ/tuần). Có thê nói không quá đáng tất
cả những căn bệnh trầm trọng: gian dối, tiêu cực, dối
trá, lãng phí, quan liêu… hiện đã đi vào xương tủy của
giáo dục mà không một phong trào “nói không” nào có thể
chữa trị được đều có nguồn gốc sâu xa liên quan tới cái
lỗi hệ thống cơ bản này.
Sai lầm thứ hai là tập trung tất cả việc dạy và học
vào thi cử, nói rõ hơn là thay vì thi, kiểm tra
thường xuyên nghiêm túc từng học phần để bảo đảm kết quả
học tập vững chắc và thực chất thì dồn hết cố gắng vào
các kỳ thi tốt nghiệp, thi “quốc gia” nặng nề, căng
thẳng, rất hình thức mà thiếu nghiêm túc, sinh ra hội
chứng thi rất đặc biệt của giáo dục VN: gần thi mới
lo học, học đối phó, học nhồi nhét chỉ cốt để thi, thi
cái gì học cái nấy, thi thế nào học thế ấy, chủ yếu là
học thuộc lòng các loại bài mẫu, các đáp án mẫu. Trước
đây thi theo bộ đề thi cho sẵn, nay bộ đề thi biến tướng
thành các bảng “cấu trúc đề thi”. Nghĩa là tư duy có
thay đổi gì đâu, sau hai mươi năm trời tốn bao công
nghiên cứu (có cả một cục khảo thí chuyên lo chuyện này
!), cuối cùng gần như quay trở lại điểm xuất phát. Tệ
hơn, tổ chức thi ngày càng rắc rối, phức tạp, tiềm ẩn
nhiều bất công mới (kỳ thi THPT 2009 thí sinh sẽ phân
thành it nhất bảy nhóm, với những đề thi khác nhau !).
Mặc cho sự can ngăn của nhiều người, hình thức thi trắc
nghiệm vẫn được áp dụng vào một số môn thi tốt nghiệp
THPT, rồi giữa lúc thầy giáo và học sinh đang vất vả học
làm quen với hình thức thi này thì đùng một cái cấm dùng
hình thức trắc nghiệm vào thi học kỳ. Không hiểu giáo
dục là cái gì mà quản lý có thể tùy hứng như thế. Đem
buộc việc học vào việc thi, rồi tổ chức thi thay đổi
xoành xoạch, biến thi chứ không phải học trở thành hoạt
động giáo dục chủ yếu. Có thể nói không ngoa cứ mỗi mùa
thi là cả xã hội đi thi với con em mình. Từ đó đẻ ra
những dich vụ kỳ lạ hiếm thấy: kỹ nghệ “phao” thi, thi
thuê, viết luận án thuê, làm bằng giả, bằng thật nhưng
học giả, v.v. Chưa kể nếu tính hết mọi khoản chi trực
tiếp và gián tiếp phục vụ cho các kỳ thi thì lãng phí
lên tới con số khủng khiếp, bình thường đã khó chấp
nhận, với tình hình kinh tế suy giảm càng khó chấp nhận
hơn. Cho nên chừng nào còn học và thi kiểu nầy thì xã
hội sẽ còn phải trả giá nặng nề cho sự tụt hậu của giáo
dục. Nhiều nước như Trung Quốc hay Hàn Quốc, thi còn nhẹ
nhàng hơn ta mà họ đã phê phán cái “địa ngục thi cử” của
họ, còn thi cử như ta không biết phải gọi là cái địa
ngục gì.
Sai lầm thứ ba là chạy theo số lượng, hy sinh chất
lượng, bất chấp mọi chuẩn mực, thông lệ và kinh
nghiệm quốc tế, khiến việc hội nhập khó khăn và
không cạnh tranh nổi ngay với các nước trong khu vực.
Đây chính là bệnh thành tích, chứ không là gì khác. Phát
triển số lượng thì dễ, nhất là khi người dân khao khát
học tập như trong xã hội ta. Chỉ đảm bảo chất lượng mới
khó, vậy nên cứ chọn cái dễ mà làm, dễ gây ấn tượng, dễ
báo cáo thành tich. Trên đã vậy thì làm sao chống được
bệnh thành tích ở dưới. Trong khi chất lượng rớt thê
thảm mà có người còn muốn làm quân sư bênh vực bệnh
thành tích, viện lẽ chỉ nhấn mạnh chất lượng lúc này là
xa xỉ (!), thì không biết theo hướng phát triển đó giáo
dục và khoa học sẽ thoái hóa đên chừng nào. Nguy hại
nhất là căn bệnh này đã đẻ ra hàng nghìn tiến sĩ giấy,
hàng trăm GS, PGS hữu danh vô thực, dần dần xóa nhòa
ranh giới giữa thật và giả, giữa người có thực tài với
kẻ bất tài, tạo điều kiện cho loại sau dần dần chiếm các
vị trí then chốt trong các cơ quan quyền lực ở mọi
ngành. Trong thời đại toàn cầu hóa, muốn hội nhập quốc
tế mà không hiểu biết và tôn trọng luật chơi, trước hết
là các quy tắc, chuẩn mực, thông lệ quốc tế, thì thất
bại là chắc chắn. Thế nhưng từ các chuẩn mực thông
thường nhất về cơ sở vật chất, đội ngũ giảng dạy, cho
đến tuyển sinh thạc sĩ, tiến sĩ, đánh giá công trinh
nghiên cứu khoa hoc, đánh giá GS, PGS, đánh giá các
đại học v.v. phần lớn đều không theo những chuẩn mực
quốc tế mà dựa vào những tiêu chí tự sáng tác, nặng về
cảm tính thô sơ, rất thấp và rất khác so với quốc tế.
Trong tình hình những cơ quan quản lý chất lượng then
chốt đều thiếu chuyên nghiệp mà lại ồ ạt lao vào việc
kiểm định thì liệu kết quả kiểm định có ích gì, không
khéo chỉ là một việc hình thức nhưng ngốn một khoản ngân
sách không nhỏ. Còn nhớ có lần Thụy điển làm một cuộc
kiểm định về khoa học đã phải bỏ tiền mời các chuyên gia
ngoại quốc, mà trình độ họ đâu có kém ai, còn Pháp hơn
hai mươi năm về trước khi kiểm định đại học đã thành lập
cả một ủy ban quốc gia gồm những nhà khoa học hàng đầu
của các ngành, đủ thấy không thể coi thường việc này.
Không phải điều gì Mỹ làm được thì ta cũng phải làm y
như họ. Sự thiếu hiểu biết và coi thường các chuẩn mực
quốc tế còn thể hiện trong nhiều chủ trương khác, từ
việc xây dựng đại học đẳng cấp quốc tế đến mục tiêu năm
2020 lọt vào top 200 trên thế giới (có vị còn nôn nóng
muốn đạt mục tiêu ấy trước 2020 !). “Điếc không sợ súng”
đó là căn bệnh cố hữu của ngành giáo dục, xưa nay vẫn
đồng hành với bệnh thành tích.
Tất cả các sai lầm hệ thống nêu trên khiến giáo dục dần
dần biến chất, xuống cấp, xa rời tất cả những giá trị
cao quý còn sót lại từ quá khứ. Xu hướng tha hóa ấy nếu
cứ phát triển sẽ có nguy cơ dẫn đến những quái thai giáo
dục, trường chẳng ra trường, thầy chẳng ra thầy, đến lúc
ấy sự sụp đổ hoàn toàn khó có thể cứu vãn.
Đã trích đăng trên Tia Sáng
©
http://vietsciences.free.frr
và http://vietsciences.org
Hoàng Tụy
|