Những bài cùng tác giả
Vừa qua tôi được biết có hội thảo của Trung Ương Đảng về Đội ngũ trí
thức Việt Nam và có rất nhiều ý kiến đóng góp để xây dựng đội ngũ trí
thức Việt nam trong thời gian tới. Tôi cũng thấy có rất nhiều băn khoăn
về định danh trí thức còn chưa thực sự rõ ràng. Với định nghĩa “Trí thức
VN là những người có trình độ học vấn từ ĐH trở lên, có năng lực sáng
tạo, tư duy độc lập, yêu nước, tinh thần phát triển XH và nhân cách. Đặc
điểm của trí thức VN là yêu nước và có nhân cách VN".
Thế nhưng trong thực tế cuộc sống, người có học vấn cao không phải lúc
nào cũng là người có nhân cách văn hóa.
Cũng tương tự như vậy, họ không nhất thiết là người quan tâm và có chính
kiến trước những vấn đề nóng bỏng của thời cuộc, có năng lực đề xuất và
phản biện các chính sách về các vấn đề của xã hội, có khả năng tạo ra và
hướng dẫn dư luận xã hội; mà thiếu những phẩm tính này, dù ở mức độ thấp
hay cao, đều khó lòng có thể được coi là trí thức với quan niệm thông
thường, phổ quát của thế giới hiện đại. (http://www.tuanvietnam.net//vn/sukiennonghomnay/4263/index.aspx).
Trước kia, do chính sách ngu dân, việc học tập khó khăn nên chỉ một số
ít người được đi học. Vì vậy đa số những người học được đại học lạ những
người có ý chí, có nghị lực và có đủ kiến thức để trở thành trí thức.
Trong thời đại hiện nay việc học đại học trở nên đơn giản và đa số các
trường đại học cũng chỉ đặt mục tiêu đào tạo ra những người làm việc có
trình độ. Để trở thành trí thức, những người đó còn phải phấn đấu tự học
và rèn luyện rất nhiều. Do vậy, định nghĩa trên không phân biệt người
công nhân lao động được đào tạo và người trí thức thực sự. Đồng thời
cũng loại bỏ hoàn toàn những người tự học để có thể đóng góp cho xã hội.
Tinh thần yêu nước thì bất kỳ người dân Việt Nam nào cũng có, nhân cách
cũng vậy, đa số người dân Việt nam đều có nhân cách Việt nam nên nếu chỉ
quy cho trí thức đặc điểm đó là bất công với các giai cấp và tầng lớp
khác.
Theo tôi vấn đề định danh trí thức có thể được phát biểu như sau:
Trí thức là những người có kiến thức về tự nhiên hoặc xã hội, có khả
năng vận dụng kiến thức đó để sáng tạo ra những sản phẩm tư duy trí tuệ
nhằm đóng góp vào quá trình phát triển của khoa học tự nhiên hoặc tiến
bộ xã hội. Trí thức Việt Nam là những trí thức có nguồn gốc là người
Việt Nam, có những sản phẩm tư duy trí tuệ đóng góp cho sự tiến bộ của
khoa học tự nhiên hoặc xã hội Việt Nam.
Định nghĩa này trước hết phân biệt rõ trí thức là người phải có kiến
thức, khả năng sáng tạo để tạo ra những sản phẩm tư duy trí tuệ, nó cho
phép loại bỏ những người có kiến thức có khả năng sáng tạo nhưng không
có sản phẩm sáng tạo cụ thể. Sản phẩm tư duy trí tuệ ở đây là ý tưởng,
mệnh đề, quy luật và cuối cùng là sản phẩm ứng dụng của tư duy trí tuệ
bao gồm các phương hướng, đường lối, chính sách cải tạo tự nhiên và xã
hội đã được áp dụng.
Tôi dẫn ra đây một số ví dụ, một thầy giáo có trình độ đại học nhưng nếu
đơn thuần chỉ làm nhiệm vụ truyền đạt kiến thức đã có sẵn cho học sinh
thì không nên xếp vào đội ngũ trí thức.
Một kỹ sư chỉ làm công việc chuyên môn đơn thuần của mình theo nhu cầu
của khách hàng, của công ty mặc dù có những sáng tạo để cải tiến công
việc nhưng không truyền đạt lại được cho người khác cũng không nên xếp
vào hàng ngũ trí thức.
Một người tốt nghiệp đại học âm nhạc nhưng không sáng tạo được một tác
phẩm âm nhạc nào mà chỉ đơn thuần chơi nhạc cụ rất giỏi cũng không nên
xếp vào hàng ngũ trí thức.
Tất cả những người trên đơn thuần chỉ là những người lao động có kỹ năng
được đào tạo.
Ngược lại, một nhạc công nếu có những tác phẩm âm nhạc hoặc ca khúc có
giá trị thì vẫn được coi là trí thức.
Một nông dân dù chịu khó học hỏi để tích lũy kinh nghiệm, nâng cao được
năng suất lao động của mình mà không phổ biến được cho người khác thì
không thể coi là trí thức, nhưng nếu người đó phát hiện ra một phương
thức nâng cao năng suất của vật nuôi, cây trồng và phổ biến được cho
những người khác thì người đó cũng được coi là trí thức.
Một bác sĩ chỉ dựa theo kiến thức sẵn có để điều trị bệnh nhân thì không
được coi là trí thức, nhưng nếu một bác sĩ áp dụng kiến thức của mình để
xây dựng được một phương pháp điều trị mới có khả năng phổ biến cho
người khác thì được coi là trí thức.
Một doanh nhân dù có trình độ nhưng chỉ thực hiện nhiệm vụ kinh doanh
không được coi là trí thức, anh ta chỉ được coi là trí thức khi đề ra
được một phương án kinh doanh hiệu quả được nhiều người áp dụng.
Một nhà quản lý, quan chức chỉ thực hiện nhiệm vụ quản lý của mình thông
qua mệnh lệnh hoặc yêu cầu của cấp trên không được coi là trí thức nhưng
nếu anh ta đề ra được một đường lối, một phong cách lãnh đạo để tạo ra
sự tiến bộ trong bộ phận của mình và phong cách này được phổ biến để
nhiều người khác làm theo thì được coi là trí thức.
Có thể dẫn ra nhiều ví dụ về các trí thức như: Hồ chủ Tịch là người
không học đại học, nhưng bằng hiểu biết xã hội của mình, Người đã để lại
cho đất nước một hệ thống tư tưởng về độc lập dân tộc. Người chính là
một trí thức lớn của Việt Nam. Các nhà lãnh đạo khác như Phạm Văn Đồng,
Võ Văn Kiệt cũng là những trí thức vì bên cạnh công tác lãnh đạo họ còn
có những bài phát biểu, tham luận chính trị trong đó thể hiện những tư
tưởng sáng tạo của bản thân họ về nhận thức xã hội, cách thức phát triển
xã hội….
Một nhà nghiên cứu, một Giáo sư đại học đương nhiên là trí thức vì họ có
những công trình nghiên cứu thể hiện tính sáng tạo trên nền kiến thức cơ
bản của họ. Những công trình của họ sẽ được nhiều người sử dụng sau này.
Một tiến sĩ sau khi tốt nghiệp không tiếp tục công tác nghiên cứu để tạo
ra các công trình khoa học thì cũng không thể coi là trí thức nữa mặc dù
anh ta có trình độ rất cao và có thể đang đứng trên bục giảng của trường
đại học.
Như vậy hai thuộc tính cơ bản của trí thức là: 1. Có kiến thức về khoa
học tự nhiên, khoa học xã hội.
2. Có khả năng sáng tạo để tạo ra sản phẩm tư duy trí tuệ phục vụ cho sự
tiến bộ của khoa học (tự nhiên hoặc xã hội).
Căn cứ vào các thuộc tính đó chúng ta có thể đề ra biện pháp can thiệp
để nâng cao số lượng và chất lượng của đội ngũ trí thức.
Nâng cao kiến thức: Cơ sở để tạo nên trí thức chính là kiến thức, để
nâng cao kiến thức của trí thức, bản thân người trí thức phải tự mình
học hỏi không ngừng đồng thời xã hội phải tạo điều kiện hỗ trợ người trí
thức học hỏi, các hình thức học hỏi bao gồm: Học ở trường đại học, các
cơ sở đào tạo; học qua đối thoại; qua các phương tiện thong tin đại
chúng. Đặc biệt để nâng cao nhận thức về tiến bộ xã hội cần nhất phương
thức học qua đối thoại, tranh luận và phản biện. Nhận thức của một người
không thể lúc nào cũng đúng mà phải được thảo luận, kiểm chứng thông qua
các ý kiến phản biện của người khác sau đó là áp dụng vào thực tiễn. Nhà
nước cần tạo điều kiện để mở rộng hình thức học tập này trong giới trí
thức, hỗ trợ việc tổ chức các hội nghị, hội thảo, đưa ra các đề tài
tranh luận dựa trên cơ sở khoa học về các vấn đề của cải cách xã hội.
Thúc đẩy thành lập các hội chuyên môn để tạo môi trường tranh luận
chuyên nghiệp của những trí thức trong chuyên ngành.
Đầu tư nghiên cứu để tạo ra sản phẩm trí tuệ: Tăng cường đầu tư cơ sở
vật chất cho các cơ sở nghiên cứu, các trường đại học để nâng cao khả
năng tạo ra sản phẩm trí tuệ của trí thức.
Khẳng định quyền sở hữu của sản phẩm trí tuệ: Để kích thích trí thức tạo
ra sản phẩm trí tuệ của mình, vấn đề sở hữu trí tuệ cần phải đặt lên
hàng đầu. Đảm bảo quyền sở hữu trí tuệ đồng thời cũng loại bỏ được những
trí thức rởm, chỉ biết ăn cắp công sức lao động và khả năng sáng tạo của
người khác đồng thời cũng loại bỏ hiện tượng bằng cấp rởm của rất nhiều
tiến sĩ hiện nay không có công trình nghiên cứu khoa học.
Trên đây là một số ý kiến của tôi về trí thức và một vài đề xuất trong
công tác xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam trong những
năm tiếp theo. Có được định nghĩa trí thức rõ ràng thì mới có thể có
chiến lược và chính sách phát triển rõ ràng. Những người làm nghiên cứu
khoa học là đội ngũ trí thức nếu không thực sự tâm huyết đóng góp cho
vấn đề của mình thì cũng sẽ không ai có khả năng lo cho họ được.
TS. Nguyễn Khánh Hòa
Bộ môn Dược lý-Đại học Y Hà Nội
©
http://vietsciences.free.fr
và http://vietsciences.org Nguyễn Khánh Hòa
|