Những bài cùng tác giả
Tôi không có hạnh phúc được
là học trò của GS Lê Văn Thiêm, nhưng ngay từ khi tôi còn học cao đẳng tiẻu
học ở tuổi 15-16 và mãi sau đó nhiều năm anh đã là thần tượng để chúng tôi
hướng tới và noi theo. Năm 1946 khi từ Huế ra Hà Nội đăng ký vào trường Cao
đẳng Khoa học, chúng tôi vô cùng phấn khởi nghe tin anh sẽ về làm Giám đốc.
Thế rồi tháng 12 năm 1946 kháng chiến bùng nổ, đại học
đóng cửa, tôi về Khu 5, dạy trung học ở Quảng Ngãi, lại tiếp tục được nghe
nhiều giai thoại về người thanh niên xuất chúng đang làm rạng rỡ đất nước.
Giới học sinh, sinh viên, trí thức rất đổi tự hào, và riêng với tôi, hình
ảnh anh đã làm sống dậy nhiều niềm mơ ước ấp ủ từ lâu. Đặc biệt năm 1948
tin anh bảo vệ xuất sắc luận án Tiến Sĩ Quốc Gia Toán học ở Paris gieo vào
tâm trí giới trẻ hiếu học thời đó một niềm phấn khởi vô biên. Niềm vui và
tự hào của chúng tôi càng được nhân lên gấp bội khi được nghe anh Tạ Quang
Bửu ca ngợi chàng tiến sĩ 30 tuổi ấy đã nghiễm nhiên trở thành bậc thầy của
tất cả các anh – những người hồi đó được coi là có trình độ toán học cao
siêu trong cả nước. Cho nên, năm 1951, khi nghe tin anh Thiêm đã về VN, và
sắp mở trường Cao đẳng Khoa học thực hành ở Việt Bắc tôi liền xin nghỉ dạy
lên đường ra Việt Bắc tìm thầy để thọ giáo. Hồi ấy, đường từ Khu 5 ra Việt
Bắc phải đi trên rừng, dọc theo Trường Sơn, khó khăn, hiểm trở và cũng đầy
hiểm nguy, rất dễ bỏ mạng giữa rừng sâu vì sốt rét, cọp hay địch phục kích.
Tôi lại mới ngoài hai mươi, đang ở tuổi yêu, thế mà vẫn dứt áo từ biệt người
yêu vừa mới hứa hôn, ra đi tìm thầy học đạo, đủ thấy tấm lòng ngưỡng mộ của
tôi đối với anh Thiêm như thế nào. Có thể nói đó là quyết định khó khăn đầu
tiên đã ảnh hưởng lớn đến toàn bộ cuộc sống và sự nghiệp sau này của tôi.
GS Ngô Việt Trung và GS Hà Huy Khoái đã kể tiểu sử,
công lao và cống hiến to lớn của GS Lê Văn Thiêm đối với khoa học toán học
và đối với nền toán học cũng như sự nghiệp đại học của nước nhà.
Tôi muốn nhân đây nói thêm vài kỷ niệm về môt trí thức
lỗi lạc đã sống một cuộc đời rất đặc biệt, với bao nỗi thăng trầm, khi lặng
lẽ ra đi đã để lại cho tất cả chúng ta, cho mỗi người tri thức, cho những ai
làm công tác lãnh đạo, quản lý trí thức rât nhiều bài học lớn. Vào thời điểm
hiện nay, khi vấn đề trí thức đang nổi lên là mối quan tâm lo lắng của toàn
xã hội, những bài học ấy càng quý giá biết bao. Xin hãy suy ngẫm trên những
bài học ấy để thay đổi tận gốc cách nhìn đối với nhân tài và trí thức, đổi
mới quan niệm và cách xử lý các vấn đề liên quan, đó chính là bí quyết để
vượt qua các thách thức của toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế thành công. Sau
hai mươi năm đổi mới đất nước, chúng ta đã có nhiều thành tựu kinh tế nhưng
đã tụt hậu xa về giáo dục và khoa học và giờ đây đang phải trả giá. Tuy cách
nhìn của xã hội đối với doanh nhân đã có thay đổi nhưng quan niệm và từ đó
chính sách đối với trí thức không theo kịp yêu cầu phát triển của đất nước
trong giai đoạn mới, thậm chí có nhiều mặt còn thụt lùi so với thời bao cấp.
Dù không được là học trò của anh Thiêm nhưng bù lại, tôi đã có may mắn sống,
làm việc, gần gũi anh trong nhiều năm. Xin thuật lại đôi điều tôi được biết
về cuộc đời anh qua các thời kỳ khác nhau.
Thời kỳ ở Khu Học Xá TƯ (1951-53). Anh Thiêm tuy đã
là đảng viên, nhưng theo Chỉ thị của TƯ chỉ sinh hoạt với Đảng Uỷ, không
sinh hoạt ở Chi Bộ. Các vị lãnh đạo cao ở Bộ Giáo Dục khi nói về anh Thiêm
đều coi anh là “sommité” (đỉnh cao) về khoa học trên thế giới, cho nên chế
độ đối với anh rất đặc biệt. Nhờ đó công việc của anh rất thuận lợi và phát
huy hiệu quả tối đa như anh mong muốn. Sau này, khi GS Laurent Schwartz
(một trong những nhà toán học uy tín nhất của Pháp) hỏi tôi về tiểu sử anh
Thiêm để thông báo với bạn bè, tôi có nói rõ với ông là hai trường Khoa Học
Cơ Bản và Sư Phạm Cao Cấp do anh Thiêm sáng lập và lãnh đạo đã có vai trò
đặc biệt quan trọng trong một thời gian dài đối với việc xây dựng nền đại
học của Việt Nam. Điều may mắn đối với tôi là năm 1953 được ở chung cùng
phòng với anh Thiêm trong hai tháng và nhờ vậy biết được nhiều suy tư của
anh sau chỉnh huấn 1952 về một số chuyện chung và riêng, kể cả mối tình đơn
phương không được sẻ chia. Đồng thời được sống gần anh tôi thấy rõ anh là
con người hết mực trung thực, vô cùng thiết tha với đất nước, nhân hậu, tử
tế với mọi người, nhưng có một nhược điểm sau này đã gây không ít khó khăn
cho anh là ngây thơ tin rằng ai cũng trung thực, nhân hậu như mình. Qua một
số thư từ của các đồng nghiệp Ba Lan như Kuratowski trao đổi với anh, tôi
cũng thấy cụ thể sự ngưỡng mộ của đồng nghiệp quốc tế đối với anh trong mấy
năm sau khi các công trình của anh được công bố.
Thời kỳ ở Đại Học Tổng Hợp Hà Nội (1954-1969). Năm
1954, về tiếp quản Thủ Đô, anh Thiêm được cử ngay làm Giám Đôc Đại học Khoa
học (cùng với các ông Đăng Thái Mai và Trần Đức Thảo làm giám đốc và phó
giám đốc Đại học Văn khoa). Hồi đó người người đứng đầu một đại học được
gọi là giám đốc, và có phân biệt giáo sư, giảng viên, phụ giảng; chỉ sau
này, trong khoảng 1960-1980, mới có chỉ thị gọi sinh viên là học sinh, giám
đốc là hiệu trưởng, không phong giáo sư, phó giáo sư, mà tất cả chỉ là cán
bộ giảng dạy – để cho có vẻ “dân chủ”, thực chất là nhằm tầm thường hóa, xóa
bỏ mọi chuẩn mực, một tư tưởng quản lý sẽ còn ảnh hưởng lâu dài cho đến tận
ngày nay. Đến năm 1957, hai đại học được cải tổ thành Đại học Tổng hợp
(ĐHTH) do GS Ngụy Như Kontum làm Hiệu trưởng và Đại học Sư phạm (ĐHSP) do GS
Phạm Huy Thông làm Hiệu trưởng. Anh Thiêm bây giờ chỉ làm chủ nhiệm khoa
toán chung cho cả hai đại học, với lý do giải thoát cho anh khỏi các nhiệm
vụ hành chính để anh chuyên tâm làm khoa học. Ý tưởng rất tốt, nhưng không
thực tế vì sau nhiều năm bị cách ly với thế giới và không có điều kiện làm
khoa học (có thời gian anh về nông thôn ba cùng với nông dân, được báo chí
ca ngợi là vị tiến sĩ toán học chăn bò rất vui vẻ và có trách nhiệm !), thêm
vào đó thư viện không hề có tạp chí khoa học quốc tế nào (mãi sau 1959 mới
bắt đầu nhận được bản sao chụp của một số tạp chí quốc tế do Trung Quốc gửi
tặng), và việc liên hệ với giới khoa học quốc tế bị cắt đứt (thời kỳ này
cũng chưa có mấy quan hệ khoa học với các nước xã hội chủ nghĩa), việc trở
lại với nghiên cứu khoa học theo trình độ quốc tế là cực kỳ khó. Đến 1959 Uỷ
ban Khoa học Nhà nước (UBKHNN) được thành lập, anh Tạ Quang Bửu làm Tổng Thư
ký, anh Thiêm được bổ nhiệm là Uỷ viên UBKHNN, điều kiện làm khoa học
nghiêm túc có thuận lợi hơn. Nhưng chẳng bao lâu, từ 1960 trở đi, do chi
viện kháng chiến ở Miền Nam, kinh tế bắt đầu khó khăn, phải thực hiện chế độ
tem phiếu. Để sửa chữa sai lầm cũ, anh Thiêm lại được “đề bạt” trở lại làm
Hiệu phó ĐHTH. Dù có muộn màng , điều đó cũng thể hiện sự quan tâm của cấp
trên đối với anh.
Nhưng bi kịch là đến 1963 (không rõ có mối liên hệ gì
với Nghị quyết 9 đấu tranh chống xét lại hay không), giữa lúc anh Thiêm và
tôi đang ra sức cố gắng làm những ứng dụng toán học thiết thực, đồng thời
xây dựng nền nếp nghiên cứu khoa học, thì một loạt thư từ gửi lên cấp trên
tố giác anh Thiêm và tôi (khi ấy tôi là chủ nhiệm khoa Toán, kiêm ủy viên
ban Toán ở UBKHNN). Dưới danh nghĩa “chính trị là thống soái”, “đường lối
công nông của Đảng”, với cách hiểu lệch lạc về “hồng, chuyên”, chúng tôi bị
buộc đủ thứ tội. Đây thật sự là những ngày tháng cực hình. Ban ngày dạy học
và chạy máy bay, ban đêm chong đèn ngồi viết kiểm điểm: nào là chèn ép công
nông, chuyên môn thuần túy, thiên tài chủ nghĩa, nghiên cứu khoa học lý
thuyết suông, …, không có cái mũ to nào mà chúng tôi không bị chụp lên đầu.
Hậu quả là hàng trăm buổi kiểm điểm nặng nề dưới sự chủ trì của quan chức
cấp trên, trong 5-6 năm liền, đã làm chúng tôi kiệt sức. Đến mức năm 1968,
không chịu đựng nổi, tôi phải xin với Thủ tướng Phạm Văn Đồng chuyển qua
UBKHNN, và năm sau anh Thiêm cũng rời ĐHTH để về UBKHNN. Theo lời kể của
chị Hồng (vợ anh Thiêm), trước đó, một vị cấp trên đến nhà dỗ ngon dỗ ngọt
anh Thiêm: “dù anh không làm gì sai, nhưng thôi, anh là cấp trên của họ, nên
khoan dung, anh cứ nhận hết lỗi là yên chuyện”. Anh Thiêm nhẹ dạ nghe theo,
hôm sau ra buổi họp nhận hết lỗi về mình. Ngờ đâu, cái biên bản buổi họp đó
trở thành công cụ buộc tội anh. Vì thế khi anh Thiêm chuyển sang UBKHNN,
đáng lẽ được cử làm viện trưởng Viện Toán thì chỉ được bổ nhiệm làm phó viện
trưởng.
Trước sự phi lý đó, anh Thiêm không hề có một phản ứng
tiêu cực nào. Trái lại, càng bị vùi dập anh càng bộc lộ rõ bản chất một công
dân yêu nước hết mực, dẫu bị thiệt thòi và đối xử bất công, vẫn một lòng
một dạ phục vụ. Nhân hậu, bao dung, cao thượng, nhưng anh cũng là con người
nguyên tắc, luôn bảo vệ lẽ phải và chân lý, cho dù phải trả giá đắt.
Thời kỳ ở Viện Toán (1970-1980) Chuyện anh Thiêm làm
viện phó ai nghe cũng ngạc nhiên, riêng tôi mỗi khi có dịp đều tìm cách phản
ảnh trực tiếp sự phi lý đó lên Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Theo lời kể của ông
Lê Khắc (Phó Chủ nhiệm UBKHKTNN), chính Thủ tướng cũng đã nhiều lần nhắc nhở
UBKHKTNN sửa sai. Nhưng vì mọi việc phụ thuộc một qui trình bí hiểm nên rốt
cục trong 5 năm liền sai vẫn không được sửa, cho mãi đến 1975, nhờ tình hinh
mới, anh Thiêm mới được bổ nhiệm làm Viện trưởng. Nhưng anh chỉ làm viện
trưởng đến 1980. Do trước đó chị và các cháu đã chuyển hết vào TP HCM cho
gần gia đình bên chị, nên vài năm sau khi hết trách nhiệm lãnh đạo ở Viện
Toán anh cũng chuyển luôn công tác vào đó. Năm 1988, đột nhiên lại có quyết
định cho anh nghỉ hưu, nhưng may nhờ có ý kiến phản đối lên tới Tổng Bí Thư
mà quyết định ấy được hủy bỏ. Với một người khác, bấy nhiêu thăng trầm, bầm
giập dễ làm nản lòng. Nhưng vào TP HCM anh Thiêm vẫn hết lòng giúp đỡ phòng
Toán ứng dụng trong đó, và tham gia tich cực mọi việc, cho đến ngày sức khỏe
kiệt quệ khiến anh phải từ biệt cuộc đời.
Nghe tin anh mất, tôi vội bay vào TP HCM dự tang lễ. Điều khiến tôi hết sức
day dứt trong nhiều năm là tang lễ quá ư đơn giản, chẳng có nghi thức gì để
ghi nhận xứng đáng công lao người quá cố. Dẫu biết rằng sinh thời anh rất
khiêm tốn, không thich phô trương, nhưng nhiều người không khỏi chạnh lòng
khi so sánh với đám tang trọng thể chỉ sau đó mấy ngày của một quan chức
thành phố. Khó hiểu nhất là hôm sau, khi tôi đến thăm chị Hồng ở nhà thì
được chứng kiến người phụ trách tổ chức của cơ quan (Phân Viện Khoa học VN ở
TP HCM) đến báo chị biết là cơ quan sẽ chia sẻ với gia đình … một nửa chi
phí tang lễ. Đau buồn và phẫn nộ tôi vội báo cáo ngay việc này cho lãnh đạo
Viện Khoa học VN ở Hà Nội để chỉ thị cho Phân Viện ở TP HCM phải thực hiện
nghiêm chỉnh toàn bộ nghĩa vụ của cơ quan đối với tang lễ GS Lê Văn Thiêm.
Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng (hồi đó là Cố vấn), khi biết được chuyện này cũng
rất buồn phiền. Gặn hỏi thêm ông mới hay rằng, ngoài các huân chương kháng
chiến và chống Mỹ cứu nước theo chế độ chung, ngay cả một tấm huân chương
Lao động hay danh hiệu Nhà Giáo Nhân Dân anh Thiêm cũng không có. Cho nên
ông có ý kiến phải truy tặng huân chương độc lập hạng nhất cho GS Lê Văn
Thiêm. Âý vậy mà cũng phải đợi thêm 5 năm nữa, mãi đến 1996, ý kiến đó của
Cố vấn mới được thực hiện.
Đó là tóm lược đôi điều tôi biết cùng những cảm nhận
của tôi về cuộc đời đặc biệt của nhà trí thức đặc biệt Lê Văn Thiêm. Mặc dù,
như chúng ta biết, toán học là niềm say mê lớn nhất của anh, nhưng năm 1949,
giữa lúc tài năng đang nở rộ và tương lai khoa học đang rộng mở, lòng yêu
nước nóng bỏng đã thúc giục GS Lê Văn Thiêm từ bỏ địa vị khoa học không ít
người mơ tưởng ở Châu Âu để về nước tham gia cuộc chiến đấu giành độc lập
cho dân tộc. Thế mà rồi số phận đã dành cho anh biết bao cay đắng, nhọc
nhằn, khi nằm xuống cũng chỉ có bạn bè thân thích tiễn đưa, vào một buổi
chiều u ám còn đọng lại trong tâm trí tôi nhiều câu hỏi đến nay vẫn chưa rõ
lời giải đáp.
Nhân đây tưởng cũng nên đề cập một vấn đề đang có ý
nghĩa thời sự hiện nay. Nhiều người nghĩ rằng giá như TS Lê Văn Thiêm hồi ấy
cứ tiếp tục sự nghiệp nghiên cứu ở Châu Âu hay ở Mỹ thì chắc chắn, với tài
năng xuất sắc của mình, anh đã có thể có nhiều cống hiến to lớn hơn cho toán
học và tên tuổi quốc tế của anh lẫy lừng hơn, đó chẳng phải có lợi cho đât
nước lắm sao ? Cuộc đời của anh với nhiều thăng trầm như trên cũng nêu
ra thắc mắc: với phẩm chất đặc biệt như anh mà còn như thế thì liệu có mấy
người còn dám yên tâm trở về quê hương. Nhưng đó là câu hỏi dành cho các vị
đang gánh trọng trách với đất nước giải đáp, vì là cái nút phải được giải
tỏa để thu hút chất xám người Việt ở nước ngoài về xây dựng đất nước. Còn
đối với cộng đồng toán học chúng tôi, việc anh Thiêm đã lựa chọn trở về quê
nhà, cùng chia sẻ khó khăn gian khổ với đồng bào trong công cuộc giành độc
lập, tự do cho xứ sở, và tất cả những gì anh đã cống hiến cho Tổ Quốc và
cộng đồng toán học Việt Nam, chỉ có thể khiến chúng tôi vô cùng biết ơn anh
và tự hào về anh. Không ai trong chúng tôi nghi ngờ điều này.
Số công trình của anh Thiêm thật ra không nhiều. Nhưng nên biết rằng chỉ cần
mấy kết quả của anh về bài toán ngược trong lý thuyêt Nevanlinna cũng đủ để
đời, vượt xa hàng chục công trình nghiêm túc của nhiều người khác. Trong khi
chúng ta đã bắt đầu nhận thức rõ sự cần thiết và tầm quan trọng của công bố
quốc tế, tưởng cũng nên đề phòng xu hướng chạy theo số lượng và coi nhẹ chất
lượng. Hai là, thời giữa thế kỷ XX về trước, làm được một công trình toán
học có thể công bố trên các tạp chi quốc tế khó khăn hơn sau này rất nhiều.
Và nữa, để có thể đánh giá đúng mức ý nghĩa của những thành tựu khoa học của
anh Thiêm giai đoạn về sau, không thể không nhắc tới hoàn cảnh khó khăn và
những điều kiện vật chất và tinh thần vô cùng thiếu thốn mà trong đó anh đã
phải vật lộn để hoạt động suốt bốn mươi năm trời, từ lúc ở Châu Âu về nước
cho đến những ngày cuối cùng trước khi từ biệt chúng ta.
Đó là những vấn đề, những suy nghĩ mà cuộc đời và sự
nghiệp của GS Lê Văn Thiêm nêu ra cho chúng ta sau gần hai mươi năm anh qua
đời. Vừa khâm phục vừa xót xa, tôi kể những kỷ niệm trên để nêu lên một sô
bài học và bày tỏ tình cảm sâu nặng của một người đi sau đối với người con
ưu tú của Tổ Quốc, một nhân cách tuyệt vời mà hình ảnh sẽ mãi mãi ở trong
tim những người học trò, những người bạn, và cả nhiều người chỉ nghe nói đến
chứ thật sự chưa từng quen biết anh. Mong sao những tài năng Lê Văn Thiêm
sau này sẽ có điều kiện thuận lợi hơn anh để cống hiến cho Tổ Quốc vào một
giai đoạn mà chất xám, chứ không phải của cải vật chất, mới là yếu tố quyết
định sự phồn vinh của đất nước.
Đã đăng trên tạp chí Tia Sáng
©
http://vietsciences.free.fr
và http://vietsciences.org
Hoàng Tụy
|