Những bài cùng tác giả
Thông tuệ và nhiệt tình, GS Tương Lai đã có cuộc trò
chuyện cởi mở với phóng viên SVVN xung quanh vấn đề
trí thức.
LUẬN HIỀN TÀI...
Thưa GS, theo ông, khái niệm trí thức cần được hiểu
thế nào?
GS Tương Lai: Định nghĩa về trí thức thì nhiều lắm,
làm sao liệt kê ra trong một trả lời phỏng vấn. Tôi
chỉ xin gợi ra một vài ý: Cụ Nguyễn Công Trứ từng có
một bài “Luận kẻ sĩ” dưới dạng một bài ca trù khẳng
định rằng “Có giang san thời sĩ đã có tên”. Tác giả
của “Luận kẻ sĩ” ấy cũng là một danh tướng từng cầm
quân dẹp cường khấu ở Lạng Sơn, bắt Phiên tặc ở
thành Trấn Tây, trừ Hải tặc ở ngoài Đông Hải… Tài
kinh bang tế thế của ông không chỉ dừng lại việc cầm
quân, mà còn là công cuộc lấn biển mở đất ở Kim Sơn
Tiền Hải, đắp đê ngăn mặn ở Hải Dương vùng châu thổ
Sông Hồng đến việc khơi dòng Mê kông ở Long Xuyên
vùng đồng bằng sông Cửu Long…cho đến việc chống tham
nhũng ngay giữa triều đình đúng như ông từng tâm
nguyện “Trong lăng miếu ra tài lương đống, Ngoài
biên thùy rạch mũi can tương".
Ý tưởng của một “kẻ sĩ” Việt Nam thế kỷ XIX bắt gặp
quan điểm của J.P Sartre, triết gia người Pháp thế
kỷ XX : “Trí thức là người làm những việc chẳng ăn
nhập gì đến họ, kỹ sư thì không lo xây cầu, thầy
thuốc thì không lo khám bệnh, kinh tế gia thì không
lo cộng trừ nhân chia với cái thống kê. Tại sao họ
lại xớ rớ vào những chuyện không liên quan gì đến họ
vậy, tại vì họ cho đó chính là chuyện của họ. Chuyện
không phải là của họ mà họ thấy là của họ. Cái thấy
đó làm họ trở thành trí thức".
Một người có bằng cấp cao chưa hẳn đã là một trí
thức nếu ông ta không gắn kết công việc chuyên môn
của ông với vận mệnh của đất nước, ông không quan
tâm gì đến số phận của nhân dân mình mà chỉ biết có
sự nghiệp riêng mình, chăm chút riêng cho tổ ấm gia
đình mình. Chán nản trước thời cuộc, “mũ ni che
tai”, cũng không phải là người trí thức theo nghĩa
chân chính của nó, trước đây đã vậy, nay càng như
vậy.
Vậy ông đánh giá thế nào về những đóng góp của trí
thức vào việc phát triển đất nước?
Dựa vào ý của C.Mác, người ta đã đưa ra một cách
định nghĩa khác về người trí thức: “Trí thức là
người nói sự thật, phê bình không nhân nhượng về
những gì đang hiện hữu. Không nhân nhượng với nghĩa
rằng họ không lùi bước trước kết luận của chính
mình, hoặc trước xung đột với quyền lực, bất cứ
quyền lực nào”. Phải chăng vì thế, tuy biết rất rõ
sự nghiệp phát triển đất nước rất cần trí thức, song
không ít người thiếu bản lĩnh đã không dám hoặc
không thích dùng những trí thức, những “người nói sự
thật và phê bình không nhân nhượng” ấy. Cũng chính
vì vậy, chúng ta cần lưu ý đến vấn đề xây dựng bản
lĩnh cần thiết để mạnh dạn sử dụng và phát huy tiềm
lực trí thức, trong đó, có việc dám lắng nghe và
biết lắng nghe những ý kiến đóng góp tâm huyết và
trung thực của những trí thức chân chính. Đó là
những ý kiến xuất phát từ động cơ không vụ lợi,
không vụ danh mà chỉ vì muốn đóng góp vào sự nghiệp
chung của đất nước, xem việc đóng góp đó là sứ mệnh
của người trí thức như Nguyễn Công Trứ khẳng định
“việc trong trời đất là phận sự của mình”.
Cũng là một trí thức, GS thấy mình được "đãi ngộ" và
"sử dụng" ra sao?
Xin được cho tôi đứng ra khỏi nội dung câu sẽ trả
lời dưới đây, vì tôi chưa dám nhận mình là một trí
thức theo đúng với quan điểm về người trí thức mà
tôi vừa đưa ra, nhiều lắm cũng chỉ là người có học,
có chút hiểu biết và muốn trở thành một người trí
thức như mình quan niệm. Mà muốn chưa chắc đã được!
Chính vì chúng ta đang thiếu một bản lĩnh cần thiết
để mạnh dạn sử dụng và phát huy tiềm lực trí thức,
trong đó, có việc không dám lắng nghe và không biết
lắng nghe những ý kiến đóng góp tâm huyết và trung
thực của những trí thức chân chính cho nên đã hạn
chế rất lớn sự đóng góp của trí thức.
Thực tế, trong lịch sử cận đại, việc sử dụng trí
thức đã có nhiều bài học thành công, nhưng cũng có
những bài học khá đau lòng mà khiến chúng ta cần nhớ
lại để tránh "những vết xe đổ" mà ta đã đi qua...
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện bản lĩnh và tầm
nhìn của mình trong việc đánh giá vai trò của trí
thức, hết sức trân trọng và tìm mọi cách sử dụng,
phát huy tiềm năng của trí thức. Do đó, tri thức đã
có sự đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng và
kháng chiến. Tên tuổi của những trí thức lớn từ bỏ
cuộc sống giàu sang và triển vọng phát huy tài năng
chuyên môn trong những môi trường thuận lợi ở nước
ngoài để theo Bác Hồ về nước tham gia kháng chiến
như Trần Đại Nghĩa, Trần Đức Thảo, Lê Văn Thiêm,
Đặng Văn Ngữ… đã nói lên điều đó. Trung thành với tư
tưởng Hồ Chí Minh, những nhà lãnh đaọ chủ chốt của
Trung ương Cục ở Miền Nam đã biết trân trọng đón
nhận và tìm mọi cách phát huy tài năng, tâm huyết
của các trí thức nhân sĩ bỏ cuộc sống giàu sang,
tham gia kháng chiến như Phạm Văn Bạch, Nguyễn Văn
Hưởng, Phạm Ngọc Thuần, Phạm Ngọc Thạch…
Đáng tiếc là sau đó, nhất là từ sau “cải cách ruộng
đất”, “chỉnh đốn tổ chức” bị áp đặt theo mô hình
giáo điều, “tả” khuynh từ bên ngoài, xa rời tư tưởng
Hồ Chí Minh. Điều này có ý nghĩa lớn đối với việc
nhìn nhận và đánh giá vai trò của trí thức trong sự
nghiệp cách mạng, đặc biệt là trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Cách nhìn
thiển cận về lý lịch, thành phần đã đẩy tới những
sai lầm nguy hiểm trong việc sử dụng và phát huy
năng lực của trí thức. Đấy là chưa nói đến việc nhục
mạ, đối xử bất công với trí thức, trong đó có những
trí thức lớn như Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường,
Lê Văn Thiêm, Đào Duy Anh…
... VÀ "CẦU KẺ SĨ"
Ngày xưa, Lưu Bị đã 3 lần đến lều cỏ vời người tài
là Khổng Minh ra giúp nước, GS nghĩ thế nào về triết
lý "cầu tài phụng nghĩa" thời nay?
Trong bộ truyện “Tam quốc diễn nghĩa”, đoạn “Lưu
Huyền Đức tam cố thảo lư” là một trong những đoạn
được người đời cho là hay nhất. Muốn cầu người hiền,
Lưu Bị phải ba lần gội tuyết, đội gió đến lều cỏ của
Khổng Minh để cầu hiền là vì thế. Vì nhiều hiền tài
không chịu dấn thân, nên người thật sự muốn gây
nghiệp lớn phải biết cầu hiền.
Xưa nay kẻ sĩ có thực tài và biết tự trọng thường
chọn cách ứng xử “dụng chi tắc hành, xả chi tắc
tàng” (được dùng thì ra làm việc, không được dùng
thì lui về) thể hiện một quan niệm sống, một thái độ
sống. Quyết định chuyện “xuất” và “xử” của “kẻ sĩ”
gắn liền với thời cuộc, “thiên hạ hữu đạo tắc hiện,
thiên hạ vô đạo tắc ẩn” (có đạo thì ra, vô đạo thì
ẩn). Hữu đạo và vô đạo nói ở đây có nội hàm khá
rộng. Song trực tiếp nhất và cập nhật trong bối cảnh
“hiện đại”, chính là cái tâmcủa người lãnh đạo có
thật lòng trọng dụng hiền tài, trọng dụng trí thức
không. Khi độ rộng mở của dân chủ và công khai trong
việc trọng dụng trí thức chưa đáp ứng dược đòi hỏi
của cuộc sống, khi cái tâm của người lãnh đạo thật
lòng trọng dụng hiền tài, trọng dụng trí thức chưa
được thực tế chứng minh, thì mọi chủ trương chính
sách đều chưa đi vào cuộc sống. Chỉ riêng một việc
rất nhỏ, trong một cuộc tranh luận trên diễn đàn có
sự hiện diện của một vị lãnh đạo, diễn giả lại thẳng
thừng chất vấn mà không có “dạ thưa anh” đã khiến
cho vị ấy phật lòng, thế rồi nghe đâu đã có nhận xét
“tay này là cực đoan, quá khích lắm đây, hãy thận
trọng”!
Vì thế, thật chí lý và đáng mừng khi người đứng đầu
Chính phủ trong cuộc trao đổi trực tuyến với nhân
dân đã khẳng định rằng “phải thật sự công tâm, khách
quan và đặc biệt là phải thật sự dân chủ; vì không
dân chủ, hay chỉ dân chủ hình thức thì không chọn
được người tài”. Thật không dễ để thấy ra được : “Có
cạnh tranh, có cơ chế thị trường thật sự thì mới xem
xét được ai là người tài. Người tài không chỉ thể
hiện ở bằng cấp hay ở lời nói, mà quan trọng là ở
việc làm”. Nhận thức đó bắt gặp được sự vận động của
thực tiễn.
Theo GS, trí thức cần gì nhất?
Đãi ngộ trí thức là điều cần, vì xét đến cùng, sự
đãi ngộ đó là vì lợi ích của đât nước, lợi ích của
nhân dân, vì sự “đãi ngộ” xứng đáng là một cách tỏ
rõ thái độ trân trọng trí thức của nhà cầm quyền,
của xã hội sẽ động viên người trí thức cống hiến hết
sức mình. Tuy nhiên, với người trí thức chân chính
thì sự “đãi ngộ” mà họ cần nhất là tạo một môi
trường tự do suy nghĩ và sáng tạo, tạo điều kiện để
trình bày những suy nghĩ đó, để tranh luận nhằm đi
đến chân lý, từ đó mà những ý tưởng đúng được thực
hành, chân lý được sáng tỏ, góp được vào đường lối
chính sách, đưa sự nghiệp phát triển đất nước đi
tới.
Nói cụ thể hơn, đó là tôn trọng sự độc lập tư duy,
tự do trong suy nghĩ và tranh luận, dân chủ và công
bằng trong thảo luận, cổ vũ cho sự tìm tòi sáng tạo
mà không khuôn cứng vào những kết luận đã có sẵn từ
bên trên, nghiêm chỉnh thực hiện những điều luật đã
được ghi trong Hiến pháp về tự do ngôn luận, xuất
bản và báo chí.
Có ý kiến cho rằng, xã hội hiện nay là một sự đánh
tráo các giá trị, sự thượng tôn hình thức và sự rẻ
mạt (và vô danh) về tri thức. Bằng chứng là các hoa
hậu và cầu thủ được đánh giá quá cao, còn ngược lại
với các học giả. Giáo sư nhìn nhận thế nào về nhận
xét này?
Nói thật, khẳng định thế thì cũng hơi cực đoan. Nên
nhìn việc đánh giá cao các hoa hậu và các cầu thủ
tài năng là một biểu hiện tích cực trong việc nhìn
nhận những giá trị cá nhân. Đừng quên rằng, vấn đề
cá nhân - công dân chính là vấn đề nền tảng của xã
hội hiện đại, cũng trên ý nghĩa đó, giải phóng cá
nhân là động lực tinh thần của hiện đại hóa.
Những năng khiếu bẩm sinh là của báu “trời cho”,
trên cơ sở đó phải có sự khổ luyện với ý chí và nghị
lực của cá nhân mới trở thành được những “sao”! Và
“sao” thì không thể nhặt được từng vốc, nhà nhà đều
có “sao”! Chuyện đáng phê phán là sự yếu kém của
hoạt động văn hóa tư tưởng, chưa khai thác đúng điều
cần khai thác và phát huy, lại vô tình chạy theo
phong trào khoa trương hình thức. Từ đó, gây nên cơn
sốt ảo và rởm muốn trở thành “sao” một cách ngốc
nghếch và lười biếng, không biết đánh giá đúng cái
vốn “tự có” và quá trình khổ luyện. Cái bệnh tự
huyễn ngốc nghếch ấy đã phải trả những cái giá quá
đắt.
Chuyện “ngược lại với các học giả ” mà nhà báo đưa
ra để đối sánh giữa “hoa hậu” và “cầu thủ bóng đá”
với trí thức, học giả thì qủa là trong hiện thực có
chuyện trớ trêu đó, song phải nhìn nhận về bản chất
của nó thì lại liên quan đến một vấn đề khác, mà
nguyên nhân thì đã phần nào được trình bày ở trên.
Có người nhấn mạnh rằng, trí thức là người truyền bá
tư tưởng, ý tưởng. Ý tưởng đó có thể là của chính
họ, hay là các ý tưởng của những người khác mà họ
coi là của mình. Cái cách “duy danh định nghĩa” căn
cứ vào bằng cấp theo lối “chuẩn hóa” cán bộ đã phải
trả giá cho việc mua bằng, bán điểm để đẻ ra hàng
loạt những trí thức rởm, những “tiến sĩ giấy” làm
rối loạn hệ thống giá trị xã hội. Chạy theo cái giả,
khước từ cái thật, căn bệnh nguy hiểm này khởi nguồn
từ nhiều nguyên nhân phức tạp khác mà trong phạm vi
trả lời phỏng vấn tôi không thể nói kỹ được
Một học giả, một trí thức đích thực, theo GS cần hội
đủ yếu tố gì?
Một học giả đích thực sẽ không là nguời chỉ chạy
theo những hư danh hay những “đãi ngộ” vật chất, mà
là những người lấy việc tìm tòi nghiên cứu nhằm nâng
cao sự hiểu biết về một chuyên ngành mình theo đuổi
để cống hiến cho xã hội bằng những ứng dụng thực tế
từ những tìm tòi nghiên cứu ấy. Đó là những người
học thật và làm thật. Đôi khi, họ phải gánh chịu
những thân phận không mấy dễ chịu do họ là người nói
sự thật và phê bình không nhân nhượng như đã nói ở
trên.
Người trí thức đích thực phải biết tận dụng những
điều kiện mà thời đại mới đã tạo ra. Những ai chần
chừ, còn tin rằng tương lai sẽ chỉ là sự tiếp tục
đơn giản của quá khứ, sẽ sớm thấy mình bị hụt hẫng
trước sự thay đổi. Họ sẽ bị buộc phải suy nghĩ lại:
sẽ đi đến đâu và bằng cách nào đi đến đó, khi mà có
lẽ đã quá muộn để tránh được điều không thể tránh
khỏi...
Xin cảm ơn GS!
Lê Ngọc Sơn (Thực hiện)
(Theo SVVN, số 30/2008)
|