Vận hội mới và yêu cầu đào tạo nhân tài

Vietsciences-Văn Tạo    28/07/2008

 

LTS: Phát triển nguồn nhân lực, đào tạo và thu hút nhân tài nhằm phục vụ sự nghiệp đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đang là nhu cầu vừa mang tính cấp thiết, vừa lâu dài của cả nước nói chung và Quảng Nam nói riêng. Đây cũng là một trong những chuyên đề quan trọng sẽ được bàn thảo tại Hội nghị Tỉnh ủy lần thứ 6, khai mạc vào ngày hôm nay ( 27-12). Nhân sự kiện này, Báo Quảng Nam xin trân trọng giới thiệu bài viết của Giáo sư Văn Tạo, chung quanh cách nhìn nhận, đánh giá về nhân tài, hiền tài trong thời đại hiện nay.

Chúng ta đang sống trong vận hội mới của dân tộc - một vận hội lớn mang tính thiên niên kỷ. Vì vậy vấn đề phát huy nguồn nhân lực đào tạo nhân tài đang là yêu cầu bức xúc.

Dân tộc và nhân tài

Nhân tài của dân tộc nào đều mang nặng dấu ấn lịch sử của dân tộc ấy: Khổng Tử, Lỗ Tấn của Trung Quốc; Lômônôxốp, Puskin của Nga; Phukudaoa của Nhật Bản;Victo Huygô của Pháp; Lêôna Đờ Vanhxi của Ý; Nguyễn Trãi, Hồ Chí Minh... của Việt Nam... Tất cả đã thể hiện rõ tính dân tộc của nhân tài. Nhưng trong thời kỳ hiện đại, những tinh hoa của các dân tộc đều trở thành của nhân loại thì nhân tài của dân tộc có thể lừng danh trên trường quốc tế. Ngày nay tiến trình quốc tế hóa, toàn cầu hóa đã tạo ra cái gọi là "thế giới phẳng", tính dân tộc còn cần bảo tồn và phát huy đến mức nào? Tính quốc tế chiếm một vị trí như thế nào?

Công trình "Thế giới phẳng" đã có một khuyến nghị đại ý là "Hãy bớt đi những hoài niệm về quá khứ lịch sử mà nên tăng cường suy nghĩ sáng tạo cho hiện tại và tương lai". Điều đó là cần nhưng không thể tách lịch sử với hiện tại, tách dân tộc với quốc tế trong đào tạo nhân tài. Trong đào tạo và bồi dưỡng nhân tài phải phát huy những tinh hoa dân tộc, bồi dưỡng lòng tự tôn, tự hào dân tộc. Đồng thời chống lại sự phản bội quyền lợi dân tộc. Ngày nay trí thức Việt Nam cần được đào tạo để có thể đạt tới tầm cao quốc tế, nhưng cái gốc dân tộc "yêu nước, trọng dân" thì không thể bỏ qua được.

Hiện nay, khát vọng của toàn dân ta là làm sao có được nhiều nhân tài trong mọi lĩnh vực có tầm cỡ quốc tế. Nhà nước và nhân dân đều chăm lo tới nhiệm vụ này. Thật chưa có bao giờ trên đất nước Việt Nam ta lại có phong trào “nhà nhà du học, người người du học" như hiện nay. Nhà nước và nhân dân cùng đẩy mạnh việc cho con em đi du học để đào tạo nhân tài. Những nhân tài được đào tạo ra dẫu từ nguồn tài chính nào mà khi thành tài không có cống hiến cho dân tộc thì cũng cần xem xét cái đức của nhân tài cũng như về mục tiêu đào tạo. Việc chảy máu chất xám về khoa học kỹ thuật đã được nhiều dân tộc cảnh báo và tìm ra các phương thức hữu hiệu để ngăn ngừa. Ngoài việc cải thiện điều kiện sinh hoạt và làm việc cho nhân tài thì việc nâng cao lòng yêu nước và tinh thần tự tôn, tự hào dân tộc vẫn luôn là yêu cầu không thể thiếu được.

Thời đại và nhân tài

Nhân tài ở Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh được đào tạo từ mọi tầng lớp nhân dân, không phân biệt nguồn gốc xuất thân, thành phần giai cấp xã hội. Điều đó thật phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước trong vận hội mới của dân tộc. Từ Cách mạng Tháng Tám, đến 2 cuộc kháng chiến, nhân tài được chăm lo đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng. Cả trí thức cũ lẫn trí thức mới đều được Hồ Chủ tịch chân thành dìu dắt và trọng dụng. Trong cách mạng và kháng chiến gian khổ, trí thức thuộc các tầng lớp trên không nhiều, không đủ để đáp ứng được yêu cầu vừa kháng chiến vừa kiến quốc. Đảng và Chính phủ phải chăm lo đào tạo trí thức từ công nhân, nông dân, những thành phần chiếm đại đa số trong dân tộc. Phải làm sao cho không như thời thực dân phong kiến "Nhân tài như lá mùa thu, tuấn kiệt như sao buổi sớm". Đào tạo trí thức từ công nông và các tầng lớp lao động khác lúc đó là đòi hỏi tất yếu của thời đại chống chủ nghĩa đế quốc, giải phóng dân tộc dưới ngọn cờ của chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh. Lịch sử hiện đại của dân tộc đã chứng minh rõ: Đại đa số nhân tài của ta trong hai cuộc kháng chiến là xuất thân từ công nông, do Đảng và Chính phủ cho đi đào tạo cả trong và ngoài nước. Dẫn lại lịch sử như vậy cốt là để chúng ta nhất trí về tính thời đại của nhân tài đất Việt.

Ngày nay chúng ta đang ở trong bước phát triển nhảy vọt về chất của trí thức, của nhân tài Việt Nam từ nền văn minh công nghiệp lên nền văn minh trí tuệ. Trong xu thế hiện đại hóa, toàn cầu hóa, trí thức của ta được gửi đi đào tạo khắp năm châu bốn biển. Ở trong nước giáo dục cũng phải được nâng lên đạt trình độ quốc tế. Do đó, nhân tài của chúng ta càng đa dạng, đa ngành nghề, đa văn hóa. Điều quan trọng là phải làm sao những người được đưa đi đào tạo khi về nước, về địa phương phải hội nhập được với cộng đồng dân tộc, cộng đồng dân cư để phục vụ được đất nước. Báo chí hiện nay đang phản ánh về sự bất cập của du học sinh và sinh viên về sự thiếu thích nghi và hội nhập với điều kiện và hoàn cảnh đất nước và địa phương...

Tính thời đại của nhân tài đất Việt còn đặt ra yêu cầu cần xóa bỏ các thành kiến giai cấp, dân tộc, tôn giáo, khu vực, cố gắng để ngày càng đông lên về số lượng và đạt tầm cao quốc tế về chất lượng. Muốn được như vậy phải trọng thực tài, chống hư danh.

Tính thời đại của nhân tài bao hàm cả tính chân thực và thực chất của nó mà chúng ta phải trân trọng.

Giới tính và nhân tài

Hiện nay cả nước có 1.131 giáo sư và 5.253 phó giáo sư, nhưng trong đó hơn 80% số giáo sư và hơn 30% số phó giáo sư đã hơn 60 tuổi. Trong số 44 tân giáo sư mới được phong năm nay chỉ có 4 người dưới 50 tuổi. Mối quan hệ về tuổi tác và giới của nhân tài Việt Nam cũng đang được thế giới quan tâm.

Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), thế giới quan tâm đến giới trẻ của Việt Nam vì đó chính là lực lượng đáp ứng yêu cầu quốc tế hóa nền kinh tế xã hội Việt Nam, bảo đảm thực hiện những cam kết với WTO. Trong sự hoan nghênh giới trẻ Việt Nam, cũng có những lời khuyến nghị chân thành, như ông Giám đốc Quỹ Á - Âu (ASEF) Won Il đã nói: “Giới trẻ Việt Nam nên tận dụng cơ hội để nâng cao thêm kiến thức về công nghệ thông tin, ngoại ngữ và vẫn nên giữ gìn bản sắc truyền thống của mình trong kỷ nguyên toàn cầu hóa này...” (Báo Tuổi Trẻ ngày 12-11-2006).

Trong lịch sử dân tộc ta, nữ nhân tài cũng có nhiều, chúng ta mới chú ý tôn vinh các nữ anh hùng có công giữ nước chống giặc ngoại xâm như Bà Trưng, Bà Triệu, mà chưa chú ý, khai thác và tôn vinh đúng mức các nữ danh nhân về văn hóa, xã hội, kinh tế, quản lý đất nước. Đặc biệt là các nữ doanh nhân như bà Bổi Lạng ở Hải Dương - doanh nhân nổi tiếng thời Lê Trịnh, thế kỷ XVI-XVII mà Phan Huy Chú đã nêu danh trong Kiến văn tiểu lục, hay nghệ nhân gốm sứ Bùi Thi Hý vùng gốm Chu Đậu mà nay còn danh vang tới tận Thổ Nhĩ Kỳ... Nêu ra một vài dẫn chứng lịch sử, tôi muốn đề cập đến việc đào tạo nhân tài trong nữ giới hiện nay, trong thời đại văn minh trí tuệ của nhân loại.

Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ Condoleezza Rice đã nói trong cuộc trả lời phóng viên báo chí Việt Nam: "Chúng ta rút ra được một vài vấn đề quan trọng là một khi phụ nữ tham gia vào lĩnh vực kinh tế, giáo dục thì con cái sẽ được giáo dục tốt hơn, đất nước Việt Nam sẽ phát triển tốt hơn, nhất là khi chúng ta nói tới những vùng nông thôn mà ở đó trong các làng bản còn nghèo nàn thì việc phụ nữ tham gia kinh doanh là cách tốt để các làng bản đó bắt đầu có được sự thịnh vượng. Tôi tin rằng tôi sẽ tìm thấy nhiều tấm gương điển hình như thế ở Việt Nam...”. Nói đến giới tính và nhân tài, không thể không nói tới mối quan hệ giữa nam giới và nữ giới trong vấn đề này bao gồm cả vấn đề cân bằng giới tính trong mục tiêu phát triển dân số, trong việc xóa bỏ thành kiến “trọng nam khinh nữ”, xóa bỏ tệ nạn bạo hành trong quan hệ gia đình, quan hệ nam nữ.

Nhân tài và hiền tài

Khái niệm "hiền tài " đã được sử dụng rất sớm trong ngôn ngữ và lịch sử dân tộc, được nêu rõ trong lời của Tiến sĩ Thân Nhân Trung thời Lê Thánh Tông: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí mạnh thì thế nước mạnh mẽ, nguyên khí yếu thì thế nước yếu kém” (Bia “Đề tên tiến sĩ” 1442).

Khái niệm "hiền tài" xưa với nội dung "tài gắn chặt với đức" tài đức vẹn toàn. Ông cha ta xưa thường nêu gương những bậc “hiền nhân quân tử” trọng dụng các bậc “hiền triết” nên mới có chính sách "chiêu hiền, đãi sĩ”. Trong kháng chiến chống Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nêu yêu cầu tìm ra các bậc “hiền năng" để chính phủ tuyển lựa và trọng dụng. Hiền tài, hiền nhân, hiền năng đều là chỉ những người vừa có tài vừa có đức. Tài là “kinh bang tế thế” đức là “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” như Bác Hồ thường nhấn mạnh.

Ngày nay chúng ta chủ trương khơi nguồn nhân lực, đào tạo nhân tài. Có ý kiến cho rằng: “Đi vào cơ chế thị trường thì chỉ cần có nhân tài chứ không thể có “hiền tài” vì lúc này cạnh tranh trong nước và trên thế giới không thể giữ chữ “liêm, chính” như quan niệm của ông cha xưa. Những người đi làm “tình báo” về kinh tế và khoa học, kỹ thuật ở một số nước tư bản phát triển đều coi tài năng “ăn cắp kỹ thuật” là cần thiết. Nhật Bản là một nước tiên tiến về kinh tế có đòi hỏi phải có "hiền tài” đâu? Vậy ta chỉ nên nêu yêu cầu đào tạo nhân tài thôi, không cần nêu yêu cầu đào tạo hiền tài.

Tuy vậy, tôi vẫn luôn nhất trí với đường lối cán bộ của Đảng mà các đại hội Đảng đã đề ra là : Bất cứ với loại cán bộ nào, trong đào tạo đều coi trọng cả đức và tài. Vì vậy cả với "nhân tài" và "hiền tài”, đức và tài đều cần được coi trọng như nhau. Vấn đề cần đi sâu là "đức" hiện nay, trong cơ chế thị trường, trong toàn cầu hóa, hiện đại hóa cần có nội dung như thế nào đối với từng loại cán bộ, cái gì thuộc về truyền thống đạo lý như “yêu nước, trọng dân, anh hùng bất khuất”... cần phải phát huy, cái gì là sáng tạo trong hoàn cảnh mới phải mạnh bạo thể nghiệm. Và riêng trong các lãnh vực chính trị, quân sự, giáo dục, khoa học thì "hiền tài" vẫn cần được coi trọng, cả trong đào tạo lẫn trong sử dụng và phát huy tác dụng.

GS. Văn Tạo (Theo Báo Quảng Nam)
 

           http://vietsciences.free.fr  và http://vietsciences.org