Pour
Pierre
Mới đầu tháng ba hoa
xuân đã nở rộ. Năm nay xuân về sớm hơn những
năm trước, cũng vì mùa đông quá ấm, vạn vật
không có thì giờ nghỉ ngơi. Các chính khách
mầu xanh nơi đây kêu gào bảo vệ môi trường
đã quá ô nhiễm, làm cho tôi bật cười khi nhớ
đến một bà chính khách mầu xanh khen nức nở
trước ống kính săn hình của báo chí: "Ồ, con
bò cái thật là đẹp", mà không biết rằng bà
ta đang đứng trước một con bò đực.
Trên mảnh vườn nhỏ của
tôi lú lên những cụm hoa vành khăn,hoa thủy
tiên, hoa báo xuân, hoa giọt sữa, hoa mẫu
đơn. Trên cành thì hoa mận, hoa đào đua nhau
nở rộ, làm những cây táo, cây lê vội vã trổ
mầm xanh. Những chiếc lá
mới, vừa đỏ vừa xanh, chợt nhú ra be bé trên
những cành hồng khẳng khiu. Chim chóc kéo về
hát ríu rít suốt chiều hôm sáng sớm, và hấp
tấp nhặt những cành cây vụn làm tổ trên cao.
Trời
xuân đổi tiết luôn luôn, từ những đám mây
đen khổng lồ kéo về cuồn cuộn đe dọa, từ
những cơn gió chặt ngã cây rừng đuổi chó vào
chuồng nằm im thin thít, từ những cơn mưa
xuân dầm dề rả rướt suốt cả ngày làm mọi
người bó gối chồn chân ngồi nhà không biết
đi đâu, cho đến những làn nắng xuân ấm áp
lóng lánh vàng làm cho trái tim tưởng đã cằn
cỗi trở nên rạo rực muốn bay khắp bốn phương
trời.
Cũng vì
trời mưa, đất sét trở thành bùn trơn tuột
luột, sợ té gẫy lưng ngoài vườn, mà tôi đâm
ra loay hoay dọn những thùng sách cũ. Mỗi
lần dọn nhà, khổ nhất là đống sách. Thùng
sách nào cũng nặng chình chịch, khuân vác
xuống cầu thang, lên cầu thang bở cả hơi
tai, xong rồi chất đống để một chỗ cả năm,
vì còn nhiều việc khác cấp bách hơn. Nhưng
sách vở, thư từ, hình ảnh quả thật là một
kho tàng quý báu. Ngay cả những tờ lịch bóc.
Tôi ngẩn ngơ từ suốt ngày hôm qua, thúc
bách, hôm nay phải viết những dòng này, chỉ
vì một tờ lịch cũ bóc ngày 05 tháng tám năm
1999, trên đó có vài câu thơ của nhà thơ Vũ
Quần Phương
Anh đứng bên cầu đợi em
Đứng một ngày đất lạ thành
quen
Đứng một đời đất quen thành
lạ
Nước chảy... kìa em, anh đợi
em.
Tờ lịch
này lại nằm trên một cuốn sách cũ bằng tiếng
Pháp "Structure de la langue vietnamienne",
bản dịch của cuốn Khảo luận về ngữ pháp Việt
Nam của Trương văn Chình và Nguyễn Hiến Lê
xuất bản năm 1963 tại Huế. Lật đại một trang
như bói Kiều, tôi rơi vào hàng chữ:
Tordu: cong queo, còng quèo, hay: cong queo
còng quèo
Déformé: méo mó, mẹo mọ, hay: méo mó mẹo mọ
Tout
petit: tí tẹo, tì teo, hay: tí tẹo tì teo
Sournois: tâm ngẩm, tầm ngầm hay: tâm ngẩm
tầm ngầm
Phần
tôi, đêm nay, trân trọng dán tờ lịch cũ vào
nhật ký, rồi đi ngủ với những câu thơ, để
ngày mai lên đường đi dạo mùa xuân.
Làng Mai
Đã mấy
chục năm qua, tôi chưa có dịp đặt chân đến
vùng đất lạ này, dù là khoảng cách không xa
lắm. Đường đi không khó vì ngăn sông cách
núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông.
Đã bao nhiêu lần tôi muốn lên đường đi,
nhưng vẫn ngần ngại. Không phải lúc nào cũng
thực hiện được ngay điều mình muốn. Xuân
này, trước khi đến Thonac, tôi muốn ghé thăm
Làng Mai.
Nếu tìm
địa danh Làng Mai trên bản đồ nước Pháp có
mà tìm đỏ mắt cũng không ra, đừng nói chi
đến việc tìm ra bẩy xóm của Làng Mai - Xóm
Thượng, Xóm Hạ, Xóm Mới, Xóm Trung, Xóm Mới
Đầu Thôn, Xóm Mới Lưng Đồi và Xóm Đoài, rồi
lại còn tên các chùa - Chùa Pháp Vân, Chùa
Sơn Hạ, Chùa Cam Lộ, Chùa Từ Nghiêm.
Cách
dùng chữ "Làng", "Xóm" càng làm cho tôi tò
mò, muốn biết cái làng Việt Nam ấy, trên đất
Pháp là như thế nào. Trong trí tưởng tượng
đơn giản của tôi thì có thể đó là một cái
làng gồm bẩy xóm như ở Việt Nam quây quần
với nhau.
Làng
Mai, tên chính thức tiếng Pháp là Village
Des Pruniers (tiếng Anh dịch là Plum
Village), làm cho tôi thắc mắc, nghĩ
đến...hoa mai và ô mai, vì "Pruniers" là
danh từ chung của một nhóm cây mận có nhiều
loại khác nhau như là mirabelles, reine
Claude hay quetsch trong vườn nhà tôi.
Hỏi một
người bạn cũ về hoa mai và ô mai, anh Trần
Minh Khôi, thì anh chế diễu tôi chỉ háo ăn,
rồi giải thích một cách say sưa:
"Ô-Mai,
còn có tên gọi là ô-môi
hay xí muội (dân
miền Nam gọi) có gốc cơ bản từ quả Mai của
cây Mai bên Trung Quốc, tức là loại cây mai
(mơ), đầu xuân đã nở hoa, có hai thứ trắng
và đỏ. Thứ trắng gọi là "lục ngạc mai", nở
hết hoa rồi mới nẩy lá, quả chua, chín thì
sắc vàng. Giống Mai này có tên khoa học là
Prunus Mume, thuộc họ Hoa Hồng (Rosaleal).
Mai này tương cận với cây Mơ, có tên khoa
học Prunus Armeniaca Lin (ở miền Bắc mình
thường gọi) được ướp đường hoắc muối sấy
khô, dùng làm thuốc hay để ăn.
Sau
này người Việt mình lại dùng một số quả khác
biến chế theo cách đó nên mới có thêm các
khái niệm đi kèm để phân biệt. Thí dụ: ô-mai
me, ô-mai mơ, ô-mai sấu, ô-mai cam thảo,
ô-mai tắc cam, ô-mai me tắc, gừng ô-mai
v.v... (Oh, lecker !!! Ngon quá)
Mai
này hoàn toàn khác với cây Mai vàng chưng
vào dịp Tết ở miền Nam VN. Đặc biệt trong
văn học Trung Quốc, người ta thường nói đến
Tùng, Trúc, Mai... là chính loại Mai này,
chứ không phải là Mai vàng của VN. Còn trong
văn học Việt Nam thì lạ, chỉ thấy gọi "tuổi
học trò" là "tuổi ô mai"... mà chẳng thấy
gọi "tuổi sồn sồn" như chúng mình là gì cả
nhỉ... có nên gọi là "tuổi ô-hô" chăng ???"
Chuyến
này, tôi dành thời gian cho sự ham muốn được
biết thêm vài điều mới lạ, dù đường xa, dù
mưa xuân lấm tấm ướt đường, không chạy nhanh
được, phần lớn thì giờ là ngồi trong xe ngắm
cảnh, tôi ghé nhiều nơi, nhìn cho đã mắt
những gì mình chưa thấy, như con nít thấy
cục kẹo. Thậm chí, khi đi ngang qua Limoges,
thành phố nổi tiếng khắp thế giới vì sản
xuất đồ sứ men trắng hạng sang, mưa tuyết
phủ đầy mặt đất, các xe đều bật đèn và chạy
chậm hẳn lại, như lạc lõng vào một thế giới
khác đang vẫn còn mùa đông ngự trị. Trên cao
nguyên Ngàn Bò (dịch theo nghĩa đen của địa
danh "plateau de Millevaches", nhưng các nhà
ngôn ngữ học còn đang tranh cãi về nguồn gốc
của "Millevaches": hoặc là ngàn suối "mille
batz”, theo gốc "batz” - suối - hoặc là "au
millieu de nulle part” theo gốc "vaque” mi -
le - vaque - vacant, vide) không thấy một
con bò nào cả, chỉ có tuyết rơi. Bởi thế mà
đi hai ngày từ Paris mới đến thành phố
Bergerac, cách Paris khoảng 600 cây số xuôi
về hướng nam, để đến Làng Mai.
Thành
phố Bergerac là một vùng sản xuất rượu vang.
Các loại rượu như Bergerac, Monbazillac,
Pécharmant được các siêu thị và các nơi bán
rượu xếp rượu vào khu "Sud-Ouest" (Tây Nam).
Bergerac thuộc vùng thung lũng sông
Dordogne, khu vực Périgord pourpre, cho nên
các món ăn đặc sản của vùng này cũng chế
biến từ thịt vịt, thịt ngỗng. Nhưng sợ thèm
rượu ngon mà mềm môi, tôi không dám lang
thang lâu ở Bergerac, mà chỉ nghỉ mệt qua
đêm rồi sáng sau tôi tìm đến Xóm Thượng.
Tên
Việt Nam là thế, nhưng tên tiếng Pháp là chi
hè ! Biết là không xa Bergerac nhưng đi lòng
vòng từ sáng sớm, thắng gấp mấy lần, quay xe
mấy lần mà tìm chưa ra Làng Mai. Ở vùng này,
cũng như những vùng quê khác trên đất Pháp,
lưa thưa nông trại và ruộng, vắng bóng
người. Bergerac toàn là ruộng nho, nhìn đâu
cũng thấy ruộng nho, nhưng đầu xuân thì
những gốc nho khẳng khiu còn trơ trụi lá.
Nhìn ruộng nho rất sạch, không một cọng cỏ
dại, mặt đất như có ai cầm lược chải chuốt
bằng phẳng, các gốc nho được uốn cùng về một
hướng, tôi không khỏi phục công lao người
làm ruộng, nhưng cũng tự đặt câu hỏi về mức
độ sử dụng thuốc hóa học trừ sâu bọ và các
loại cây dại, vì tôi biết thế nào là nhổ cỏ
dại trong vườn nhà, chỉ sau ba bốn ngày nắng
ấm, nhưng nhất là sau những cơn mưa, chúng
trỗi lên từ đất một cách rất phấn khởi vui
tươi, nhổ hết đợt này, mọc lên đợt khác.
Đi
loanh quanh một hồi, chợt tôi thấy một tấm
bản nhỏ cắm ở một ngã tư đường ruộng chỉ
hướng Meyrac. Một địa danh rất nhỏ không có
tên trên bản đồ. Mừng quá, chạy thêm một
chút nữa, thì lướt nhanh qua một cái gì có
vẻ Á Châu bên vệ đường. Lật đật lùi xe lại.
À, ra thế: "Village Des Pruniers".
Eureka !
|
Làng Mai – Xóm Hạ |
Nhưng vào đến chỗ đậu
xe, tôi hoàn toàn ngơ ngác không biết mình ở
đâu ! Trước mặt là hai dẫy nhà ngang dài và
thấp, ngó sang phía tay phải, đằng xa, thì
thấy một cái chuông chùa, treo, không phải
trên gác, mà là dưới mái ngói hai tầng, bốn
góc uốn cong, trống trải bốn phía, như lơ
lửng trong không. Toàn cảnh, im lặng, không
có bóng người. Tôi nhẹ bước, len lén như con
mèo ăn vụng, đi về khoản đất treo cái
chuông. Một góc khoáng đãng hiện ra, tiếng
chuông chùa chắc là phải vang xa lắm.
Tiếng chuông chùa vang
xa trong không gian của nước Pháp ? Thật là
lý thú ! Tôi không khỏi nhớ ngay đến Giám
Mục Bá Đa Lộc (1) và các giáo sĩ khác đã
sang giảng đạo Thiên chúa để khai phá ở Việt
Nam, thì bây giờ, ngược lại, các thầy cô
đang giảng đạo Phật trên đất Pháp.
Trước chuông, một
khoảng đất lớn trồng toàn cây Mận (cây
Prunus, gọi là cây Mận, cây Mơ hay cây Mai
tùy ý), nhưng vùng này tiết trời còn lạnh,
nên các cây còn đứng khẳng khiu, chưa trổ
hoa. Loại cây này, hoa trổ trước, rồi lá mới
nẩy mầm sau.
Ngoài cái chuông, không
thấy có chùa như trong trí tưởng tượng của
tôi, một cái chùa như ở Việt Nam, hay ở vùng
ngoại ô Paris, mà là những dẫy nhà thâm
thấp, bốn năm cái, xây gần với nhau, cũ mới
lẫn lộn, cái thì xây bằng đá, cái thì xây
bằng bê tông, có thể gọi là "Làng".
Thoang thoáng, trong
một căn có một cánh cửa mở, bóng một sư cô
nhỏ nhắn mặc áo nâu, đang bận tiếp một người
khách.
Đột nhiên, một người
đàn bà Pháp, khoác chiếc áo nâu trên một bộ
quần áo thường nhật, không biết từ đâu ra,
tiến lại phía tôi chào hỏi. Bà cho tôi biết
bà là tín nữ đến đây để học đạo và thiền, và
tôi đang ở khu vực chùa dành cho Sư nữ và
tín đồ nữ, (tức là Chùa Cam Lộ, Xóm Hạ trong
địa danh Meyrac thuộc địa phận của làng
Loubes-Bernac), rồi dắt tôi đi xem từng
giảng đường, nơi thầy hành lễ và giảng đạo.
Các giảng đường này khá lớn, trống trơn,
không bàn, không ghế, chỉ có một cái bệ hai,
ba tầng, trên có các vật dụng thờ tự ở một
đầu, giảng đường lớn nhất có thể thâu nhận
được 600 tín đồ hành lễ. Ngoài các giảng
đường, có vài dẫy nhà để ở cho các sư cô và
người đến học đạo. Bà dắt tôi vào bếp, rót
cho tôi một ly nước trà nóng trong một bình
thật lớn để sẵn, y như thói quen ở Việt Nam.
Cái bếp cũng rất rộng, trống khoáng, nồi
niêu xoong chảo rất to, để nấu cho cả mấy
trăm người ăn.
Tôi mới được biết là cả
chùa đi vắng vì Thầy Thích Nhất Hạnh đang du
hành ở Việt Nam ! Nếu có ai trách tôi rằng,
ra ngõ không coi ngày, thì cũng đúng. Thấy
sư cô một mình bận bịu, tôi không dám phiền
lâu, rồi chào tạm biệt bà tín nữ người Pháp
để đi tìm Xóm Thượng theo bà chỉ.
Thật ra làng Mai không
gần Bordeaux lắm, như mọi người thường nói
cho qua chuyện, mà cách Bordeaux khoảng 85
cây số về hướng Đông, và cách Bergerac
khoảng 25 cây số.
Từ làng Loubes-Bernac,
tôi tìm làng Thenac, cách đó mấy cây số lên
đồi. Chạy một vòng quanh làng Thenac thì tôi
thấy bảng chỉ địa danh Le Pey, nơi có Xóm
Thượng, tức là chùa Pháp Vân, dành cho sư
nam và tín đồ nam.
Làng Mai Xóm Thượng
cũng được xây dựng giống như Xóm Hạ (hay
ngược lại), cũng có một chuông chùa dưới mái
ngói, chung quanh treo biển "je suis chez
moi, je suis arrivé", quang cảnh đẹp hơn,
phóng khoát hơn, nhiều ánh sáng hơn, trong
vườn có nhiều hoa hơn và suốt ngày lộng gió.
Nhìn tuổi của những bụi cây tre cao lớn, các
cây tre mọc chen nhau khin khít, trong khu
vực làng, tôi nghĩ rằng Xóm Thượng có lẽ
được thành lập trước Xóm Hạ. Những người
thường quen sống trong những thành phố lớn
đầy người, đầy xe cộ, đầy bụi bặm, hẳn phải
yêu thích phong cảnh nơi đây, yên tĩnh và
thơ mộng.
Xóm Thượng cũng hoàn
toàn trống vắng, thấp thoáng bóng hai sư nam
đang nấu bếp cho bữa trai trưa.
Tôi lên
đường đi về hướng Thonac, cái tên đứng đầu
trong danh sách các địa danh trong chuyến đi
khảo sát lần này của tôi.
Điểm hẹn THONAC
Tôi hỏi
Pierre, tại sao các địa danh ở vùng này đều
chấm dứt bằng chữ .."ac". Pierre giải thích
"ac", viết tắt của chữ la tinh " acum", có
nghĩa là "nhà", hay "địa phận", mỗi địa danh
đều hàm ẩn một ý nghĩa nào đó.
Thonac
là một làng nhỏ, nằm thơ mộng bên con sông
Vézère, độ cao chênh lệch từ 67 mét đến 232
mét, hiện nay có khoảng 250 dân và vài chục
nóc nhà, diện tích 11,62 cây số vuông, tức
là rất thưa dân, trung bình có 20 dân cư
trên một cây số vuông. Con đường chính chạy
qua làng, uốn khúc quanh co theo dòng nước
mầu xanh như lá cây của con sông Vézère. Nếu
không để ý, thì lái xe chạy ngang qua Thonac
mà không kịp biết.
Tên
làng Thonac xuất hiện lần thứ nhất vào năm
1382. Hiện nay làng Thonac thuộc về vùng
hành chánh Aquitaine, khu vực Dordogne, tỉnh
Sarlat-la-Canéda, huyện Montignac (so sánh
với các cấp địa giới hành chánh Việt Nam như
tỉnh, huyện, thành phố, quận, làng, xã).
Trung
tâm làng rất nhỏ, còn nhiều nét thôn dã, chỉ
có vài quán ăn, tạp hóa, một khách sạn nhỏ,
nhà thờ và nhà hành chánh của làng, đang
được sửa chữa lại, vì trước kia đây là nhà ở
và làm việc của linh mục cai quản nhà thờ.
Trong gian phòng lớn của nhà hành chánh làng
có một vòi nước Fontaine
"Saint-Jacques-de-Compostelle”.
Lúc
trông thấy nhà thờ làng từ chỗ đậu xe, cách
đấy mấy trăm thước, tôi ngạc nhiên, vì kiến
trúc nhà thờ rất lạ, giống như một nhà thờ ở
tận bên Mễ Tây Cơ trong các phim cao bồi bắn
súng cưỡi ngựa. Nhà thờ cũng đang được sửa
chữa lại. Tôi hồi hộp đẩy cánh cửa gỗ nặng
nề kêu ken két bước vào bên trong. Nhà thờ
tuy nhỏ, nhưng bầy biện ngăn nắp, sạch sẽ,
không có mùi ẩm mốc như trong một số nhà thờ
bị bỏ phế mà tôi đã vào thăm.
Vị Làng
Trưởng, ông Serge Richard, được dân bầu từ
năm 2001, không ngại công sức làm đẹp làng
Thonac lưu chân du khách viếng thăm làng lâu
hơn, để cho làng của ông không chỉ trở nên
"sống động" trong vài tháng hè chính trong
năm. Ông than, mùa đông, không có đến một
con mèo chạy qua đường.
Năm
2003 làng Thonac được cho phép mang huy hiệu
của gia đình Losse, mà ngày nay đã tuyệt
dòng, đó là một huy hiệu có chín ngôi sao
vàng trên một nền xanh nước biển dưới một
vương niệm lãnh chúa, và hàng chữ : "1382 –
Thonacum – 2002", một khoảng cách thời gian
620 năm.
Làng
Montignac, cách làng Thonac 6 cây số về phía
thượng nguồn, đã có vẻ là một làng du khách,
xinh xắn, đẹp đẽ, có nhiều nhà hàng với thực
đơn hấp dẫn, có cầu cổ bắc ngang sông
Vézère, có một căn nhà cổ xay bột bằng nước
sông và những đường hẻm chật hẹp chỉ một
người lọt qua.
Thonac
cũng là tên một con sông nhỏ, một trong hai
mươi mốt sông phụ của sông Vézère, bắt nguồn
từ làng Bars, dài khoảng 11 cây số, rồi đổ
vào sông Vézère ở làng Thonac.
Chính
ra làng Thonac có điều kiện cơ sở để phát
triển thu nhập kinh tế vì thung lũng sông
Vézère
là một trong những khu vực di tích lịch sử
rất nổi tiếng chứa đựng nhiều hang đá thời
tiền sử, đã được cơ quan UNESCO công nhận là
di sản văn hóa thế giới, thí dụ như động
thời tiền sử Lascaux – của thời đại
Magdalénien, cách chúng ta khoảng 17.000 năm
- với những hình vẽ thú vật rất mỹ thuật
trên vách và nóc các hang đá, cách Thonac
chỉ có 5 cây số, mà ai có dịp đi ngang cũng
muốn vào xem.
Sông
Vézère dài khoảng 211 cây số, bắt nguồn từ
làng Tourbière de Longéroux ở một độ cao 941
mét tại địa danh Puy Pendu, gần đỉnh núi
Mont Bessou cao 977 mét, trên cao nguyên
mang tên Ngàn Bò (Plateau de Millevaches)
của rặng núi cổ Massif central thuộc vùng
Corrèze, chảy ngoằn ngoèo qua hai vùng
Limousin và Perigord, tạo ra một thung lũng
rộng khoảng 3.736 cây số vuông, đem theo
lượng nước của hai mốt con sông phụ, trước
khi đổ vào sông Dordogne tại thị trấn
Limeuil.
Nước
sông Vézère sói mòn vào vách núi hai bên,
tạo thành những hang động lớn, nơi trú ẩn
thiên nhiên cho người tiền sử thời đại Homo
Erectus, từ 1,85 triệu năm cho đến khoảng
400.000 năm trước đây, đã biết sử dụng lửa,
chế tạo các vật dụng và vũ khí bằng đá lửa
cứng (silex) và gỗ, săn bắn thú rừng, ăn
thịt, trái cây và các loại củ, rễ cây, lột
da thú làm quần áo, để lại nhiều dấu tích
tại nhiều địa danh hiện nay như Lascaux,
Font-de-Gaume, les Combarelles,
Castel-Merle, Laugerie-basse , Saint-Cirq,
Bernifal, Cap-Blanc, Bara-Bahau.
Ngang
sông Vézère có nhiều cây cầu cổ từ thế kỷ
thứ mười bốn bằng đá cổ. Dọc sông, có nhiều
làng nhỏ với chục nóc nhà, cây cối xanh um
vây phủ chung quanh. Còn trên sông thì người
thích chèo thuyền sẽ được toại nguyện, vì độ
nước chảy đủ mạnh, sông chảy loanh quanh,
nhiều ngóc ngách, qua nhiều làng nhỏ ven
sông. Thonac thuộc về hạ nguồn sông Vézère
nên có thể chèo thuyền suốt năm, nhưng mực
nước tốt nhất là từ tháng mười một cho đến
tháng năm.
Pierre
mướn thuyền ở làng Montignac, chèo xuôi dòng
Vézère ngang qua Thonac xuống làng Les
Eyzies, tôi lái xe dọc sông đến chỗ hẹn,
ngồi bên bờ sông nhìn bóng những gợn mây
trắng phản chiếu trên mặt nước xanh trôi
liên tục và nghĩ mông lung, chờ thuyền
Pierre về. Lên lại bờ, anh ta cười toe toét,
ba hoa diễn tả, cái thú chèo thuyền trên
sông, gió mát hiu hiu, tiếng mái chèo xì xọt
trong nước, núi, thành cổ, lâu đài, cây cối
ngả nghiêng lươn lướt hai bên bờ.
Chưa
hết, tại sao tôi tìm đến Thonac ? Tôi muốn
xem tận mắt ngôi mộ của vua Hàm Nghi trong
nghĩa địa của làng và lâu đài của gia đình
vua Hàm Nghi tại làng Thonac: château de
Losse.
Từ khi
tình cờ được xem tận mắt nguồn của một con
sông lớn, tôi đứng sững sờ nhìn nước nguồn
dâng lên lặng lẽ từ lòng đất trong một cái
hố khá tròn, rộng khoảng bốn sải tay. Thỉnh
thoảng những bọt trắng tròn như bong bóng
sủi lên mặt nước. Nước nguồn tràn đầy hố,
rồi thoát ra cuồn cuộn thành một con suối
nhỏ. Tôi biết rằng con suối này sẽ trở thành
một con sông lớn trào ra biển cả. Ấn tượng
mạnh mẽ ấy, làm cho tôi rất ham thích đi tìm
nguồn sông, nếu có dịp, nhưng cũng háo hức
đi tìm "nguồn" của nhiều sự việc.
Đã có
vài tác giả viết lẫn lộn lâu đài Losse với
lâu đài Nauche, hay viết lâu đài Losse thành
lâu đài Cosse mà lại ở Cannes, một thành phố
lớn nằm bên bờ biển Địa Trung Hải phía nam
nước Pháp, cũng như viết nhầm lẫn Thonac với
Sarlat, thật ra làng Thonac cách thị trấn
Sarlat khoảng 30 cây số, và lâu đài Losse
cách lâu đài Nauche khoảng hơn 100 cây số
đường núi. Vợ vua Hàm Nghi không phải sinh ở
Marcelle. Tên của bà là Marcelle ! Hoặc viết
một cách mơ hồ rằng Hoàng Hậu Nam Phương là
"hàng xóm" của vua Hàm Nghi. Chính vì những
thông tin không chính xác này làm cho tôi
phải đi đến tận nơi, nhìn tận mắt.
Gia
đình đương kim chủ nhân lâu đài Losse, mua
lâu đài Losse vào tháng tư năm 1999, đang
biến lâu đài Losse trở thành một trọng điểm
hấp dẫn du khách, trang trí nội thất bằng
những bàn ghế tủ giả của thời thế kỷ thứ
mười sáu và mười bẩy để gây dựng lại quang
cảnh sống của Jean de Losse, sử dụng lâu đài
làm phông cho nhiều phim về lịch sử hay
chuyện thần thoại (Cinderella, Les Dames
Galantes, Jacquou le Croquant), mỗi năm tiếp
đón khoảng 30.000 du khách, có thể họ không
muốn nhắc nhở đến giai đoạn quá khứ có liên
hệ đến một vị Hoàng đế nước Việt Nam bị
chính quyền thực dân đày đi Algerie.
Chỉ khi
dọc theo sông Vézère rời khỏi Thonac tôi mới
có dịp hiểu một phần nào lý do tại sao vùng
khúc sông này có rất nhiều lâu đài cổ. Không
thông thạo chút nào về địa lý, phong thổ, và
chỉ nhận xét theo cảm quan, thì tôi thấy đây
là một thung lũng rất đẹp, rất xanh tươi,
rất kín đáo, bốn hướng đều có núi vây bọc
che chở, không nằm trên các trục giao thông
chính, không hề bị tàn phá qua hai trận Đại
Chiến, nhiều ánh sáng, có sông nước, có rừng
thưa, còn nhiều di tích lịch sử rất xa xưa,
làm tôi nhớ những mẩu chuyện đã đọc về các
thầy địa lý phong thổ đi tìm đất cho Vua.
Nhưng
lý do nào đã đưa gia đình vua Hàm Nghi về
nghĩa trang Thonac ?
Ngôi mộ vua Hàm Nghi
|
|
Lâu đài Losse (Thonac) |
Cổng vào nghĩa địa làng Thonac |
Bình
thường, trong các làng mạc ở Pháp, nghĩa địa
thường nằm trong khuôn viên của nhà thờ. Tôi
đi thẳng đến nhà thờ làng Thonac, quanh một
vòng: không thấy nghĩa địa đâu cả. Pierre
tinh mắt, chỉ cho tôi xem các dấu vết còn
sót lại chung quanh các gốc cây mận đang trổ
hoa, nghĩa địa cũ bây giờ đã trở thành bãi
đậu xe bên cạnh nhà thờ.
Tôi vào
khách sạn bên cạnh hỏi thăm, thì được biết
nghĩa địa đã được dời lên một khoảng đất
trên đồi, phía bên kia đường làng chính,
không xa lắm. May mắn hơn nữa, tôi gặp được
bà Christiane Salviat của Nhà Hành Chánh
làng mời vào văn phòng, dù hôm nay là ngày
không tiếp khách, cho xem bản đồ nghĩa địa.
|
|
Nhà Hành Chánh Thonac |
Nhà thờ Thonac |
|
Mộ vua Hàm Nghi tại nghĩa trang
Thonac |
Đường
từ trung tâm làng lên nghĩa địa chỉ khoảng 2
cây số. Trời vừa dứt một cơn mưa xuân, ánh
sáng mù mù ảm đạm, thật là hợp tình hợp
cảnh. Trước đó, tôi đã phải chạy ra hướng
làng Montignac để tìm mua nhang. Mộ của gia
đình vua Hàm Nghi lớn nhất, dựa một chân
tường, hướng về phía cửa chính. Lâu ngày
không ai săn sóc chùi rửa, nắp đá tảng trên
mộ đen thui, rêu xanh mọc đầy. Cái bình hoa
duy nhất ở đầu mộ lưng lửng nước mưa. Không
có hoa và cũng không có một chân nhang. Một
bình hoa mầu xanh nhỏ bằng ny lông bị gió
thổi nằm nghiêng trên đất. Ở đây toàn là mộ
đạo Thiên Chúa. Trên mộ gia đình vua Hàm
Nghi cũng có chạm một cây Thánh giá lớn.
Trong hầm mộ có năm người yên nghỉ: Vua Hàm
Nghi, bà Marcelle LALOË, Công chúa Nhu May*,
Hoàng tử Minh Duc* và bà Marie Jeanne
DELORME.
|
Bia
mộ vua Hàm Nghi (Thonac) |
Các
hàng chữ khắc trên mộ như sau:
S.M.
HAM NGHI, Empereur d'Annam, Hue 1871 - Alger
1944
Nhu
May, Princesse d'Annam, 1905 – 1999
Minh
Duc, Prince d'Annam, 1910 – 1990
Marie
Jeanne DELORME, 1852 - 1941
Bà Marie Jeanne Delorme, sinh ngày 5 tháng 6
năm 1852 tại Besseyre, thuộc địa phận
Loubaresse (Cantal), con của Jean Delorme và
Francoise Esbras, qua đời ngày 2 tháng 9 năm
1941 tại lâu đài Losse. Người làm giấy khai
tử cho bà Marie Jeanne Delorme là công chúa
Nhu May, lúc đó 36 tuổi, nghề nghiệp: nhà
nông (2).
Bà
Delorme có lẽ được an táng trước nhất trong
hầm mộ, vì tất cả những nhân vật khác đều
qua đời sau bà. Người làng Thonac cho rằng
bà Delorme là gia nhân của gia đình vua Hàm
Nghi, nhưng thông tin này sẽ còn phải kiểm
chứng lại nếu có dịp.
S.A.I.
có nghĩa là Son Altesse Impériale, danh xưng
của vương phi, tước vị của bà Marcelle LALOË
khắc trên mộ là Công Chúa, theo truyền thống
nhà Nguyễn không lập ngôi Hoàng Hậu lúc bà
còn sinh thời, và bà cũng không được truy
tôn làm Hoàng Hậu sau khi qua đời, nhưng chữ
"La princesse d'Annam" chỉ
rằng bà là chính phi của vua Hàm Nghi.
S.M. có
nghĩa là Sa Majesté, danh xưng của vua chúa.
Nhưng khắc ghi trên mộ vua Hàm Nghi là
Empereur d'Annam (Hoàng đế An Nam) là không
đúng.
Vào
cuối đời vua Tự Đức, triều đình Huế đã ký
hết hiệp ước này đến hiệp ước khác với Pháp,
mất dần chủ quyền, độc lập, tự do. Các cuộc
nổi dậy chống lại Pháp thì được sử sách viết
là "làm giặc" như Đề Thám (3), hay "nổi
loạn" như phong trào Văn Thân ở Nghệ Tĩnh
năm 1874, và bị quan quân triều đình đánh
dẹp.
Công
việc ngoại giao cầu viện trợ Tầu cũng không
xong, vì trung tá Fournier, đại diện Pháp,
ký với Lý Hồng Chương bản Hòa ước Thiên Tân
ngày 18 tháng 4 năm Giáp Thân (1884), nước
Tầu rút hết quân đóng ở miền Bắc, và công
nhận quyền cai trị của Pháp trên đất Việt
Nam.
Đến khi
các quan Nguyễn Văn Tường, Phạm Thuận Duật
và Tôn Thất Phan của triều đình Huế, ký với
Patenôtre và Rheinart, bản Hòa ước Patenôtre
vào ngày 13 tháng 5 năm 1884 thì nước Việt
Nam mất hết chủ quyền và bị chia làm ba kỳ,
mỗi kỳ có luật lệ riêng và sự giao thông
giữa ba kỳ bị kiểm soát nghiêm ngặt bằng
giấy thông hành.
Patenôtre và tướng Courbet còn chưa hả dạ,
muốn xóa dấu tích của Tầu đối với Việt Nam,
làm áp lực để tịch thâu cái ấn Việt Nam Quốc
Vương Chi Ấn, bằng bạc ròng mạ vàng, nặng 5
kí 9, hình vuông, cạnh to từ 10 đến 12 phân,
của vua nhà Thanh phong cho người khai sáng
nhà Nguyễn – vua Gia Long – năm 1804, đem
chiếc ấn về Pháp làm chứng vật chiến thắng.
Nhưng Nguyễn văn Tường và Phạm Thuận Duật,
trước sự chứng kiến của Patenôtre và
Courbet, nhất định cho nấu chẩy chiếc ấn
lịch sử này, theo thông tin của l'Agence
Havas viết vào ngày 30 tháng 8 năm 1884,
không để cho Patenôtre đem chiếc ấn này về
Pháp. (4)
Đối
ngoại thì như thế còn đối nội thì triều đình
Huế rất lủng củng và chia rẽ vì hai chính
kiến: đánh Pháp hay theo Pháp. Sau giai đoạn
bốn tháng ba vua (Dục Đức – Hiệp Hòa – Kiến
Phúc, 1883 – 1884), hai quan đại thần Nguyễn
văn Tường và Tôn Thất Thuyết chọn Ưng Lịch,
mới có 13 tuổi, em của Ưng Đường (là con
nuôi thứ hai của Tự Đức), lên làm vua.
Nguyễn
Phúc Ưng Lịch, tên húy là Nguyễn Phúc Minh,
sinh ngày 3 tháng 8 năm 1871 tại Huế, con
của Thuận Nghi Kiên Thái Vương Nguyễn Phúc
Hương Hội (Nguyễn Phúc Cai), đăng quang
Hoàng Đế ngày 01 tháng 8 năm 1884 tại Huế,
là vị vua thứ tám của nhà Nguyễn, lấy niên
hiệu Hàm Nghi ngày 15 tháng 2 năm 1885, xưng
danh Đại Nam Hoàng Đế, quốc hiệu là Đại Nam.
Chính
quyền thực dân Pháp ép vua Hàm Nghi phải đổi
tước hiệu lại là Hoàng Đế An Nam, hạn chế
tước vị và quyền lực (hư vị) của vua Hàm
Nghi chỉ trên miền Trung (Annam), coi như
một cách chấp nhận chính thức quyền bảo hộ
và cai trị của Pháp trên ba miền của nước
Việt (theo cách thức quản lý hành chánh của
chính quyền Pháp thì họ áp đặt gọi miền Bắc
là Tonkin, miền Trung là Annam và miền Nam
là Cochinchine).
Thời
gian trị vì của vua Hàm Nghi chưa được một
năm. Vì thái độ hống hách của tướng de
Courcy, đã nhất định đòi đi cùng với 500
quân lính vào cửa chính để yết kiến vua Hàm
Nghi mà Tôn Thất Thuyết tức giận, đem quân
tiến đánh đồn Mang Cá vào nửa đêm về sáng
ngày 5 tháng 7 năm 1885.
Quân
Pháp đánh trả lại đến sáng thì kinh thành
Huế thất thủ, quân Pháp tiến vào nội thành,
chiếm đóng hoàng cung và tịch thu các vũ
khí, báu vật, hơn mười triệu tiền giấy, vàng
thỏi, bạc thỏi. (5)
Vua Hàm
Nghi được Tôn Thất Tuyết và Nguyễn văn Tường
đưa ra khỏi cung điện, lên đường chống Pháp,
nhưng ngay ngày hôm sau Nguyễn Văn Tường trở
về đầu hàng Pháp, rồi hai tháng sau đó bị
Pháp đưa đi đầy cùng với cả gia đình ở
Tahiti. Hàm Nghi ban Hịch Cần Vương kêu gọi
anh hùng các nơi chống Pháp.
Vì sự
phản bội của Nguyễn Đình Tình và Trương
Quang Ngọc, vua Hàm Nghi bị chính quyền thực
dân Pháp bắt vào tháng 9 năm 1888, rồi bị
đưa lên đường đi đày vào cuối năm 1888.
Hàm
Nghi đến Alger (thủ đô của nước Algerie tại
Bắc Phi) vào đầu năm 1889, rồi bị quản thúc
tại Biệt thự Villa des Pins thuộc làng El
Biar, cách Alger 5 cây số, lúc đó Hàm Nghi
mới được 18 tuổi.
Trong
suốt thời gian lưu đày ở Alger, vua Hàm Nghi
chỉ được gọi là Prince d'Annam (Hoàng tử An
Nam) và được lãnh một số tiền cấp dưỡng lúc
ban đầu là hai mươi lăm ngàn quan Pháp một
năm, trích từ ngân sách của Việt Nam để sinh
sống (6).
Theo
khắc ghi trên mộ thì vua Hàm Nghi mất năm
1944 tại El Biar,
Alger, thọ 73 tuổi,
hài cốt vua Hàm Nghi được cải táng về nghĩa
trang Thonac vào năm 1965. Vua Hàm Nghi được
phong miếu hiệu là Hiến Tổ Chương Hoàng Đế.
Ngày 4
tháng 11 năm 1904 vua Hàm Nghi, lúc được 33
tuổi, cưới bà Marcelle Aimée Léonie LALOË,
con gái của ông François Laloë và bà Suzanne
Ving, tại Alger. Bà Suzanne Ving là con gái
của bà Aimée Souham.
Bà
Marcelle Aimée Léonie LALOË sinh ngày 02
tháng 7 năm 1884 và qua đời ngày 05 tháng 9
năm 1974 tại lâu đài Château de Losse trong
làng Thonac, thọ 90 tuổi.
Vua Hàm
Nghi và bà Marcelle Aimée Léonie LALOË có ba
người con: Công chúa Nhu May sinh năm 1905,
Công chúa Nhu Ly* sinh năm 1908 và Hoàng tử
Minh Đức sinh năm 1910. Công chúa Nhu Ly
không được an táng trong hầm mộ gia đình tại
làng Thonac.
Theo sự
chỉ dẫn của ông Richard tôi rời Thonac, trực
chỉ hướng Juillac, cách Thonac khoảng 60,70
cây số về hướng đông bắc, nhưng không dùng
xa lộ mà chọn đường quốc lộ và đường làng,
để dễ tìm hiểu và quan sát phong cảnh hơn.
Đoạn đường từ Thonac đến Juillac xuyên núi,
xuyên rừng, lên cao, xuống dốc, rất đẹp, có
nhiều quang cảnh hùng vĩ.
|
Mộ Hoàng Hậu Nam Phương (Chabrignac) |
Đến
làng Chabrignac, cách Juillac chỉ vài cây
số, đã có kinh nghiệm tìm kiếm, tôi và
Pierre lái xe thẳng đến nghĩa địa nằm ở ven
đường chính, trên một mỏm đồi cao nhìn xuống
làng phía dưới, xem từng tấm bia, từng ngôi
mộ. Ngôi mộ của bà Hoàng Hậu Nam Phương,
người vợ chính thức đầu tiên của Bảo Đại,
rất dễ nhận ra, vì có hai cây tùng trồng hai
bên mộ, nay đã cao và to phình. Ngôi mộ có
vẻ mới được trùng tu lại, sạch sẽ, đơn sơ.
Nắp đậy huyệt chỉ là một tấm bê tông phẳng
phiu, có chạm nổi hình thánh giá và một tấm
bia chìm đề hàng chữ " Sa Majesté Nam Phuong
Impératrice d'Annam 1913 – 1963" . Trên nắp
huyệt dựng một tấm bia khác đề rõ hơn một
chút " Ici repose l'Impératrice Nam Phuong,
née Jeanne Mariette Nguyen Huu Hao,
14.11.1913 – 15.09.1963". Thật ra tên của bà
là Nguyễn Hữu thị Lan. Tấm bia cũ, viết chữ
Hán nôm, vẫn còn đứng ở đầu mộ.
Làng
Chabrignac rộng khoảng 1.000 mẫu, theo thống
kê năm 2002 thì có khoảng 444 dân cư. Từ
nghĩa trang xuống làng, chạy lòng vòng một
quãng thì thấy nơi ở cũ của bà Nam Phương,
một ngôi nhà khá to lớn, gọi là Domaine de
la Perche, nằm khuất trong một khu vực có
nhiều cây cối xanh tươi.
Trở ra
đường cái, tôi dừng xe trước một lâu đài nho
nhỏ, đẹp giống như một lâu đài trong truyện
cổ tích thần thoại Bạch Tuyết và bẩy chú lùn
hay Công chúa ngủ trong rừng, đứng ngắm hồi
lâu. Lâu đài này có bốn tháp hình tròn ở bốn
góc, liên kết với phần giữa thành một khối,
xây từ khoảng thế kỷ thứ XIV, XV, nổi bật
trên một phần đất dọn dẹp rất sạch sẽ, không
có cỏ dại mọc, chứng tỏ là có người ở. Gần
đấy, hiện ra nóc chuông nhà thờ làng
Chabrignac, cũng có vẻ Mễ Tây Cơ giống như
nhà thờ làng Thonac. Bên cạnh nhà thờ, là
một căn nhà rất lớn, nằm trên một khoảng
vườn rộng, tường cao vây bọc chung quanh,
cổng nhà rất oai nghiêm. Tôi và Pierre đang
đứng tần ngần ngắm nhà thờ, bàn tán với
nhau, thì một "ông tiên" hiện ra, thấy bộ
tướng chúng tôi không phải là kẻ trộm cướp,
ông vui vẻ trò chuyện trao đổi. Hóa ra, trời
thương tôi thật, tôi đã thấy trước mắt lâu
đài có bốn tháp tròn ấy của ông Tử Tước
Vicomte de la Besse, cháu ngoại của vua Hàm
Nghi. Lúc vua Hàm Nghi qua đời thì Tử Tước
mới có bẩy tuổi.
Chưa
hết mệt, chúng tôi lại đi tiếp tục để đến
thị trấn Vigeois, cách Chabrignac khoảng 30
cây số đường núi. Trên đoạn đường này, tôi
đi ngang qua lâu đài của bà Hầu Tước
Marquise de Pompadour, người tình rồi bạn
thân của vua Louis XV tại thị trấn
Arnac-Pompadour, một nơi thu hút khá nhiều
du khách.
|
|
Thị trấn Vigeois |
Lâu đài Nauche (Vigeois) |
Vigeois, nằm trên một độ cao 311 mét, có
khoảng trên 1.200 dân, thuộc vùng hành chánh
của thành phố Brive, cách Chabrignac khoảng
30 cây số về hướng nam. Lâu đài La Nauche
nằm trong địa phận Simons của thị trấn
Vigeois, là chỗ ở của gia đình Bá tước de La
Besse.
Người
con gái thứ hai của vua Hàm Nghi mang tên
Nhu Ly sinh ngày 22 tháng 7 năm 1908, kết
duyên ngày 20 tháng tư năm 1933, với Bá tước
François Barthomivat de La Besse (sinh ngày
3 tháng 2 năm 1905), qua đời ngày 9 tháng 7
năm 2005, thọ 97 tuổi, được an táng riêng rẽ
trong nghiã trang của thị trấn Vigeois,
chung trong hầm mộ với bà Marguerite Aglaé
de la Besse Nauche de Leymarie (1804 –
1867), cũng không chung một mộ với chồng.
Bà công chúa Nhu Ly có ba người con, hai gái
một trai, Françoise, Philippe và Anne (tức
là ba cháu ngoại của vua Hàm Nghi).
Françoise Barthomivat de la Besse kết hôn
với Jacques Matis de Bisschop, có ba người
con.
Philippe Barthomivat, Vicomte de la Besse.
Sinh ngày 25 tháng 2 năm 1937, kết hôn với
bà Jane Boardman, không có hậu duệ.
Anne Alice Marie Barthomivat de la Besse kết
hôn với ông Guy Dabat, có bốn người con.
Lâu đài của Công Chúa
Nhữ Mây: Château de Losse
Người
con gái đầu lòng của vua Hàm Nghi với bà
Marcelle Aimée Léonie LALOË, mang tên, theo
sổ sách hành chánh của Pháp ghi chép nguyên
bản lúc bà qua đời là: Nhu-May, Suzanne,
Henriette UNG LICH HAM NGHI D'ANNAM, sinh
ngày 17 tháng 8 năm 1905 tại El Biar
(Algérie), cư trú tại " La petite maison de
Losse" (căn nhà nhỏ của Losse), qua đời ngày
01 tháng 11 năm 1999 tại nhà thương của thị
trấn Vigeois (vùng Corrèze), Pháp, thọ 94
tuổi. Bà công chúa Nhu-May, sống độc thân,
không có hậu duệ, lúc sinh thời là nhà nông.
Theo
chữ ký của bà có bỏ dấu tiếng Việt trong văn
tự còn được lưu trữ thì tên của bà là Nhữ
Mây. Một cái tên rất lạ và rất đẹp.
Trong các văn bản chính thức, bà ký tên là
Nhữ Mây d'Annam. (7)
Công
chúa Nhữ Mây về Pháp mua lâu đài Losse vào
ngày 6 tháng 8 năm 1930, lúc bà mới có 25
tuổi. Trong văn tự mua bán lâu đài Losse ký
với các người bán là ông Marie Antoine Jules
Maurice Challe, bà Marie Joseph Françoise
Elisabeth Mercier và cô Françoise Marie
Beausoleil, thì địa chỉ của công chúa Nhữ
Mây khi ấy là Biệt thự Gia Long, El Biar,
Algérie. Bà mua lâu đài Losse với giá là bốn
trăm năm chục ngàn quan Pháp, trả làm hai
lần, lúc giao lâu đài trả ba trăm ngàn quan
tiền mặt, phần còn lại một trăm năm chục
ngàn quan Pháp sẽ được trả trong vòng ba
năm, với phân lãi là bẩy quan hai chục xu
(tức là 7,2%).
Lâu
đài Losse (Château de Losse) được xây cất
sát bờ sông Vézère, khởi đầu xây theo kiểu
một thành trì nhỏ kiên cố thời Trung cổ, có
hào nước rộng chung quanh và cầu treo để
chống xâm nhập bằng người và ngựa, nền móng
đặt từ thế kỷ thứ XIV, dần dần đến năm 1576
được sửa sang lại thành một lâu đài theo
phong cách mỹ thuật của thời Phục Hưng
(Renaissance) theo ý của chủ nhân lâu đài
khi ấy là Jean II de Losse.
Jean
de Losse xuất thân gốc Hòa Lan. Lịch sử dòng
họ Losse còn ghi được từ thế hệ Frénon de
Losse, tử trận tại Montlery vào năm 1465.
Sau đó, đến con của Frénon de Losse, cũng
tên là Frénon de Losse, làm quan võ cho vua
Louis XI. Cháu nội của Frénon de Losse, tên
là Pierre de Losse, chết tại vùng Milan năm
1515 trong một trận chiến dưới quyền vua
Francois 1er. Con của Pierre de Losse là
Jean II de Losse, sau khi đã có nhiều công
trạng, được phong làm Tổng Trấn vùng
Périgord và Limousin (8).
Truyền thêm được mấy đời con cháu thì người
thừa kế của dòng tộc Losse tên là Jean Cirus
Marie Adélaïde Timbrune de Valence, con của
bà Louise de Losse, bán lâu đài năm 1807 cho
Jacques Maleville, với giá là 500.000 quan.
Sau đó, lâu đài Losse được bán đi bán lại
nhiều lần, trải qua nhiều biến cố. Tới năm
1830 Joseph Mérilhou mua với giá 105.000
quan. Sau đó, ông Gouyon mua lâu đài Losse
với giá 202.000 quan ngày 06.03.1880, tu sửa
lại năm 1884, rồi bán lại cho gia đình
Challe – Mercier vào ngày 20.03.1922 với giá
là 290.000 quan. Họ chỉ ở đấy có tám năm rồi
bán lại cho công chúa Nhữ Mây (9).
Vùng
đất thuộc lâu đài Losse rất rộng, khoảng 100
mẫu, lan tràn trên cả hai làng Thonac và
Saint Léon sur Vézère gọi là "Terre de
Losse" (Đất của Losse) gồm có sân rộng, lối
vào, lâu đài, chuồng ngựa, nhà ở, xưởng thợ,
kho chứa, vườn, rừng, đồng cỏ, ruộng nho và
các loại bất động sản khác. Lâu đài Losse
thuộc quyền sở hữu của công chúa Nhữ Mây
được 46 năm, một thời gian khá dài, thì bà
bán lâu đài năm 1976 (khi ấy bà được 71
tuổi, hai năm sau khi bà LALOË qua đời), chỉ
giữ lại một ngôi nhà nhỏ trên vùng đất của
Losse, gọi là "la petite maison de Losse" để
ở cho đến khi qua đời, năm 1999.
Cuối
cùng, ngôi nhà này cũng được người thừa kế
của công chúa Nhữ Mây bán cho một thương
nhân địa ốc ở Antibes.
Dấu
tích còn lại chỉ là ngôi mộ của gia đình vua
Hàm Nghi tại Thonac.
Nghi vấn HÀM NGHI, thật
hay giả
Theo
bài "Lần tìm dấu vết vua Hàm Nghi – Có một
Hàm Nghi "Lê Lai"...đăng trên mạng, (10) ông
Trần Hữu Thành đã tìm ra một khu mộ với ba
mươi sáu mộ trong rừng núi Tà Lơn mà ông tin
rằng đây chính là mộ vua Hàm Nghi thật, chôn
cất cùng với các chiến sĩ Cần Vương bảo vệ
vua.
Trần Trọng Kim ghi lại trong
sử rằng: "Tôn Thất Thuyết thấy thế không
chống nổi quân Pháp bèn bỏ vua Hàm Nghi ở
lại đồn Vé, thuộc huyện Tuyên Hóa (tên cũ là
Qui Hợp Châu) tỉnh Quảng Bình, rồi cùng với
đề đốc Trần Xuân Soạn đi đường thượng đạo,
nói rằng sang cầu cứu bên Tàu. ... (Về sau
chết già ở Thiều Châu, thuộc tỉnh Quảng
Đông). Vua Hàm Nghi bấy giờ phải ẩn nấp ở
vùng huyện Tuyên Hóa có các con Tôn Thất
Thuyết là Tôn Thất Đạm và Tôn Thất Thiệp
cùng với đề đốc Lê Trực và Nguyễn Phạm Tuân,
hết sức giữ gìn và đem quân đi đánh phá ở
mạn Quảng Bình và Hà Tĩnh."
Sau khi
Tôn Thất Thiệp bị bọn phản bội Tình và Ngọc
đâm chết, vua Hàm Nghi bị chúng bắt giải về
nộp cho Pháp, còn Tôn Thất Đạm tự thắt cổ
chết, Trần Trọng Kim bình luận như sau: "
Ông Tôn-thất Thuyết làm đại tướng mà cư xử
ra một cách rất hèn nhát không đáng làm
người trượng-phu chút nào. Nhưng hai người
con thì thật là bậc thiếu-niên anh-hùng, có
thể che được cái xấu cho cha vậy."
Còn ông
Trần Hữu Thành tin rằng người bị đày sang
Algérie không phải là vua Hàm Nghi thật, chỉ
là vua giả, và ông đưa ra giả thuyết: Tôn
Thất Thuyết đã phao tin mình ôm ấn tín sang
Tàu cầu viện rồi cùng vua Hàm Nghi bí mật
lánh vào Nam. Tôn Thất Thiệp cùng một số
nghĩa quân hy sinh ở lại hộ giá vua Hàm Nghi
"Lê Lai" để làm kế nghi binh.
Tôn
Thất Bình kể trong cuốn Triều đại nhà
Nguyễn: "... Bọn Pháp hoang mang không
biết là người trước mặt có thật là vua Hàm
Nghi chăng, hay là tên Trương Quang Ngọc
phỉnh lừa ...giữa lúc ấy có một cụ già chống
gậy đến. Đó là Nguyễn Thuận, thầy dạy vua
Hàm Nghi thuở thiếu thời. Vừa thấy thầy cũ,
vua Hàm Nghi đột nhiên đỡ cụ và vái chào.
Bọn Pháp lúc đó mới tin chắc đó là vua Hàm
Nghi...." Sau đó, vua Hàm Nghi từ chối
không muốn gặp lại Hoàng Thái Hậu, đang đau
ốm.
Những
nhân vật có thể nhận diện vua Hàm Nghi như
Nguyễn văn Tường, Phạm Thận Duật và Tôn Thất
Đính thì đã bị De Courcy đem tầu chở đi đày
ở Côn Lôn, nhưng cũng còn Đề đốc Lê Trực,
người đã ra đầu thú Pháp và được tha cho về
quê sinh sống.
De
Courcy thì đã bị triệu về Pháp vào cuối năm
1885, chính phủ Freycinet cử tướng Warnel và
Paul Bert sang thay thế.
Theo
thiển ý, vào thời ấy không có các phương
tiện thông tin bằng hình và phim ảnh hiện
đại, cũng như các biện pháp kiểm soát nhân
diện hết sức tinh vi như ngày nay, vua chúa
thường ở ngày đêm trong cung cấm, chỉ có
thân quyến và các quan đại thần kề cận mới
biết chính xác mặt mũi, vóc giáng, giọng
nói, còn thì ít ai được thấy vua, cho nên
khi có biến, vua dễ đưa ra một người khác
làm giả mình. Một người thầy, có nhiều học
trò, cho nên chi tiết gặp thầy cũ không phải
là một chi tiết "nhận diện" chính xác. Vua
Hàm Nghi lại không muốn gặp mẹ, trước khi đi
đày. Tại sao ?
Trong
thời đại của chúng ta, muốn "nhận diện" ai
thật hay giả, trong trường hợp này, vua Hàm
Nghi nào thật, vua nào giả, không phải là
một điều khó khăn, hậu duệ vua chúa nhà
Nguyễn còn rất nhiều, hơn nữa, các phương
pháp tối tân để khảo nghiệm về gia truyền,
thí dụ như cách khảo nghiệm theo ADN (Acide
désoxyribonucléique), có thể cung cấp một
kết quả chính xác. Hy vọng một ngày nào đó,
chúng ta sẽ được xác nhận vĩnh viễn.
Về đến
nhà, sau một tuần lễ gọi là đi dạo mùa xuân,
trước khi bước xuống xe, tôi nhìn vào đồng
hồ trước tay lái, tôi và Pierre đã đi và về
tổng cộng hơn hai ngàn sáu trăm cây số.
©
Mathilde Tuyết Trần, Lataule 2007
Ghi chú và tài liệu
tham khảo:
·
* : Cách viết
của Pháp, không có dấu tiếng Việt
1.
Bài "Đi tìm dấu vết Bá Đa Lộc" của
Mathilde Tuyết Trần, đã đăng trên
www.diendan.org,
www.vietsciences.org,
www.vietducinfo.com,
www.erct.com
và Tạp Chí Nghiên Cứu và
Phát Triển của tỉnh Thừa Thiên – Huế số
1/2007
2.
Văn khố lưu trữ
3.
Bài "Đề Thám – Người anh hùng hay
thằng giặc" của Mathilde Tuyết Trần, đã đăng
trên
www.vietsciences.org,
www.vietducinfo.com,
www.erct.com và Tạp Chí Nghiên Cứu và
Phát Triển của tỉnh Thừa Thiên – Huế số
2/2007
4.
Bài La Signature du Traité du 6 Juin
1884 avec l'Annam et la destruction du Sceau
Chinois 30 aout 1884, trang 75 – 76 trong
quyển Les Grands Dossiers de l'ILLUSTRATION
L'INDOCHINE, Edition SEFAG, 1987
5.
Bài Le Guet-apens de Hue – 7 novembre
1885 – trang 77-78 trong quyển Les Grands
Dossiers de l'ILLUSTRATION L'INDOCHINE,
Edition SEFAG, 1987
6.
Triều đại nhà Nguyễn, Tôn Thất Bình,
nxb Đà nẵng, 2000
7.
Văn khố lưu trữ
8.
Thonac – Sylvie Sudrie-Vidal, Octobre
2001 và Le Chateau de Losse – M.Segondat, 23
septembre 1979
9.
Văn khố lưu trữ
10.
Trang
http://www.sgtt.com.vn của tờ Sai Gon
Tiep Thi Online,
11.
Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim
12.
Các trang trên mạng Internet
|