|
Ngày xưa, vào đời nhà Trần, vua Trần
Nhân Tông sau khi đă truyền ngôi cho con là Trần
Anh Tông, lên tu ở núi Yên Tử, mến cảnh núi
sông thường hay đi du ngoạn các nơi, vào
đến đất Chiêm. Trong khi ở Chiêm Thành,
vua Chế Mân biết du khách khoác áo cà sa là Thượng
Hoàng nước Việt, nên lấy t́nh bang giao mà
tiếp đăi nồng hậu. Không rơ Thượng
Hoàng vân du có ư định mở mang bờ cơi cho
đất nước về phía nam không, hay v́
cảm t́nh đối với ông vua trẻ tuổi
Chiêm Thành mà hứa gả công chúa Huyền Trân cho
Chế Mân.
Vua Chiêm cử sứ giả Chế Bố Đài cùng
đoàn tùy tùng hơn trăm người mang vàng
bạc, châu báu, trầm hương, quư vậy sang
Đại Việt dâng lễ cầu hôn. Triều
thần nhà Trần không tán thành, chỉ có Văn
Túc Đạo Tái chủ trương việc
gả.
Vua Chế Mân tiến lễ luôn trong năm năm
để xin làm rể nước Nam, rồi dân
hai châu Ô, Ly (từ đèo Hải Vân Thừa Thiên
đến phía bắc Quảng Trị ngày nay) làm sính
lễ cưới côn chúa Huyền Trân về nước.
Huyền Trân làm hoàng hậu nước Chiêm Thành
được một năm th́ vua Chế Mân
mất. Thế tử Chiêm phái sứ giả sang
Đại Việt dâng voi trắng và cáo về
việc tang. Theo tục lệ nước Chiêm, vua
mất th́ cung phi phải lên hỏa đàn để
tuẫn táng. Vua Trần Anh Tông hay tin vua Chiêm
mất, sợ em gái là công chúa Huyền Trân bị
hại, bèn sai vơ tướng Trần Khắc Chung hướng
dẫn phái đoàn sang Chiêm Thành nói thác là điếu
tang, và dặn bày mưu kế để đưa
công chúa về. Trần Khắc Chung trước kia
đă có t́nh ư với Huyền Trân, song rồi v́
việc lớn, cả hai cùng dẹp bỏ t́nh riêng,
ngày nay lại được vua giao phó nhiệm
vụ đi cứu công chúa.
Sang đến nơi, Trần Khắc Chung nói
với thế tử Chiêm Thành rằng: "Bản
triều sở dĩ kết hiếu với Vương
quốc v́ vua trước là Hoàn Vương, người
ở Tượng Lâm, thành Điển Xung, là đất
Việt thường: hai bên cơi đất liền
nhau th́ nên yên phận, để cùng hưởng
hạnh phúc thái b́nh cho nên gả công chúa cho
Quốc vương. Gả như thế v́ thương
dân, chứ không phải mượn danh má phấn
để giữ trường thành đâu! Nay hai nước
đă kết hiếu th́ nên tập lấy phong
tục tốt. Quốc vương đây mất,
nếu đem công chúa tuẫn táng th́ việc tu
trai không người chủ trương. Chi
bằng theo lệ tục bản quốc, trước
hăy ra băi bể để chiêu hồn ở trên
trời, đón linh hồn cùng về rồi
mới hỏa đàn sau".
Lúc bấy giờ các cung nữ của Huyền Trân
biết rằng công chúa sẽ bị hỏa táng,
nhưng không biết làm thế nào, thấy sứ
Trần Khắc Chung tới mới hát lên một câu
ngụ ư cho sứ Nam biết mà lo liệu cứu côn
chúa khỏi bị lên thang hỏa đàn:
Đàn kêu tích tịch t́nh tang,
Ai đem công chúa lên thang mà ngồi.
Người Chiêm Thành nghe theo lời giải bày
của Trần Khắc Chung, để công chúa
Huyền Trân xuống thuyền ra giữa bể làm
lễ Chiêu Hồn cho Chế Mân. Trần Khắc
Chung đă bố trí sẵn sàng, cỡi một
chiếc thuyền nhẹ chực sẵn trên
bể, đợi thuyền chở công chúa ra xa,
lập tức xông tới cướp công chúa qua
thuyền ḿnh, dong buồm ra khơi nhắm
thẳng về phương bắc. Huyền Trân công
chúa gặp lại người t́nh cũ đến
cứu mạng về, hoa xưa ong cũ ai ngờ c̣n
có ngày tái ngộ, đôi trai tài gái sắc kéo dài
cuộc t́nh duyên trên mặt biển, hơn một
năm mới về đến kinh.
Về sau, các văn nhân thi sĩ cảm hứng
về quăng đời lịch sử của công chúa
Huyền Trân, đă mượn điệu hát,
lời thơ mà làm nên nhiều bài c̣n truyền
tụng đến ngày nay.
Như khúc "Nước non ngàn dặm" theo
điệu Nam B́nh, mà có kẻ cho rằng chính công
chúa đă soạn ra trong lúc đi đường
sang Chiêm quốc:
Nước non ngàn dặm ra đi...
Mối t́nh chi!
Mượn màu son phấn
Đền nợ Ô, Ly.
Xót thay v́,
Đương độ xuân th́.
Số lao đao hay là nợ duyên ǵ?
Má hồng da tuyết,
Cũng như liều hoa tàn trăng khuyết,
Vàng lộn theo ch́.
Khúc ly ca, sao c̣n mường tượng nghe ǵ.
Thấy chim lồng nhạn bay đi.
T́nh lai láng,
Hướng dương hoa qú.
Dặn một lời Mân Quân:
Như chuyện mà như nguyện
Đặng vài phân,
V́ lợi cho dân,
T́nh đem lại mà cân,
Đắng cay muôn phần.
Một nhà thơ khác vịnh Huyền Trân công chúa:
Đổi chác khôn ngoan khéo nực cười.
Vốn đà không mất lại thêm lời.
Hai châu Ô, Lư vuông ngh́n dặm,
Một gái Huyền Trân của mấy mươi?
Ḷng đỏ khen ai lo việc nước,
Môi son phải giống măi trên đời?
Châu đi rồi lại châu về đó,
Ngơ ngẩn trông nhau mấy đứa Hời!
Trong dân gian, người ta than tiếc cho công chúa
Huyền Trân:
Tiếc thay cây quế giữa rừng,
Để cho thằng Mọi thằng Mường nó
leo.
Tiếc thay hột gạo trắng ngần,
Đă vo nước đục lại vần
lửa rơm.
|