|
Quang Trung Nguyễn Huệ
(1752-1792)
Nguyễn Huệ
sinh năm Quư Dậu (1752), là em của Thái Đức
Hoàng đế Nguyễn Nhạc. Khi c̣n nhỏ,
Nguyễn Huệ thường được
gọi là chú Thơm, là em thứ hai trong nhà. Trong
ba anh em, Nguyễn Huệ có nhiều đặc
điểm nổi trội nhất: tóc quăn,
tiếng nói sang sảng như chông, cặp mắt
sáng như chớp, có thể nh́n rơ mọi vật
trong đêm tối.
Dưới quyền của Tây Sơn vương
Nguyễn Nhạc, ông được phong làm Long Nhương
tướng quân khi mới 26 tuổi. Là một tay
thiện chiến, hành quân chớp nhoáng, đánh
đâu được đấy, Nguyễn Huệ
nhanh chóng trở thành vị tướng trụ
cột của vương triều Tây Sơn. Khi mà
vua Thái Đức đang phải lo củng cố xây
dựng triều đ́nh, th́ Nguyễn Huệ là người
được trao cầm quân đánh Đông
dẹp Bắc. Tất cả những chiến thăng
lớn vang dội của quân Tây Sơn đều
gắn liền với tên tuổi của vị tướng
trẻ tài ba này.
Đem quân ra Thăng Long lật nhào họ Trịnh
chuyên quyền, Nguyễn Huệ tỏ ư tôn pḥ nhà
Lê. Cùng với thuộc tướng là Nguyễn
Hữu Chỉnh, Nguyễn Huệ vào điện
Vạn Thọ tiếp kiến vua Lê. Lê Hiển Tông
trân trọng mời Nguyễn Huệ ngồi ở
sập bên giường ngự mà hỏi thăm yên
ủi. Nguyễn Huệ thưa:
- Tôi vốn là kẻ áo vải ở Tây Sơn, nhân
thời thế mà nổi dậy. Bệ hạ tuy không
cho cơm ăn, áo mặc, nhưng tôi ở cơi xa,
bấy lâu vẫn kính mến thánh đức.
Bữa nay được nh́n thấy mặt
trời, đủ thoả được tấm ḷng
khao khát. Họ Trịnh vô đạo, hiếp đáp
hoàng gia, nên trời mượn tay tôi một
trận phá ngay được, ấy là nhờ
ở oai đức của bệ hạ.
Vua Lê ôn tồn đáp:
- Ấy là vơ công của tướng quân cả,
chứ quả nhân nào có tài đức ǵ!
Nguyễn Huệ khiêm tốn thưa:
- Tôi chỉ tôn pḥ, đau dám kể tới công
lợi. Việc ngày nay đă xảy ra như
thế thật bởi ḷng trời xui nên hết
thảy... Thế là trời có ư xui bệ hạ
chấn kỷ cương, nảy mực, khiến
cho trong ấm ngoài êm, tôi đây cũng được
ơn nhờ.
Vua Lê sai các cựu thần Trần Công Sáng, Phan Lê
Phiêu, Uông Sĩ Điển ra tiếp chủ suư Tây
Sơn. Sau cuộc gặp gỡ này, thiên hạ yên
ḷng, chợ lại họp, ruộng lại cày, t́nh
h́nh trong nước dần dần ổn định.
Theo lời Nguyễn Hữu Chỉnh chỉ vẽ,
Nguyễn Huệ xin vua Lê cho thiết lễ đại
triều ở điện Kính Thiên để
Huệ dâng sổ sách quân dân, tỏ cho toàn thiên
hạ rơ việc tôn pḥ đại thống. Cử
chỉ này của Nguyễn Huệ khiến ông vua
cao tuổi Lê Cảnh Hưng vô cùng xúc động,
chứng kiến việc ban bố chiếu thư
"nhất thống".
Đáp lại công lao của chủ súy Tây Sơn,
vua Lê sai sứ sang tận doanh quân thứ phong cho
Nguyễn Huệ làm Nguyễn Súy Dực chính phù
vận Uy Quốc công. Nguyễn Huệ sai người
sang cảm tạ vua Lê theo đúng lễ nhưng
trong ḷng không vui. Nguyễn Huệ nói với
Nguyễn Hửu Chỉnh rằng:
- Ta mang vài vạn quân ra đây, một trận
dẹp yên Bắc Hà. Vậy th́ một thước
đất, một người dân bây giờ không
phải của ta th́ của ai vào đây nữa?
Dẫu ta muốn xưng đế, xưng vương
chi chi, ai c̣n dám làm ǵ nổi ta? Thế mà ta c̣n nhường
nhịn không làm, chẳng quan hậu đăi nhà Lê
đó thôi, danh mệnh Nguyên súy, quốc công có làm
cho ta thêm hơn ǵ? Các đ́nh thần Bắc Hà
muốn lấy nước miếng cho cái danh hăo,
chực lung lạc ta sao? Đừng bảo ta là mán
mọi, được thế đă lấy làm vinh
rồi đâu! Ta không nhận lấy, chắc người
ta bảo ta thất lễ; ta nhận mà không nói ra,
người ta lại cho ta là không biết ǵ!
Dứt lời, Nguyễn Huệ hầm hầm
tức giận. Nhờ có Nguyễn Hữu Chỉnh
là tay khéo dàn xếp, Huệ mới nguôi ḷng. Sau
khi trở thành pḥ mă nhà Lê, Nguyễn Huệ không
trực tiếp can dự vào nội bộ triều
Lê v́ c̣n giữ tiếng. Khi vua Lê bị bệnh
nặng, công chúa Ngọc Hân giục pḥ mă
Nguyễn Huệ vào thăm song ông từ chối:
- Tôi chẳng sớm th́ chầy rồi cũng
về Nam; việc nước không dám dự đến.
Vả, tôi xa xôi tới đây, chắc người
ngoài Bắc hăy c̣n chưa tin mấy, nếu vô
nội thăm hỏi vua cha, muôn một xa giá
chầu Trời, chẳng hóa ra tự ḿnh chuốc
lấy cái tiếng hiềm nghi không bao giờ giăi
toả được?"
Vào một đêm mưa to, gió dữ của tháng 7
năm Bính Ngọ (1786), thành Thăng Long nước
ngập đến một thước, vua Lê
Cảnh Hưng qua đời ở tuổi thọ
70. Trước khi nhắm mắt ông c̣n kịp
trối lại cho Hoàng tôn Duy Kỳ:
- Quân bên ngoài đang đóng ở đây;
truyền nối là việc quan trọng, cháu nên bàn
cùng Nguyên suư (Nguyễn Huệ), chứ đừng
tự tiện làm một ḿnh.
Trái với những người muốn lập Hoàng
tôn Duy Kỳ, công chúa Ngọc Hân khi được
chồng hỏi nên lập ai lên ngôi báu, đă nghiêng
về Lê Duy Cận. Nghe lời vợ, Nguyễn
Huệ muốn hoăn lễ đăng quang của Duy
Kỳ. Cả triều đ́nh nao núng ngờ
vực. Các tôn thất nhà Lê cho rằng công chúa
Ngọc Hân cố t́nh làm lỡ việc lớn
của triều đ́nh và bảo sẽ từ
mặt công chúa. Ngọc Hân sợ, vội nhân nhượng
mà nói lại với Nguyễn Huệ thu xếp cho
Duy Kỳ được nối ngôi.
Đến ngày lễ thành phục của nhà vua quá
cố Lê Hiển Tông ở nội điện,
Nguyễn Huệ thực hiện đầy đủ
nghi lễ của pḥ mă: rể mặc áo tang
trắng, đứng trong điện dự lễ.
Thấy viên tiểu lại có cử chỉ bất
kính trọng lúc làm lễ, Nguyễn Huệ lập
tức sai lôi ra chém. Từ đó triều thần
khiếp sợ và nghi lễ được cử hành
hết sức tôn nghiêm. Ngày đưa linh cữu
vua xuống thuyền về Thanh Hoá để an táng,
Nguyễn Huệ mặc tang phục đi hộ tang
đến tận bờ sông, lại sai bộ tướng
là Trần Văn Kỷ và Nguyễn Hữu
Chỉnh mặc áo tang trắng đi hộ tống
đến tận bến sông, lại sai bộ tướng
là Trần Văn Kỷ và Nguyễn Hữu
Chỉnh mặc áo tang trắng đi hộ tống
đến lăng Bàn Thạch. Mặc dù vừa
mới trải qua binh đao, tang phục tuy
đơn sơ, giản dị nhưng lễ nghi th́
đầy đủ và trang trọng khác thường.
Xong tang trở về, Nguyễn Huệ tự hào nói
với công chúa Ngọc Hân:
- Tiên đế có hơn 30 người con, thế
mà không người nào bằng một ḿnh nàng là
gái. Trong việc tang tiên đế, ḿnh với các
anh em khác, ai hơn nào?
Một thời gian sau Nguyễn Huệ đem công chúa
Ngọc Hân cùng Nguyễn Nhạc rút quân về Nam,
rồi được phong làm Bắc B́nh Vương.
Lần ra Bắc lần thứ hai năm Mậu Thân
(1788), khi Lê Chiêu Thống đă bỏ kinh thành
chạy ra ngoài, Bắc B́nh Vương cũng đă
nghĩ đến chiếc ngai vàng bỏ trống,
đă triệu tập các cựu thần nhà Lê
để tính việc, song không thuận lợi. Ông
cho tổ chức lại hệ thống cai trị
ở Bắc Hà, đưa những danh sĩ có tên
tuổi đă được Bắc B́nh Vương
trọng dụng như Ngô Th́ Nhậm, Phan Huy Ích ra
đảm đương công việc. Trí thức
Bắc Hà lần lượt ra giúp Bắc B́nh Vương
như Trần Bá Lăm, Vơ Huy Tấn...
Sau khi đălập Sùng Nhượng công Lê Duy
Cận lên làm Giám quốc, sắp đặt các
quan coi việc Bắc Hà, một lần nữa
Nguyễn Huệ lại rút quân về Nam. Trước
khi trở về Nam, Bắc B́nh Vương đă
dặn bảo cận thần rằng:
- Đại Tư mă Ngô Văn Sở, Nội
hầu Phan Văn Lân là nanh vuốt của ta; Chưởng
phủ Nguyễn Văn Dụng, Hộ bộ
thị lang Trần Thuận Ngôn là tâm phúc của
ta. Lại bộ thị lang Ngô Th́ Nhậm tuy là người
mới, nhưng là bậc tân thần, ta coi như
khách. Nay ta giao cho các khanh hết thảy mọi
việc quân quốc, coi quản 11 trấn trong toàn
hạt. Hễ có điều chi, ta cho cứ
được tiện nghi làm việc. Song các khanh
cần phải hợp bàn với nhau, chứ đừng
phần b́ kẻ mới người cũ, miễn
sao làm cho được việc, ta mới yên ḷng...
Thế rồi không đầy 6 tháng sau, Bắc B́nh
Vương đang ở thành Phú Xuân th́ được
tin Lê Chiêu Thống đă dẫn đội quân xâm
lược Măn Thanh vào chiếm đóng kinh thành Thăng
Long, quân đội Tây Sơn do Đại Tư mă
Ngô Văn Sở chỉ huy phải tạm rút lui
về đóng ở Tam Điệp-Biện Sơn
chờ lệnh. Nguyễn Huệ lại lần
thứ ba ra Thăng Long. Lần này ông ra Bắc
với tư cách là Quang Trung hoàng đế.
Thể theo lời khuyên của tướng lĩnh
và ḷng mong mỏi của ba quân cùng thần dân,
Bắc B́nh Vương cho chọn ngày, lập đàn
tế trời đất, thần sông, thần nước
và lên ngôi hoàng đế tại Phú Xuân, ngay hôm
đó kéo cả quân bộ, quân thuỷ ra Bắc
diệt quân xâm lược Thanh, giải phóng Thăng
Long và Bắc Hà.
Dự tính trước mọi khả năng
tiếp theo của thời cuộc, vua Quang Trung
đă nơi với quan quân ngay trước khi bước
bào chiến dịch:
- Nay ta tới đây, thân đốc viện binh,
chiến thư ra sao đă có phương lược
sẵn. Chỉ nội mười ngày nữa,
thế nào ta cũng quét sạch giặc Thanh. Song,
ta nghĩ: nước Thanh lớn hơn nước
ta gấp mười lần, Thanh bị thua tất
lấy làm thẹn, chắc phải t́m cách rửa
hờn. Nếu cứ để binh lửa kéo dài măi,
thật không phải là phúc trăm họ, ḷng ta không
nỡ! Nên chi, sau khi thắng, ta nên khéo đường
từ lệnh th́ mới dập tắt được
ngọn lửa binh tranh, việc từ lệnh đó,
ta sẽ giao cho Ngô Th́ Nhậm.
Đúng như dự kiến và lời hứa
hẹn của vị tổng binh, ngày 7 tháng Giêng năm
Kỷ Dậu (1789) quân đội của hoàng đế
Quang Trung đă vui vẻ ăn tết khai hạ
tại thành Thăng Long. Hoa đào làng Nhật Tân
c̣n đang nở rộ đón chào chiến
thắng.
Việc binh lại giao cho Ngô Văn Sở và Phan Văn
Lân, việc ngoại giao và chính trị giao cho Ngô
Th́ Nhậm và Phan Huy Ích, lần thứ ba Nguyễn
Huệ đă ra Bắc rồi lại về Nam.
Lần này với tư thế là Hoàng đế,
Quang Trung gấp rút tiến hành việc xây dựng
kinh đô mới ở Nghệ An, nơi mà từ xưa
là quê gốc của anh em Tây Sơn và trong con
mắt của Quang Trung là trung gian Nam và Bắc.
Mặt khác, theo kế hoạch ngoại giao đă
được Quang Trung vạch ra: b́nh thường
mối bang giao với nhà Thanh. Triều đ́nh Quang
Trung đă buộc sứ Thanh phải vào tận
Thuận Hoá phong vương cho Nguyễn Huệ;
rồi Hoàng đế Quang Trung giả đă sang
triều kiến và dự lễ mừng thọ 80
tuổi của vua Càn Long nhà Thanh. Dưới
thời trị v́ ngắn ngủi của triều
Quang Trung, nhiều chính sách về xă hội, chính
trị và kinh tế được ban hành khá độc
đáo, mở ra những triển vọng cho
một xă hội năng động hơn. Song chưa
được bao lâu, căn bệnh đột
ngột và hiểm nghèo đă cướp đi
cuộc sống của ông vua đầy tài năng,
có những dự định lớn lao, mới
ở tuổi 40.
Năm Nhâm Tư (1792), sau nhiều lần bắn tin
rồi lại gửi thư trực tiếp đến
vua nhà Thanh xin được sánh duyên cùng một nàng
công chúa Bắc quốc và mượn đất
đóng đô, vua Quang Trung đă sai toàn sứ
bộ do Vũ Văn Dũng làm chánh sứ sang
triều kiến vua Thanh Càn Long. Trong một cuộc
bệ kiến của sứ thần Vũ Văn Dũng
ở Ỷ lương các, những yêu cầu
của vua Quang Trung đă được vua Thanh
chấp thuận. Vua Càn Long đang chuẩn bị
cho cô công chúa khuê các sang đẹp duyên cùng
Quốc vương nước Nam; Quảng Tây
được hứa sẽ nhường cho
Quốc vương pḥ mă đóng đô để
cho gần "Thánh Giáo". Giữa lúc sứ
thần đang mừng vui v́ sắp hoàn thành
một trọng trách quá sức ḿnh, th́ được
tin sét đánh: vua Quang Trung từ trần. Mọi
việc đều bị gác lại, Vũ Văn Dũng
đành ôm hận trở về. Rồi từ đó,
việc xin lại đất Lưỡng Quảng
chỉ là câu chuyện lịch sử mà cơ đồ
của vương triều Tây Sơn cũng
dần dần tan theo giấc mộng xuân của nàng
công chúa Măn Thanh. Một chiều đầu thu, vua
Quang Trung đang ngồi bỗng thấy hoa mắt,
sầm tối mặt mũi, mê man bất tỉnh.
Người xưa gọi đó là chứng
"huyễn vận" c̣n ngày nay y học gọi
là tai biến mạch máu năo. Khi tỉnh dậy
được, nhà vua cho triệu trấn thủ
Nghệ An Trần Quang Diệu về triều bàn
việc thiên đô ra Nghệ An. Nhưng việc chưa
quyết xong th́ bệnh t́nh nhà vua đă nguy
kịch. Trước khi mất, nhà vua dặn
Trần Quang Diệu và các quần thần:
- Ta mở mang bờ cơi, khai thác đất đai,
có cả cơi Nam này. Nay đau ốm, tất không
khỏi được. Thái tử "Nguyễn
Quang Toản" tư chất hơi cao, nhưng
tuổi c̣n nhỏ. Ngoài th́ có quân Gia Định
(Nguyễn Ánh) là quốc thù; mà Thái Đức
(Nguyễn Nhạc) th́ tuổi già, ham dật
lạc, cầu yên tạm bợ, không toan tính cái
lo về sau. Khi ta chết rồi, nội trong
một tháng phải chôn cất, việc tang làm lao
thảo thôi. Lũ người nên hợp sức mà
giúp Thái tử sớm thiên đô về Vĩnh
Đô (Vinh ngày nay) để khống chế thiên
hạ. Bằng không, quân Gia Định kéo đến
th́ các ngươi không có chỗ chôn đâu!
Ngày 29 tháng 7 năm Nhâm Tư (1792) vào khoảng 11
giờ khuya, Quang Trung từ trần, ở ngôi 5 năm,
thọ 40 tuổi, miếu hiệu là Thái tổ Vũ
hoàng đế. Thi hài ông được táng ngay
trong thành, tại phủ Dương Xuân. Sau khi
Nguyễn Ánh lấy được Phú Xuân đă
sai quật mồ mả lên để trả thù.
Nguyễn Quang Toản lên nối ngôi, sai sứ sang
nhà Thanh báo tang và xin tập phong. Vua Càn Long thương
tiếc tặng tên hiệu là Trung Thuần, lại
thần làm một bài thơ viếng và cho một
pho tượng, 300 lạng bạc để sửa
sang việc tang. Sứ nhà Thanh đến tận
mộ ở Linh Đường (mộ giả)
thuộc huyện Thanh Tŕ (Hà Nội) để
viếng.
|