|
Thiệu Trị (1807 - 1847)
|
|
Tiền thời Thiệu Trị
|
|
Niên hiệu |
Thiệu
Trị
|
Năm sanh, năm mất |
1807-1847
|
Giai đoạn trị v́ |
1841-1847
|
Miếu hiệu |
Hiến Tổ Chương
Hoàng Đế
|
Tên Húy |
Nguyễn Phúc Tuyền,
Nguyễn Phúc Miên Tông
|
|
Vua Minh Mạng băng hà, người con trưởng
của vua là Hoàng Tử Nguyễn Phúc Tuyền, húy
là Miên Tông sinh năm Đinh Măo (1807) được
di mệnh nối ngôi lấy niên hiệu là
Thiệu Trị. Sách nói vua Thiệu Trị là
một người hiền hoà, siêng năng cần
mẫn nhưng không có tính hoạt động như
vua cha. Mọi việc đều noi theo cũ không có
ǵ đổi mới.
Ông nổi tiếng là ông vua thi sĩ, có để
lại rất nhiều bài thơ, nổi tiếng
nhất là hai bài thơ chữ Hán có tên là Vũ
Trung Sơn Thủy (cảnh trong mưa) và Phước
Viên Văn hội lương dạ mạn ngâm (Đêm
thơ ở Phước Viên). Cả hai bài không tŕnh
bài theo lối thường mà viết thành năm cái
ṿng tṛn đồng tâm, mổi ṿng tṛn có một
số chữ, đếm mỗi bài có 56 chữ,
ứng với một bài thơ thất ngôn bát cú,
nh́n vào như một "trận đồ bát quái",
vua có chỉ cách đọc và đố là
kiếm ra 64 bài thơ trong đó nhưng tới nay
chưa ai kiếm ra được hết.
Dưới thời nầy đất Nam-kỳ có
nhiều giặc giă, dân Chân-Lạp nổi loạn
và quân Tiêm-La sang đánh phá, vua phải dùng binh
đánh dẹp măi tới năm Thiệu Trị
thứ bảy (1847) mới yên được.
Từ khi vua Thiệu Thị lên ngôi th́ việc
cấm đạo Thiên Chúa mới nguôi đi
được một ít, nhưng triều đ́nh
vẫn ghét đạo, và những giáo sĩ
ngoại quốc vẫn c̣n bị giam ở Huế.
Có người đưa tin ấy cho trung tá nước
Pháp tên là Favin Lévêque coi tàu Héroïne, ông nầy
đem tàu vào Đà Nẵng xin cho năm người
giáo sĩ được tha. Năm Thiệu Trị
thứ năm (1845) có người Giám mục tên
Lefèbvre phải án xử tử. Thiếu tướng
nước Pháp là Cécile biết, sai quân đem tàu
Alcmène vào Đà Nẵng lĩnh giám mục ra.
Năm Ất Tỵ (1847) quan nước Pháp
biết rằng ở Huế không c̣n giáo sĩ
bị giam nữa, mới sai đại tá De Lapierre
và trung tá Rigault de Genouilly đem hai chiếc
chiến thuyền vào Đà Nẵng, xin bỏ
những chỉ dụ cấm đạo và để
cho người trong nước được
tự do theo đạo mới. Lúc hai bên c̣n đang
thương nghị về việc ấy th́ quan nước
Pháp thấy thuyền của ta đóng gần tàu
của Pháp và ở trên bờ lại thấy có quân
ta đấp đồn lũy, mới nghi có sự
âm mưu ǵ chăng bèn phát súng bắn đắm
cả những thuyền ấy, rồi nhổ neo kéo
buồm ra bể.
Vua Thiệu Trị thấy vậy tức giận
vô cùng, lại có dụ (sắc lệnh) ra cấm
người ngoại quốc vào giảng đạo
và trị tội những người trong nước
đi theo đạo. Vài tháng sau th́ vua lâm bệnh
nặng.
Nguyễn Phúc Hồng Bảo là con trưởng
của vua Thiệu Trị (nhưng lại không
phải là con của chánh phi Phạm Thị
Hằng mà là con của bà phi Đinh Thị Hạnh).
Bảo vốn là người ham chơi, không
chịu học hành, tổi ngày chỉ lo đánh
bạc. Vua Thiệu Trị có la rầy nhiều
lần nhưng không được.
Khi vua lâm bệnh nặng, cho đ̣i các quan đại
thần vào trối. Trương Đăng Quế, Vơ
Văn Giải, Nguyễn Tri Phương và Lâm Duy
Hiệp vào chầu. Ngài phán rằng Hồng
Bảo tuy lớn nhưng ngu độn, ít học,
chỉ ham vui chơi, nối nghiệp không đặng,
con thứ hai là Hồng Nhậm, thông minh, ham
học giống vua có thể cai trị nước
được. Vua yêu cầu các quan phải thi hành
tờ di chiếu của vua để lại.
Triều thần khóc, bái lạy và gọi Hồng
Nhậm đến trao ấn và kiếm. Hồng
Bảo được tin, tức giận đem thân
binh vào nhưng bị quan Phạm Thế Lịch
đem quân cản lại chỉ để cho
một ḿnh Hồng Bảo vào mà thôi. Hồng
Bảo vào gặp vua lạy lục, vua quay mặt
đi không trả lời, Phạm Thế Lịch và
Vũ Văn Giải đưa Hồng Bảo ra
hậu cung và cầm giữ ở đó. Mấy ngày
sau th́ vua băng hà tại điện Càn Thành
(1847), làm vua được 7 năm, thọ 40
tuổi (theo Nguyễn Phúc tộc gia phả).
|