|
Việt Vương Triệu
quang Phục (? - 571)
Triệu Quang Phục là người kế
tục sự nghiệp của Lư Nam Đế. Ông
là người huyện Chu Diên, là con của
Triệu Túc, một thủ lĩnh địa phương
có ḷng yêu nước không chịu khuất
phục nhà Lương. Triệu Quang Phục
nổi tiếng giỏi vơ nghệ. Sử chép ông
là người "uy hùng sức mạnh".
Cha con ông là người đầu tiên đem quân
tham gia cuộc khởi nghĩa Lư Bí. Triệu Túc
là một danh tướng của nước
Vạn Xuân, được phong làm Thái Phó trông coi
việc binh, hy sinh trong cuộc kháng chiến
chống quân xâm lược nhà Lương ở
vùng ven biển. Triệu Quang Phục lúc đầu
theo cha đi đánh giặc, có công. Là một tướng
trẻ có tài nên được Lư Nam Đế tin
dùng làm tả tướng quân.
Đầu năm 545, quân Lương xâm lược
Vạn Xuân, cuộc kháng chiến của nhà
Tiền Lư thất bại. Lư Nam Đế phải
lẩn tránh ở động Khuất Lăo thuộc
tỉnh Phú Thọ ngày nay và giao binh quyền cho
Triệu Quang Phục.
Vốn thông thuộc vùng sông nước Chu Diên,
Triệu Quang Phục quyết định chuyển
hướng chiến lược, thay đổi phương
thức tác chiến cũ là pḥng ngự, cố
thủ hay tập trung lực lượng quyết
chiến với địch. Ông đưa hơn
một vạn quân từ miền núi về đồng
bằng, lập căn cứ kháng chiến ở
Dạ Trạch (băi Màn Tṛ, Khoái Châu, Hưng Yên).
Dạ Trạch là một vùng đầm lầy ven
sông Hồng, rộng mênh mông, lau sậy um tùm.
ở giữa là một băi phù sa rộng, có
thể làm ăn sinh sống được.
Đường vào băi rất kín đáo, khó khăn.
Chỉ có dùng thuyền độc mộc nhẹ lướt
trên cỏ nước theo mấy con lạch nhỏ
th́ mới tới được...Triệu Quang
Phục đóng quân ở băi đất nổi
ấy. Ngày ngày, quân sĩ thay phiên nhau vừa
luyện tập, vừa phát bờ, cuốc
ruộng, trồng lúa, trồng khoai để
tự túc binh lương; ban ngày tắt hết
khói lửa, im hơi lặng tiếng như không
có người, đến đêm nghĩa quân
mới kéo thuyền ra đánh úp các trại
giặc, cướp được nhiều lương
thực, "làm kế tŕ cửu" (cầm
cự lâu dài) người trong nước gọi
Triệu Quang Phục là Dạ Trạch Vương
(vua Đầm Đêm). Nghe tin Lư Nam Đế
mất, ông xưng là Triệu Việt Vương.
Vùng đồng bằng này tuy không có thế đất
hiểm như miền đồi núi nhưng có
nhiều sông lạch chia cắt, nhiều đầm
hồ lầy lội, không lợi cho việc hành
binh của những đạo quân lớn. Địa
thế như vậy buộc địch phải
phân tán, chia quân đánh nhỏ, làm mất sở
trường của chúng, đồng thời
tạo điều kiện cho ta tiêu diệt gọn
từng bộ phận nhỏ, tiêu hao sinh lực
địch. Đồng bằng c̣n là nơi đông
dân cư, nơi có nhiều sức người,
sức của, cung cấp cho cuộc chiến đấu
lâu dài của quân ta.
Cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam,
từ Lư Nam Đế qua Triệu Việt Vương
đă có sự chuyển hướng chiến lược,
thay đổi địa bàn và cách đánh.
Lập căn cứ kháng chiến ở đồng
bằng, đó là kế sách dụng binh hết
sức mưu lược và sáng suốt của
Triệu Quang Phục. Đưa quân xuống đồng
bằng, Triệu Quang Phục không áp dụng phương
thức tác chiến pḥng ngự, cố thủ hay
tập trung lực lượng quyết chiến
với địch. Kế sách của ông nói theo
ngôn ngữ quân sự hiện đại, là đánh
lâu dài và đánh tiêu hao, đánh kỳ lập làm
phương thức tác chiến chủ yếu.
Nhờ sự chuyển hướng chiến lược
sáng suốt đó mà cục diện chiến tranh
thay đổi ngày càng có lợi cho ta, bất
lợi cho địch. Quân Lương cố
sức đánh vào vùng Dạ Trạch, nhằm phá
vỡ đầu năo kháng chiến, nhưng âm mưu
đó không thực hiện được. Quân
của Triệu Quang Phục giữ vững căn
cứ Dạ Trạch, liên tục tập kích các
doanh trại và các cuộc hành binh của địch.
Qua gần 4 năm chiến tranh (547-550) cuộc kháng
chiến ngày càng lớn mạnh, địch càng
đánh càng suy yếu.
Viên tướng giỏi của địch là
Trần Bá Tiên đă trở về Châu Quảng
từ năm 547, làm Thái thú Cao Yên. Năm 548, bên
triều Lương xảy ra loạn Hầu
Cảnh (548-552). Viên hàng tướng này đă cướp
kinh sư, số đông quư tộc nhà Lương
bị giết chết, bọn cường hào địa
phương nổi dậy khắp nơi. ở
phía bắc, triều Tây Ngụy, từ lưu
vực sông Vị, tổ chức một loạt
các cuộc tiến công đế chế của Lương,
năm 553 chiếm Tứ Xuyên, cắt đứt
quan hệ giữa Nam Kinh và Trung á, chiếm Trương
Dương (Hồ Bắc), xâm nhập tới Giang
Lăng trung lưu Trường Giang, lập nên
triều Hậu Lương bù nh́n (bị xóa năm
587). Quan tướng các châu - trong đó có Trần
Bá Tiên - kéo quân đổ về kinh sư với
danh nghĩa "cứu viện kinh sư"
dẹp loạn Hầu Cảnh, rồi nội
chiến liên miên.
Chớp thời cơ đó. Triệu Quang Phục,
từ căn cứ Dạ Trạch, đă tung quân
ra mở một loạt cuộc tiến công lớn
vào quân giặc giết tướng giặc là Dương
Sàn thu lại châu thành Long Biên, đuổi giặc
ngoại xâm, giành lại quyền tự chủ
trên toàn đất nước.
Về sau, v́ tin lời cầu ḥa của Lư
Phật Tử (vốn là tướng của Lư Nam
Đế, từng nổi dậy chống ông), ông
chia cho y một phần đất và kết mối
thông gia: con trai Lư (Nhă Lang) lấy con gái Triệu
(Cảo Nương). Năm 571, Lư Phật Tử
phản bội đem quân đánh úp, Việt Vương
thua, chạy đến cửa bể Đại Nha,
cùng đường gieo ḿnh tự vẫn.
Theo Việt điện u linh, cuốn sách xưa
nhất (1329) chép về Triệu Quang Phục th́ sau
khi ông mất, người đời thấy linh
dị, lập miếu thờ ở cửa biển
Đại Nha. Năm Trùng Hưng thứ nhất
(1285, đời Trần Nhân Tông) sách phong là Minh
Đạo Hoàng đế. Năm Trung Hưng
thứ tư (1288, đời Trần Nhân Tông) ban
thêm hai chữ "Khai cơ". Năm Hưng Long
thứ 21 (1313, đời Trần Anh Tông) ban thêm
bốn chữ "Thánh liệt thần vũ".
|