|
Niên hiệu |
Tự Đức
|
Năm sanh, năm mất |
1829 -1883
|
Giai đoạn trị v́ |
1847-1883
|
Miếu hiệu |
Dực Tông Anh Hoàng Đế
|
Tên Húy |
Nguyễn Phúc Th́, Nguyễn Phúc
Hồng Nhậm
|
Hồng Nhậm lên ngôi lúc 19 tuổi,
lấy niên hiệu là Tự Đức, việc lên ngôi
của Tự Đức bị nhiều người
nghi ngờ nên cũng có người chống.
Hồng Bảo (anh Tự Đức) âm mưu với
một số người để t́m cách giành
lại ngai vàng. Việc bại lộ, Hồng
Bảo bị hạ ngục và bị kết án
tử h́nh. Tự Đức tha chết cho anh nhưng
cho lệnh giam lại, nhưng không hiểu sao
Hồng Bảo thắt cổ chết trong ngục
(có sách viết là bị ép uống thuốc độc).
Cái chết của Hồng Bảo trở thành
một nghi án. Vua Tự Đức sợ sau nầy
sử không chép đúng sự thật nên tự ḿnh
kể lại cuộc đời của ḿnh và cho
khắc vào bia đá lớn để lại cho
hậu thế, bia nầy ngày nay vẫn c̣n ở
trong lăng Tự Đức.
Người ở trong nước chia ra làm
bốn hạng là : sĩ, nông, công, thương. Sĩ
: là hạng người chuyên nghề đi
học, thầy thuốc, thầy bói, v.v... những
nghề phong lưu nhàn hạ. Nông : là hạng người
chuyên nghề làm ruộng. Công : là hạng người
làm thợ hoặc làm một công nghệ ǵ để
lấy lợi (dệt vải, làm mắm muối,
v.v...). Thương : là hạng người làm
nghề buôn bán.
Đời vua Tự Đức có rất nhiều
loạn lạc (giặc cờ Đen, cờ vàng,
cờ Trắng, nội loạn, pḥ Lê diệt
Nguyễn v.v...) và cũng là giai đoạn đầu
mà Pháp đánh Việt Nam.
Năm Tự Đức thứ 9, có chiến
thuyền "Catinat" vào cửa Đà Nẵng
rồi cho người đem thư lên trách
triều đ́nh Việt Nam về việc giết
đạo Thiên Chúa. Không được trả
lời, quân Pháp bắn phá các đồn lũy
rồi bỏ đi. Có ông Giám mục Pellerin
trốn được lên tàu. Giám mục Pellerin
về Pháp thuật lại cho triều đ́nh Pháp
cảnh các giáo sĩ Thiên Chúa giáo bị đàn áp
dă man ở Việt Nam, và nói rằng chỉ
cần có loạn là các tín đồ Thiên Chúa giáo
sẽ nổi lên đánh giúp, lại có bà Hoàng
hậu Pháp Eugénie rất sùng đạo nên cũng
nói giúp ông Pellerin. Pháp Hoàng mới quyết ư sang
đánh nước ta.
Tháng 7 năm Tự Đức thứ 11 (1858), Trung tướng
Pháp là Rigault de Genouilly đem tàu Pháp và tàu Y-pha-nho
(Espagne) cả thảy 14 chiếc vào cửa Đà
Nẵng bắn phá rồi hạ thành An hải và
thành Tôn hải. Theo dự trù, trung tướng
Rigault de Genouilly tính tiến đánh Huế sau khi
hạ Đà Nẵng nhưng chờ hoài mà chẳng
thấy tín đồ Thiên Chúa giáo nổi loạn
lại thấy quân ta đổ xuống ngày càng
đông, quân Pháp lại không quen khí hậu nên ngă
bệnh cũng nhiều. Trung tướng Rigault de
Genouilly gây lộn với Giám mục Pellerin và
viết thư về Pháp kể t́nh h́nh, Giám
mục Pellerin giận bỏ về Mă Lai. Thấy
đánh Huế chưa nổi, ông trung tướng
Pháp đổi ư, quay qua đánh Gia Định v́ là nơi
dể lấy hơn và là vùng trù phú hơn.
Đầu năm sau trung tướng Rigault de Genouilly
dẩn quân Pháp và Y-pha-nho vào cửa Cần
Giờ, đánh thành Gia Định, chỉ trong 2 ngày
th́ thành vở. Quan hộ-đốc Vũ Duy Ninh
tự vận. Quân Pháp san phẳng thành tŕ làm b́nh
địa. Xong trung tướng Pháp lại đem
quân trở ra Đà Nẵng đánh một trận
ở đồn Phúc Ninh, quân ông Nguyễn Tri Phương
thua phải rút về giữ đồn Nại-hiên
và đồn Liên-tŕ. Trung tướng Rigault de
Genouilly cũng bệnh nên xin về Pháp nghĩ,
thiếu tướng Page sang thay, ông đề
nghị việc giảng hoà, cốt chỉ xin
được tự do giảng đạo Thiên Chúa
và được buôn bán với nước ta nhưng
triều đ́nh Huế lúc đó chỉ c̣n
những ông quan già, chỉ biết đạo Nho thà
chết để giữ nước, không chịu
nhục, không phải là người biết
mềm mỏng trong vấn đề ngoại giao nên
Vua cũng phải nghe theo.
Đến năm 1862 th́ quân Pháp đă chiếm luôn
Biên Hoà và Vĩnh Long. Triều đ́nh mới
chịu phái hai ông Phan Thanh Giản và ông Lâm Duy
Tiếp vào Nam giảng hoà với Pháp ngày 9 tháng 5
năm Nhâm Tuất (1862).
Trong bản hoà ước ấy (12 khoăn) có
những khoăn như sau :
-Nước Việt Nam phải để cho giáo
sĩ Thiên Chúa Giáo nước Pháp và nước
Y-Pha-Nho được tự do giảng đạo
và để dân gian được tự do theo
đạo.
-Nước Việt Nam phải nhượng đứt
cho nước Pháp tỉnh Biên Hoà, tỉnh Gia Định
và tỉnh Định Tường và phải để
cho chiến thuyền của Pháp ra vào tự do
ở sông Mékong (Cửu Long).
Vua Tự Đức bắt buộc phải nhường
3 tỉnh Nam kỳ cho Pháp nhưng trong bụng
vẫn muốn lấy lại v́ là đất khai
nghiệp của nhà Nguyễn nên đă phái ông Phan
Thanh Giản, ông Phạm phú Thứ và ông Ngụy
Khắc Đản đem phẩm vật sang nước
Pháp và nước Y-Pha-Nho để xin chuộc
lại 3 tỉnh miền Nam. Vua Pháp hẹn sẽ
suy nghĩ lại rồi trả lời sau, nhưng
ông bộ trưởng hải quân và thuộc địa
Pháp Chasseloup-Laubat không chịu trả đất cho
Việt Nam nên nói ra, vua Pháp nghe lời.
Triều đ́nh Huế cũng nghĩ là Pháp
sẽ không ngừng ở đó nên sai ông Phan Thanh
Giản vào trấn giữ Miền Nam. Năm Tự
Đức thứ 20 (1867), thiếu tướng De la
Grandière kéo quân đánh Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên.
Ông Phan Thanh Giản biết thế chống không
nổi nên bảo các quan nộp thành tŕ cho đở
đổ máu rồi uống thuốc độc
tự vận. Toàn cảnh đất Nam Kỳ
thuộc về Pháp, thuế má, luật lệ điều
ǵ cũng do Pháp quyết định cả. Nước
Pháp tạm ngừng cuộc chinh phục tại
đây.
Quân Pháp lấy Bắc kỳ lần thứ
nhất : 6 năm sau, ở miền Bắc có ông
Jean Dupuis (Đồ Phổ Nghĩa) chuyên buôn bán vũ
khí, ông ta t́m đường sông để chở
hàng qua Tàu và kiếm ra đường sông
Hồng nhưng bị quân triều đ́nh làm khó
dể v́ ông ta không có giấy phép. Jean Dupuis
ngạo mạn kiếm chuyện gây gổ với
triều đ́nh rồi sai người phụ tá tên
Millot vào Saigon t́m gặp viên Thống đốc Nam
kỳ là Thiếu tướng hải quân Dupré
để kể t́nh h́nh và xin trợ giúp.
Thiếu tướng Dupré là người đă
đễ ư tới vùng Bắc kỳ từ lâu, ông
đă viết thư về Paris xin lấy luôn đất
Bắc kỳ nhưng bên Pháp lúc bấy giờ
đang yếu v́ chiến tranh với nước
Thổ nên ra lệnh không được gây sự
ở Bắc kỳ. Khi được Millot đến
đốc thúc th́ ông Dupré quyết định hành
động, ông viết thư cho Paris nói là xin
được tự quyết định, ông không
cần viện trợ, nếu chuyện không thành
th́ ông sẽ lănh hết trách nhiệm.
Dupré sai Trung úy hải quân Françis Garnier đem quân
ra Hà Nội giả nói là để giải
quyết chuyện xích mích của Jean Dupuis rồi
kiếm chuyện để bắn vào thành Hà
Nội sáng hôm rằm năm Quí Dậu (1873).
Chỉ một giờ th́ thành vỡ, tướng
Nguyễn Tri Phương bị thương
nặng, Pháp bắt tính giải về Saigon nhưng
Nguyễn Tri Phương không cho băng bó và
nhịn ăn chết. Thành Hà Nội thất
thủ, quân ta không hiểu chuyện ǵ hết nên
cứ thấy quân Pháp là bỏ chạy, chỉ
trong 20 ngày mà mất 4 tỉnh.
Lúc bấy giờ có Lưu Vĩnh Phúc là đầu
đảng của "giặc cờ đen"
về hàng triều đ́nh Huế, vua Tự Đức
phong cho chức Đề đốc để phụ
đánh quân Pháp. Lưu Vĩnh Phúc đem quân
về đánh thành Hà Nội. Françis Garnier đem quân
ra nghênh th́ bị phục kích chết ở cầu
Giấy. Paris biết chuyện nên triệu Thiếu
tướng Dupré về Pháp trị tội,
Thiếu tướng Dupré t́m cách đở tội
nên trở mặt, sai ông Đại úy hải quân
Philastre ra Hà Nội để trả lại thành và
4 tỉnh bị chiếm. Hai bên kư hoà ước năm
Giáp Tuất (1874) trong đó triều đ́nh
Huế công nhận cả miền Nam là thuộc
về Pháp và Pháp cũng bồi thường
lại cho Việt Nam bằng tàu bè và súng ống.
Quân Pháp lấy Bắc kỳ lần thứ hai :
Năm 1881, có hai người Pháp tên là Courtin và
Villeroi được giấy thông hành đi lên Vân
Nam (bên Tàu) nhưng khi đi đến Lào-Kay th́
bị loạn quân cản trở không đi
được, viên Thống đốc Le Myre de
Vilers bèn gởi thư về Pháp nói rằng nên
chiếm luôn Bắc kỳ để bảo đảm
sự lưu thông buôn bán với Tàu. Lúc đó nước
Pháp đă hồi phục lại sinh lực nên cũng
có ư bành trướng ở Nam Á. Năm 1882,
Thống đốc một mặt gởi thư cho
triều đ́nh ta nói là Vua bất lực, đất
nước loạn ly, Pháp phải trấn an đất
Bắc để bảo vệ quyền lợi
của dân Pháp, một mặt gởi Đại tá
hải quân Henri Rivière ra Hà Nội, gởi tối
hậu thư cho quan Tổng Đốc Hoàng Diệu
bắt phải hàng. Đúng 8 giờ sáng th́ quân Pháp
tấn công, 11 giờ thành đổ, ông Hoàng
Diệu treo cổ tự tử.
Viên Khâm sai Pháp ở Huế là Rheinart sang thương
thuyết, trong đó đ̣i nước Nam phải
nhận nước Pháp bảo hộ và nhường
thành thị Hà Nội cho Pháp. Nhiều người
trong Triều đ́nh nói rằng : Nước ta
trong c̣n Lưu Vĩnh Phúc, ngoài c̣n nước Tàu,
lẽ nào bó tay mà chịu nên từ chối. Sau
đó Triều đ́nh cho người sang cầu
cứu với nước Tàu, Triều đ́nh nhà
Thanh được dịp bèn gởi quân qua đóng
hết các tỉnh Bắc Ninh và Sơn Tây. Quân Pháp
thấy quân Tàu tràn qua biên giới nên cũng xua quân
đánh luôn. Đại tá Henri Rivière cũng bị quân
cờ đen giết tại cầu Giấy.
Đúng lúc nầy th́ vua Tự Đức mất ngày
16 tháng 6 năm Quí-Mùi (1883) trị v́ 36 năm,
thọ 55 tuổi.
|