Ỷ Lan Hoàng thái hậu

Đoàn Minh Tuấn

 

Ỷ Lan - có thuyết cho rằng tên thật của bà là Lê Thị Yến Loan - là một cô gái hái dâu, chăn tằm ở ngoại thành Thăng Long thời Lư. ỷ Lan ra đời ở làng Thổ Lỗi (làng Sủi sau đổi là Siêu Loại, nay là xă Dương Xá, huyện Gia Lâm - Hà Nội) - năm nào không rơ, sử sách chỉ ghi lờ mờ: bà mất ở kinh thành Thăng Long vào năm 1117 - trên dưới 70 tuổi - thời Lư Nhân Tông. Sách Mộng khê bút đàm của Thẩm Hoạt có chép "Nhật Tôn (tức Lư Thánh Tông) mất, Càn Đức (Lư Nhân Tông) lên, dùng quan là Lư Thượng Cát (Lư Thường Kiệt) và mẹ là thái phi Lê Thị Yến Loan cùng coi việc nước".

Câu chuyện Yến Loan vào cung vua Lư, đó là một giai thoại người người đều nghe, đều biết.

Thuở ấy vào năm Quư Măo (1063) Lư Thánh Tông đă đến bốn mươi tuổi. Vua chưa có con trai để truyền ngôi báu, đêm ngày triều thần lo ngại. Vua bèn thân hành đi cầu tự khắp các chùa chiền, miếu mạo nhưng không hiệu nghiệm, Lư Thánh Tông lo lắng cho triều đ́nh nhà Lư và xă tắc Đại Việt. Một sớm mùa xuân, vua về viếng thăm chùa Dâu (tổng Dương quang phủ Thuận Thành) dân làng mở hội nghênh giá. Thánh Tông hoàng đế cùng ḥa vào dân chúng trong hội làng đông vui. Trai gái, già trẻ các làng đều ra rước vua. Đoàn xa giá của vua đi đến đâu, các làng lân cận nô nức, đổ xô về phía ấy. Duy chỉ cô thôn nữ xinh đẹp của làng Sủi vẫn điềm nhiên hái dâu, xem việc ngự giá của vua không có quan hệ ǵ đến ḿnh. Cô gái vẫn miệt mài bên băi dâu, mặc cho đoàn ngự diễu qua. Lư Thánh Tông lấy làm lạ, bèn cho đ̣i người con gái có vẻ "kiêu căng" đang đứng bên nương dâu kề gốc lan ấy đến trước kiệu rồng để hỏi. Cô gái ung dung nhẹ nhàng tới quỳ tâu: Thiếp là con nhà nghèo hèn, phải làm lụng đầu tắt mặt tối, phụng dưỡng cha mẹ có đâu dám mong đi xem rước và nh́n mặt rồng".

Vua thấy cô gái ăn mặc quê mùa, nhưng cử chỉ đoan trang dịu dàng, lời lời phong nhă, đối đáp phân minh, lễ nghĩa khác hẳn những người con gái mà vua đă từng gặp. Vua yêu v́ sắc, trọng v́ nết, nên cho cô gái theo long giá về kinh đô. Cô gái làng quê được đón về cung vua ấy là Yến Cô Nương xinh đẹp, nết na của làng Siêu-Loại (Sủi). Nhưng Lư Thánh Tông là ông vua chăm việc nước, luôn luôn thân chinh dẹp giặc. Vua ít nhàn rỗi để ngự tới cung ỷ Lan. Đương lúc cung ỷ Lan vắng tiếng đàn, tiếng sáo, th́ bỗng một hôm sau khi Thánh Tông đi trảy hội chùa Thổ Lỗi, cung ỷ Lan lại nhộn nhịp hơn xưa. Yến Cô Nương nhờ "thông minh vốn sẵn tư trời" được học tập, trau dồi đă trở thành một cung phi "nổi danh tài sắc một thời" kinh sử làu thông, văn chương uyên bác. Lư Thánh Tông đem ḷng yêu mến, phong làm ỷ Lan phu nhân, lấy tên cung ỷ Lan và cũng có ư kỷ niệm cô gái đứng tựa bên gốc lan, khi tuân lệnh đến bệ kiến buổi đầu ở làng Sủi (Siêu Loại).

Sau đó (1066), ỷ Lan sinh hạ được một hoàng tử lấy tên là Kiền Đức. Kiền Đức trán cao, tay dài quá gối, thông minh, tuấn tú, vua càng yêu dấu hơn, Yến Loan được tôn là ỷ Lan nguyên phi - đứng đầu các cung phi, sau thái hậu; con trai được lập làm thái tử.

Năm Kỷ Dậu (1069), Lư Thánh Tông thân chinh đi đánh giặc ngoại xâm. Trong khi vua cùng Lư Thường Kiệt ở ngoài biên cương, ỷ Lan nguyên phi đảm đang, chăm lo quốc sự, trị nước điều khiển có kỷ cương khiến thần dân thán phục, cơi nước được yên vui. Lư Thánh Tông từ ngoài biên ải đánh trận lâu ngày không thắng, chán nản rút quân quay về. Về chưa đến nơi, nghe dân chúng Châu Cư Liên (Tiên Lữ, Hải Hưng) ca ngợi nguyên phi ỷ Lan ở nhà trị nước rất giỏi, ḷng dân cảm hóa, được suy tôn là bà Quan Âm, vua Thánh Tông tự trách ḿnh: "Nguyên phi là đàn bà c̣n làm được như thế, ta là đàn ông há thua sao! Vua lại tiếp tục trở ra đánh giặc, lần này thắng trận. Năm đó, mùa hạ vua đem quân về ca khúc khải hoàn, đại xá cho thiên hạ, giảm thuế khóa, phát tiền lụa, thóc cho dân nghèo. ỷ Lan rất nhân từ dạy con ngoan, đào tạo con trở thành một nhà vua anh minh sau này; lại lo cho dân giàu nước mạnh, yêu thương nhân dân được mọi người kính phục.

Năm Nhâm Tư (1072) tháng giêng mùa xuân, Lư Thánh Tông mất ở điện Hội Tiên. Hoàng thái tử Kiền Đức lên ngôi vua, tức vua Lư Nhân Tông. Khi ấy vua mới lên bảy, tôn mẹ là ỷ Lan nguyên phi lên làm Linh Nhân hoàng thái hậu. ỷ Lan vừa giúp coi triều chính, vừa làm nhiệm vụ bà mẹ dạy dỗ con. Trong khi vua c̣n thơ ấu, ỷ Lan điều khiển cả quốc gia, cùng tể tướng Lư Thường Kiệt chủ trương đánh quân Tống xâm lược. Hai lần quân Tống đến (1075, 1077) vua Lư Nhân Tông chưa quá 10 tuổi, ỷ Lan đă cùng Thái sư Lư Đạo Thành lo việc binh lương chuyển ra tiền tuyến. Trong lúc Tổ quốc lâm nguy ỷ Lan đă cùng Lư Thường Kiệt giữ vững giang sơn, xă tắc; công ấy đời sau c̣n nhắc măi.

ỷ Lan xuất thân là một thôn nữ, nên hiểu thấu những khổ đau của người phụ nữ nông dân v́ nghèo khổ phải đem thân gán nợ cho nhà giàu, bà cho xuất của trong kho chuộc về, và xây dựng chồng con hạnh phúc cho họ. Về việc này Ngô Sĩ Liên đă có lời bàn: "Con gái nghèo đến nỗi phải đợ ḿnh làm mướn, con trai nghèo đến nỗi không vợ đó là cùng dân của thiên hạ. Thái hậu (tức ỷ Lan) đổi mệnh cho họ cũng là việc nhân chính vậy!". ỷ Lan không những sửa sang việc quốc chính, tăng cường quân đội, bố pḥng, chăm lo việc mở mang dân trí, việc thi cử học hành và c̣n ban hành nhiều điều ích quốc lợi dân. ỷ Lan c̣n khuyên vua làm điều thiện, trị điều ác. Bà hiểu những gian nan của nông dân khi việc nông trang cày bừa không có trâu cày. ỷ Lan bảo vua phạt tội nặng những kẻ trộm trâu và giết trâu bừa băi; có lần bà đă nói với vua: "Gần đây người kinh thành và làng ấp đă có kẻ trốn đi chuyên nghề trộm trâu. Nông dân cùng quẫn. Mấy nhà phải cày chung một trâu. Trước đây, ta đă từng mách việc ấy, và nhà nước đă ra lệnh cấm. Nhưng nay việc giết trâu lại có nhiều hơn trước". Nhân Tông bèn ra lệnh phạt rất nặng những người trộm và giết trâu, phạt cả vợ con và hàng xóm v́ tội không tố giác.

Sống trong lầu son, gác tía mà lúc nào ỷ Lan cũng không quên đến người nghèo, ỷ Lan vẫn chăm sóc đến đời sống cùng cực của nông dân lao động. Cũng như Lư Thánh Tông, ỷ Lan thường phát chẩn thóc lúa cho kẻ nghèo. Bà sùng đạo Phật, ưa làm việc từ thiện lập nhiều đ́nh chùa.

Bà thường lui tới các đ́nh chùa, trao đổi với các tăng ni thuyết giáo đạo Phật. Năm 1096, bà bày cỗ chay ở chùa Khai Quốc (tức sau là chùa Trấn Quốc ở Thăng Long) thết các sư. Tiệc xong, bà ngồi kê cứu đạo Phật với các vị sư già học rộng. Bà hỏi về nguồn gốc đạo Phật ở các nước và ở ta. Bà có óc phán đoán đ̣i hỏi các sư "nói có sách mách có chứng". Chính nhờ câu chuyện giữa bà và các vị sư thời Lư (sách Thiên uyển tập anh ngữ lục đời Trần c̣n ghi lại tường tận chuyện này), mà đến nay ta c̣n biết gốc tích sự truyền bá đạo Phật vào nước ta. Có lần bà đến chùa Phổ Minh (Từ Liêm) tranh luận với sư Thông Biến về những điều của Phật giáo. Bà cũng có làm những bài kinh, có câu kệ c̣n truyền lại đến ngày nay:

Sắc là không, không tức sắc
Không là sắc, sắc tức không
Sắc? Không? thôi mặc cả,
Mới thấu được chân tông (*)

Là một nữ nông dân nghèo, được hưởng phú quư vinh hoa, bà vẫn cho là điều "sắc sắc, không không", đó là phù vân... Bà là một người phụ nữ vương giả, ngọc ngà vàng son không làm vẩn đục tâm hồn bà, cũng là một phụ nữ hiếm có trong lịch sử ngh́n năm trước.

Ngày 25 tháng 7 năm Đinh Dậu, Hội tường đại khánh năm thứ 8 (1117) đời Lư Nhân Tông, bà mất, được hỏa táng, dâng thụy là Phù Thánh Linh Nhân Hoàng thái hậu, mai táng ở Thọ Lăng phủ Thiên Đức. Hiện nay c̣n miếu thờ bà ở hai xă Cẩm Đới và Cẩm Cầu huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương.