Loại tranh chấp thứ nhì là tranh chấp các vùng biển thuộc đảo. Những
tranh chấp này sẽ được và sẽ chỉ được giải quyết khi nào tranh chấp chủ
quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa được giải quyết. Nước được cho là sở
hữu đảo nào, sẽ sở hữu các vùng biển thuộc đảo đó.
Trên thực tế, triển vọng giải quyết tranh chấp chủ quyền đối với Hoàng
Sa, Trường Sa còn xa vời. Một mặt, Việt Nam không thể bỏ rơi chủ quyền
chính đáng của mình. Mặt kia, Trung Quốc, là nước mạnh và đã chứng tỏ
quyết tâm của họ, sẽ khó mà bỏ qua đòi hỏi của họ.
Vì vậy, thực tế là triển vọng giải quyết tranh chấp các vùng biển thuộc
các đảo Hoàng Sa, Trường Sa còn xa vời.
1.3. Tranh chấp do chồng lấn
“đảo-bờ”
Loại tranh chấp thứ ba là tranh chấp do chồng lấn giữa một bên các vùng
biển thuộc bờ, và bên kia là các vùng biển thuộc đảo. Đối với loại tranh
chấp thứ ba, chúng ta có thể lựa chọn giữa hai phương cách.
1. Phương
cách thứ nhất là không giải quyết loại tranh chấp thứ ba cho tới khi
loại tranh chấp thứ nhì được giải quyết. Như đã nói, không thể giải
quyết loại tranh chấp thứ nhì trước giải quyết tranh chấp chủ quyền đối
với Hoàng Sa, Trường Sa, mà triển vọng giải quyết tranh chấp chủ quyền
đối với Hoàng Sa, Trường Sa lại còn xa vời. Vì vậy, nếu lựa chọn phương
cách thứ nhất thì triển vọng giải quyết loại tranh chấp thứ ba cũng xa
vời.
2. Phương
cách thứ nhì là tìm cách giải quyết loại tranh chấp thứ ba ngay cả khi
chưa giải quyết được loại tranh chấp thứ nhì. Cơ bản, điều này có nghĩa
a. Xác
định, so với bờ, các đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa được bao
nhiêu biển.
b. Các
vùng biển được xác định là thuộc đảo sẽ nằm trong loại tranh chấp thứ
nhì, tức là sẽ nằm trong tình trạng tranh chấp chủ quyền cho tới khi
tranh chấp đảo được giải quyết.
c. Các
vùng biển được xác định là không thuộc các đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa,
Trường Sa, một là sẽ thuộc về bờ, hai là sẽ là tài sản chung của nhân
loại.
d. Phần
lớn các vùng biển thuộc bờ sẽ không bị tranh chấp. Mặc dù một phần nhỏ
có thể bị tranh chấp do chồng lấn bờ-bờ, đó là dạng tranh chấp có thể
giải quyết được.
Phương cách thứ nhì cho phép chúng ta giải quyết một phần, có thể là
phần lớn, của các tranh chấp loại ba ngay cả trong khi chưa giải quyết
được tranh chấp chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa. Đó là điều có
ích, vì nếu đợi đến khi giải quyết được tranh chấp chủ quyền đối với
Hoàng Sa, Trường Sa mới giải quyết các tranh chấp loại ba thì
-
không
cần thiết,
-
không
có lợi cho Việt Nam,
-
bất lợi cho Việt Nam vì Trung Quốc sẽ lợi dụng tình hình tranh chấp để
đòi hỏi ngay cả những vùng biển không thuộc Hoàng Sa, Trường Sa,
-
tình hình bất lợi cho Việt Nam sẽ tiếp diễn trong tương lai có thể thấy
được, vì triển vọng giải quyết tranh chấp chủ quyền đối với Hoàng Sa,
Trường Sa còn xa vời.
2. Các đảo thuộc quần đảo Hoàng
Sa, Trường Sa có bao nhiêu biển?
Bất kể chọn phương cách thứ nhất hay phương cách thứ nhì để giải quyết
tranh chấp do chồng lấn đảo-bờ, các nước trong tranh chấp cũng phải xác
định, so với bờ, các đảo Hoàng Sa, Trường Sa được bao nhiêu biển.
Giải quyết vấn đề “Đảo có bao nhiêu biển?” chính là giải quyết tranh
chấp do chồng lấn đảo-bờ, vì nếu các nước trong tranh chấp đồng ý về đảo
có bao nhiêu biển, bờ có bao nhiêu biển, thì sẽ không còn chồng lấn
đảo-bờ nữa.
2.1. Khiá cạnh
pháp lý
Các đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa đều rất nhỏ (đảo lớn nhất ở
Hoàng Sa là đảo Phú Lâm, có diện tích khoảng 1,5 km² , đảo lớn nhất ở
Trường Sa là Ba Bình, có diện tích gần 0,5 km² phần lớn các đảo có diện
tích dưới 1 km²). Điều này nhấn mạnh sự quan trọng của câu hỏi, “Trong
trường hợp có chồng lấn với các vùng biển từ các vùng lãnh thổ khác, các
đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa được bao nhiêu biển thì sẽ công
bằng?”
Mặc dù UNCLOS quy định rằng khi có tranh chấp gây ra bởi chồng lấn vùng
đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa thì tranh chấp phải được giải quyết
một cách công bằng, nhưng UNCLOS lại không quy định thế nào là công
bằng. Vì vậy, để hiểu về các khía cạnh cho việc xử lý các vùng chồng
lấn, chúng ta cũng phải tham khảo thêm các phiên toà của Toà án Công lý
Quốc Tế, các tập quán quốc tế, và ý kiến của các học giả.
Có hai thái cực cho các trả lời cho câu hỏi này.
1. Thái
cực thứ nhất là các đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa chỉ nên có
lãnh hải 12 hải lý chứ không có vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa
mở rộng. Thái cực này có nghĩa các đảo này có 0% hiệu lực trong việc
tính vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
2. Thái
cực kia là các đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa có vùng đặc quyền
kinh tế 200 hải lý, hay ra tới trung tuyến giữa các đảo này và bờ, và,
nếu các điều kiện địa lý hữu quan đáp ứng các quy định trong Điều 76 của
UNCLOS về thềm lục địa mở rộng, các đảo này có thể có thềm lục địa mở
rộng bên ngoài 200 hải lý. Thái cực này có nghĩa các đảo này có 100%
hiệu lực so với bờ trong việc tính vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục
địa.

Bản đồ 2: Kịch bản
đảo Phú Lâm, Hoàng Sa, Lin Côn (thuộc quần đảo Hoàng Sa) và Bến Lạc
(thuộc quần đảo Trường Sa) được 100% hiệu lực. Gần như tất cả vùng biển
trong vòng đen sẽ là vùng đặc quyền kinh tế thuộc Hoàng Sa. Nếu có đảo
khác thuộc quần đảo Hoàng Sa cũng được 100% hiệu lực thì vùng đặc quyền
kinh tế thuộc Hoàng Sa sẽ còn rộng hơn nữa.

Bản đồ 3: Kịch bản đảo
Ba Bình, Thị Tứ, Bến Lạc, Trường Sa (thuộc quần đảo Trường Sa),
Hoàng Sa và Lin Côn (thuộc quần đảo Hoàng Sa) được 100% hiệu lực.
Gần như tất cả vùng biển trong vòng đen sẽ là vùng đặc quyền kinh
tế thuộc Trường Sa. Nếu có đảo khác thuộc quần đảo Trường Sa cũng
được 100% hiệu lực thì vùng biển này còn rộng hơn nữa.
Lưu ý rằng đường chữ U của Trung Quốc đi còn xa hơn cả thái cực thứ nhì,
vì nó cách các đảo xa hơn đường trung tuyến giữa các đảo này và bờ. Điều
đó tương đương với các đảo này được cho hơn 100% hiệu lực so với bờ và
nói lên một trong nhiều điều vô lý của đường chữ U của Trung Quốc.

Bản đồ 4: Kịch bản đảo
Phú Lâm, Hoàng Sa, Lin Côn, Ba Bình, Thị Tứ, Bến Lạc, Trường Sa được
100% hiệu lực. Gần như tất cả vùng biển trong hai vòng đen sẽ là
vùng đặc quyền kinh tế thuộc Hoàng Sa, Trường Sa. Đường chữ U tương
đương với các đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa được hơn 100%
hiệu lực - một trong những điều vô lý về đường đó.
Giữa hai thái cực trên, tồn tại vô số trả lời khác. Thí dụ, mỗi đảo
thuộc quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa có thể được một vùng đặc quyền kinh
tế 15, 20 hay 25 hải lý tính từ đường cơ sở của đảo, có nghĩa mỗi đảo
được một ít hiệu lực trong việc tính vùng đặc quyền kinh tế. Ngoài ra,
vùng biển thuộc về đảo có thể tuỳ thuộc theo một số hay tất cả những yếu
tố thí dụ như:
Đại khái, đảo lớn có thể được nhiều hiệu lực hơn đảo nhỏ, nếu không
chồng lấn thì có thể được nhiều hiệu lực hơn chồng lấn.Vùng đặc quyền
kinh tế của các đảo sẽ là những vùng khép kín bên trong vùng biển có thể
là vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa thuộc bờ, hay là bên trong
biển quốc tế.
2.2. Khiá cạnh
chiến lược
Lựa chọn trả lời nào trong vô số các trả lời trên không chỉ là vấn đề
pháp lý mà còn là vấn đề chiến lược. Về khía cạnh pháp lý, chúng ta có
thể thảm khảo tập quán quốc tế và phán quyết của các phiên toà quốc tế.
Về khía cạnh chiến lược chúng ta phải xét về lợi ích cũng như nguy cơ
trước mắt và trong tương lai cho đất nước, và chúng ta cũng phải xét về
tính khả thi của trả lời mà chúng ta chọn.
Điều có thể chắc chắn mà chúng ta cần để ý là, trong điều kiện hiện tại
và trong tương lai có thể thấy được, không phải là cho rằng Hoàng Sa,
Trường Sa có càng nhiều biển thì càng có lợi cho Việt Nam. Nếu các đảo
thuộc quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa được cho là có nhiều nhiều biển thì
điều đó sẽ gây ra nhiều chồng lấn lên các vùng biển thuộc bờ. Tuy rằng
Việt Nam có thể đòi hỏi các vùng chồng lấn này, tức là dùng Hoàng Sa,
Trường Sa để đòi hỏi đẩy ranh giới biển về phía những nước khác, các
nước này cũng có thể làm điều tương tự và đòi hỏi đẩy ranh giới biển về
phía Việt Nam.
Thí dụ như Trung Quốc có khuynh hướng đòi rất nhiều biển cho Hoàng Sa,
Trường Sa. Điều đó làm cho phần lớn Biển Đông bị tranh chấp. Trong tranh
chấp thì nước có quyền lực cứng và quyền lợi mềm áp đảo, sẽ có nhiều lợi
thế hơn. Nước đó là Trung Quốc chứ không phải Việt Nam. Vì vậy, nới rộng
vòng tranh chấp là điều có lợi cho Trung Quốc, trong khi điều đó nguy
hiểm cho Việt Nam.
Khía cạnh chiến lược của bài toán “Các đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa,
Trường Sa nên có bao nhiêu biển?” có thể được biểu tượng một cách đơn
giản hoá như sau:
-
b
là vùng biển thuộc các đảo Hoàng Sa, Trường Sa.
-
l
là lợi ích cho Việt Nam nếu Việt Nam giành được Hoàng Sa, Trường Sa và
vùng biển b.
-
x
là xác suất Việt Nam giành được Hoàng Sa, Trường Sa và vùng biển
b.
-
h
là phương hại cho Việt Nam nếu nước khác giành được Hoàng Sa, Trường Sa
và vùng biển b.
-
y
là xác suất nước khác giành được Hoàng Sa, Trường Sa và vùng biển b.
x + y = 1.
-
X
là chỉ số lợi ích cho Việt Nam nếu b là vùng biển thuộc các đảo
Hoàng Sa, Trường Sa.
Hàm số mà chúng ta phải tối đa hoá trong việc lựa chọn một b nào
đó không phải là l mà là một hàm số tương tự như
X = l * x – h * y
2.3. Năm loại giải pháp
Theo ý kiến của tác giả, tồn tại năm loại giải pháp chính với các tính
chất như sau.
2.3.1.
Hoàng Sa, Trường Sa được 100% hay nhiều hiệu lực
Loại giải pháp thứ nhất dựa trên nguyên tắc một số hay tất cả các đảo
thuộc quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa có 100% hiệu lực hay nhiều hiệu lực
trong việc tính vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Đại khái, vùng
biển thuộc các đảo này sẽ ra tới, hay gần tới, đường trung tuyến đảo-bờ.
Như vậy, giữa Biển Đông sẽ có những vùng biển rộng lớn thuộc về các đảo
này. Các vùng biển này sẽ nằm trong tình trạng tranh chấp chủ quyền, và
sẽ thuộc về nước giành được chủ quyền đối với đảo.

Bản đồ 5: Đường đen là
kịch bản đảo Phú Lâm, Hoàng Sa, Lin Côn, Ba Bình, Thị Tứ, Bến Lạc,
Trường Sa được 100% hiệu lực. Tất cả thềm lục địa mở rộng có tiềm
năng thuộc bờ Việt Nam và một phần rộng lớn của vùng đặc quyền kinh
tế thuộc bờ Việt Nam sẽ nằm trong vòng tranh chấp Hoàng Sa, Trường
Sa.

Bản đồ 5 cho thấy, với
loại giải pháp này, tất cả các khu vực TN, TT, TB, 5, 1, phần lớn
khu vực 20, và nhiều khu vực cách bờ dưới 200 hải lý sẽ thuộc về
đảo và nằm trong vòng tranh chấp Hoàng Sa, Trường Sa.
Nếu Việt Nam chọn loại giải pháp này thì điều đó có nghĩa:
-
Việt
Nam bỏ ưu thế của mình có từ bờ biển dài của mình và sự kéo dài tự nhiên
của thềm lục địa của mình.
-
Việt
Nam đặt thềm lục địa mở rộng tại TN, TT, TB, quyền đánh cá chung (và các
quyền lợi chung khác từ cột nước) tại TN, TT, TB, 1, 5 và 20, và một
phần của vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý thuộc bờ của mình vào vòng
tranh chấp Hoàng Sa, Trường Sa.
-
Việt
Nam làm hai điều trên với hy vọng giành được thêm cột nước, đáy biển và
lòng đất trong các đường đen.
Đó là một canh bạc nguy hiểm.
Với tương quan sức mạnh hiện nay và trong tương lai có thể thấy được,
đây là loại giải pháp bất lợi nhất cho Việt Nam.
2.3.2. Hoàng Sa,
Trương Sa được 0% hay ít hiệu lực
Loại giải pháp thứ nhì dựa trên nguyên tắc các đảo thuộc quần đảo Hoàng
Sa, Trường Sa có 0% hiệu lực hay ít hiệu lực trong việc tính vùng đặc
quyền kinh tế và thềm lục địa. Đại khái, mỗi đảo sẽ chỉ có lãnh hải 12
hải lý, vùng tiếp giáp 24 hải lý và vùng đặc quyền kinh tế ra xa hơn
lãnh hải một cách không đáng kể. Thí dụ, vùng đặc quyền kinh tế của đảo
có thể ra cách đường cơ sở của đảo 15, 20 hay 25 hải lý. Như vậy vùng
biển bị tranh chấp do tranh chấp Hoàng Sa, Trường Sa sẽ rất nhỏ so với
tổng diện tích Biển Đông.

Bản đồ 6: Kịch bản các
đảo chỉ được lãnh hải 12 hải lý (các đốm xanh). Vùng đặc quyền kinh
tế và gần như tất cả thềm lục địa mở rộng có tiềm năng thuộc bờ Việt
Nam sẽ nằm ngoài vòng tranh chấp Hoàng Sa, Trường Sa.
Bản đồ 6 cho thấy, với loại giải
pháp này, phần lớn Biển Đông sẽ không nằm trong vòng tranh chấp. Ngoại
trừ lãnh hải 12 hải lý thuộc các đảo Hoàng Sa, Trường Sa (các đốm xanh):
-
Vùng
đặc quyền kinh tế 200 hải lý thuộc bờ Việt Nam sẽ không bị tranh chấp.
-
Thềm
lục địa Bắc (TB) sẽ thuộc về Việt Nam. Việt Nam, Malaixia và Brunây có
thể chia nhau thềm lục địa Nam (TN).
-
Việt
Nam và Philippines có thể chia nhau thềm lục địa Trung (TT). Nếu tồn tại
thềm lục địa mở rộng tại khu vực 1, 5 thì nó sẽ thuộc về Trung Quốc.
-
Nếu
tồn tại thềm lục địa mở rộng tại khu vực 20 thì thềm lục địa đó sẽ thuộc
về Philippines.
-
Tất
cả các nước trong khu vực và trên thế giới được chia sẻ quyền lợi kinh
tế có từ cột nước trong các khu vực TN, TT, TB, 1, 5 và 20.
Như vậy, với loại giải pháp này, rất nhiều quyền lợi của Việt Nam sẽ
không còn bị đe doạ, trong khi Việt Nam không phải bỏ rơi chủ quyền đối
với bất cứ đảo nào.
Với tương quan sức mạnh hiện nay và trong tương lai có thể thấy được,
loại giải pháp này nằm trong những giải pháp có lợi nhất cho Việt Nam.
Đây cũng là một trong những loại giải pháp đơn giản nhất.
2.3.3.
Mỗi đảo thuộc Hoàng Sa,
Trường Sa được hiệu lực tuỳ theo điều kiện địa lý của đảo
Loại giải pháp thứ ba dựa trên nguyên tắc mỗi đảo thuộc quần đảo Hoàng
Sa, Trường Sa có một vùng đặc quyền kinh tế với diện tích tuỳ theo những
yếu tố địa lý của đảo. Những yếu tố địa lý này có thể là những yếu tố
được dùng trong Điều 121, Khoản 3 của UNCLOS:
-
Đảo là đảo hay đảo đá.
-
Khả năng duy trì sự cư ngụ của con người.
-
Khả năng duy trì nền kinh tế riêng.
-
Ngoài ra, diện tích của vùng đặc quyền kinh tế thuộc đảo có thể tuỳ
thuộc vào diện tích của đảo, thí dụ như:
-
Đảo với diện tích dưới 0.25 km² chỉ được lãnh hải 12 hải lý.
-
Đảo với diện tích 0.25-0.5 km² được vùng đặc quyền kinh tế tối đa là
12-15 hải lý.
-
Đảo với diện tích 0.5-1 km² được vùng đặc quyền kinh tế tối đa là 15-20
hải lý.
-
Đảo với diện tích 1 km² trở lên được vùng đặc quyền kinh tế đối đa là
20-25 hải lý.
Loại giải pháp này có chỉ số l cao hơn trong loại giải pháp thứ
nhì. Lý do là vùng đặc quyền kinh tế của các đảo có hiệu lực sẽ nằm
chồng lấn lên vùng đặc quyền kinh tế thuộc bờ của các nước khác nhiều
hơn nằm nằm chồng lấn lên vùng đặc quyền kinh tế thuộc bờ của Việt Nam
(vì các đảo lớn hơn nằm gần các nước khác hơn Việt Nam).
Nhưng cũng chính vì vậy mà các nước khác sẽ khó chấp nhận giải pháp này
hơn, cho nên chỉ số x sẽ thấp hơn trong giải pháp thứ nhì.
2.3.4.
Mỗi đảo thuộc Hoàng Sa, Trường Sa được hiệu lực tuỳ theo có chồng
lấn với vùng đặc quyền kinh tế thuộc bờ hay không
Loại giải pháp loại thứ tư là các đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa
chủ yếu chỉ được cho những vùng đặc quyền kinh tế trong những vùng không
có chồng lấn với vùng đặc quyền kinh tế thuộc bờ, và được cho 100% hay
nhiều hiệu lực trong những vùng không có chồng lấn đó. Đại khái,
1. Vùng
biển cách bờ dưới 200 hải lý sẽ là vùng đặc quyền kinh tế thuộc bờ của
các nước hữu quan.
2.
Vùng biển cách bờ hơn 200
hải lý sẽ là vùng đặc quyền kinh tế thuộc về đảo.
3.
Sẽ không có thềm lục địa
thuộc bờ, vì thềm lục địa mở rộng phải cách bờ hơn 200 hải lý, nhưng
vùng biển cách bờ hơn 200 hải lý sẽ là vùng đặc quyền kinh tế thuộc về
đảo rồi.
Nguyên tắc của loại giải pháp này đại khái là:
-
Khi
vùng đặc quyền kinh tế của đảo có chồng lấn với vùng đặc quyền kinh tế
của bờ thì đảo được 0% hiệu lực, bờ được 100% hiệu lực.
-
Khi
vùng đặc quyền kinh tế của đảo có chồng lấn với thềm lục địa mở rộng của
bờ thì đảo được 100% hiệu lực, bờ được 0% hiệu lực.Trong vùng không có
chồng lấn, đảo được 100% hiệu lực.
Bản đồ 5 cho thấy, với loại giải pháp này, vùng biển (bao gồm cả đáy
biển và lòng đất) cách bờ hơn 200 hải lý, tức là các khu vực TN, TT, TB,
1, 5 và phần lớn khu vực 20, sẽ nằm trong vòng tranh chấp Hoàng Sa,
Trường Sa.
Ưu điểm của giải pháp này so với loại giải pháp thứ nhì là nếu, và
chỉ nếu, Việt Nam bảo vệ được chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa
thì các đảo thuộc hai quần đảo này sẽ làm cho vùng Biển Đông bên ngoài
200 hải lý từ bờ trở, tức là các khu vực TN, TT, TB, 1, 5 và phần lớn
khu vực 20, trở thành vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Nhược điểm của giải pháp này là nước khác có thể dùng tranh chấp Hoàng
Sa, Trường Sa để đòi đặc quyền kinh tế trong vùng biển này, tức là họ có
thể dùng tranh chấp Hoàng Sa, Trường Sa để làm những việc thí dụ như
-
Phủ
nhận thềm lục địa mở rộng Bắc (TB) Việt Nam đệ trình với Liên Hiệp Quốc.
-
Phủ
nhận thềm lục địa mở rộng Nam (TN) Việt Nam và Malaysia đệ trình với
Liên Hiệp Quốc.
-
Cấm
Việt Nam đánh cá xa bờ hơn 200 hải lý.
-
Thậm
chí, nếu có nước trong tranh chấp mạnh đủ, nước này có thể đơn phương
khai thác các vùng trên và thềm lục địa Trung.
Ngoài ra, các nước ngoài tranh chấp có thể phản đối việc các đảo thuộc
Hoàng Sa, Trường Sa được 100% hiệu lực trong một số khu vực. Nếu vậy thì
điều đó sẽ là một sự cản trở cho việc tranh thủ sự ủng hộ từ các nước
ngoài tranh chấp.
Nếu Việt Nam chọn loại giải pháp này thì điều đó có nghĩa:
-
Việt
Nam bỏ ưu thế của mình có từ sự kéo dài tự nhiên của thềm lục địa của
mình.
-
Việt
Nam đặt thềm lục địa mở rộng tại TN, TT, TB và quyền đánh cá chung (và
các quyền lợi chung khác từ cột nước) tại TN, TT, TB, 1, 5 và 20 vào
vòng tranh chấp Hoàng Sa, Trường Sa.
-
Việt
Nam làm hai điều trên với hy vọng giành được thêm cột nước, đáy biển và
lòng đất trong các khu vực TN, TT, TB, 1, 5 và 20.
Đó là một canh bạc ít nguy hiểm hơn loại giải pháp thứ nhất, nhưng vẫn
nguy hiểm.
Với tương quan sức mạnh hiện nay và trong tương lai có thể thấy được,
khó có thể nói rằng loại giải pháp này có lợi cho Việt Nam hơn loại giải
pháp thứ nhì.
2.3.5.
Mỗi đảo thuộc Hoàng Sa,
Trường Sa được hiệu lực tuỳ theo có chồng lấn với vùng đặc quyền kinh tế
hay thềm lục địa thuộc bờ hay không
Có thể cải tiến giải pháp loại thứ tư như sau để đưa thềm lục địa mở
rộng của Việt Nam ra khỏi vòng tranh chấp Hoàng Sa, Trường Sa nhưng vẫn
giữ nhiều quyền lợi cho đảo:
-
Trong
khu vực có chồng lấn với vùng đặc quyền kinh tế thuộc bờ thì đảo chỉ
được 0% hiệu lực hay ít hiệu lực trong việc tính vùng đặc quyền kinh tế.
-
Trong
khu vực có chồng lấn với thềm lục địa mở rộng thuộc bờ, nhưng không có
chồng lấn với vùng đặc quyền kinh tế thuộc bờ, thì bờ được 100% hiệu
lực, đảo được 0% hiệu lực hay ít hiệu lực trong việc tính thềm lục địa.
Điều này có nghĩa thềm lục địa mở rộng thuộc về bờ, nhưng quyền lợi từ
cột nước thuộc về đảo. Lưu ý là khu vực này nằm cách bờ hơn 200 hải lý
cho nên cột nước không thể thuộc về bờ.
-
Vùng
biển nằm ngoài với thềm lục địa mở rộng thuộc bờ (tức là ngoài cả vùng
đặc quyền kinh tế thộc bờ) sẽ là vùng đặc quyền kinh tế thuộc đảo.
Có thể minh hoạ loại giải pháp này như sau. Vùng đặc quyền kinh tế thuộc
bờ ra tới 200 hải lý. Giả sử thềm lục địa mở rộng thuộc bờ ra tới 250
hải lý. Giả sử đảo nằm cách bờ 300 hải lý. Với minh hoạ này:
-
Vùng
biển cách bờ dưới 200 hải lý sẽ là vùng đặc quyền kinh tế thuộc bờ.
-
Quyền
lợi kinh tế trong vùng biển từ 200 tới 250 hải lý cách bờ được chia như
sau: quyền lợi kinh tế đối với đáy biển và lòng đất thuộc về bờ, quyền
lợi kinh tế đối với cột nước thuộc về đảo.
-
Vùng
biển cách bờ hơn 250 hải lý là vùng đặc quyền kinh tế thuộc đảo.
Như vậy, trong minh hoạ trên, vùng biển cách bờ hơn 250 hải lý và quyền
lợi kinh tế cột nước thuộc về đảo và nằm trong vòng tranh chấp đảo,
nhưng vùng đặc quyền kinh tế thuộc bờ và thềm lục địa thuộc bờ sẽ không
nằm trong vòng tranh chấp đó.
Bản đồ 6 cho thấy, với loại giải pháp này, phần lớn Biển Đông sẽ không
nằm trong vòng tranh chấp. Ngoại trừ lãnh hải 12 hải lý thuộc các đảo
Hoàng Sa, Trường Sa (các đốm xanh):
-
Vùng
đặc quyền kinh tế 200 hải lý thuộc bờ Việt Nam sẽ không bị tranh chấp.
-
Thềm
lục địa Bắc (TB) sẽ thuộc về Việt Nam.
-
Việt
Nam, Malaysia và Brunei có thể chia nhau thềm lục địa Nam (TN).
-
Việt Nam và
Philippines có thể chia nhau thềm lục địa Trung (TT). Nếu tồn
tại thềm lục địa mở rộng tại khu vực 1, 5 thì nó sẽ thuộc về Trung Quốc.
-
Nếu
tồn tại thềm lục địa mở rộng tại khu vực 20 thì thềm lục địa đó sẽ thuộc
về Philippines.
-
Quyền
lợi kinh tế có từ cột nước trong các khu vực TN, TT, TB, 1, 5 và 20 sẽ
thuộc về đảo và sẽ nằm trong vòng tranh chấp Hoàng Sa, Trường Sa. Đây là
điểm mà loại giải pháp 5 khác với loại giải pháp 2.
Nếu Việt Nam chọn loại giải pháp này thì điều đó có nghĩa:
-
Việt
Nam đặt quyền đánh cá chung (và các quyền lợi chung khác từ cột nước)
trong các khu vực TN, TT, TB, 1, 5 và 20 vào vòng tranh chấp Hoàng Sa,
Trường Sa.
-
Việt
Nam hy vọng rằng sẽ giành được độc quyền đối với quyền đánh cá chung (và
các quyền lợi chung khác từ cột nước) trong các vùng trên, và giành được
lòng đất và đáy biển trong các vùng 1, 5 và 20.
Thoạt nhìn thì loại giải pháp thứ năm có vẻ lạ vì trong UNCLOS không có
cơ chế mà trong đó quyền lợi kinh tế đối với thềm lục địa thuộc về một
nước, trong khi quyền lợi kinh tế đối với cột nước có thể thuộc về một
nước khác (nếu nước giành được đảo là nước khác).
Tuy nhiên, trong UNCLOS có cơ chế mà quyền lợi kinh tế đối với đáy biển
và lòng đất thuộc về một nước, trong khi quyền lợi kinh tế đối với cột
nước thuộc về tất cả các nước trên thế giới – đó là cơ chế thềm lục địa
mở rộng trong Phần VI của UNCLOS. Cơ chế này có phần (nhưng không hoàn
toàn) tương tự với loại giải pháp thứ năm.
Trong tập quán quốc tế, cũng có những trường hợp mà đáy biển và lòng đất
thuộc về một nước, trong khi quyền đánh cá thuộc về một số nước bao gồm
nước đó, thí dụ như ranh giới thềm lục địa giữa các nước Liên Hiệp Âu
Châu và ranh giới thềm lục địa trong Địa Trung Hải. Tập quán này này có
phần (nhưng không hoàn toàn) tương tự với loại giải pháp thứ năm.
Quan trọng nhất, khu vực chúng ta đang nói tới là khu vực chồng lấn
(vùng biển từ 200 tới 250 hải lý trong minh hoạ là vùng chồng lấn giữa
vùng đặc quyền kinh tế thuộc đảo và thềm lục địa mở rộng thuộc bờ).
UNCLOS quy định rằng nếu có tranh chấp do chồng lấn thì tranh chấp phải
được giải quyết một cách công bằng nhưng không có quy định về cách phân
chia cụ thể.
Trong vùng biển từ 200 tới 250 hải lý trong minh hoạ, UNCLOS không cấm
các nước trong tranh chấp đồng ý rằng thềm lục địa mở rộng thuộc về bờ,
thay vì thuộc về đảo.
Ngoài ra, vùng biển này cách bờ hơn 200 hải lý cho nên quyền lợi kinh tế
đối với cột nước không thể thuộc về bờ. Vì vậy, việc giải pháp này cho
rằng cột nước không thuộc về bờ là điều phù hợp với UNCLOS. Tất nhiên,
trong khu vực cách bờ hơn 200 hải lý, cột nước có thuộc về đảo hay là
tài sản chung của nhân loại, là điều mà các nước trong tranh chấp và
ngoài tranh chấp có thể tranh cãi.
Loại giải pháp thứ năm phức tạp hơn loại giải pháp thứ tư nhưng có lợi
cho Việt Nam hơn vì với loại giải pháp thứ năm thì thềm lục địa mở rộng
của Việt Nam sẽ nằm ngoài vòng tranh chấp.
Loại giải pháp thứ năm phức tạp hơn loại giải pháp thứ nhì và thứ ba
nhưng có chỉ số l cao hơn. Chỉ số x có thể cũng cao hơn
(hay ít nhất thì thỉ số x cũng không thấp hơn). Nhược điểm của
giải pháp thứ năm so với giải pháp thứ nhì có thể là:
-
Trong
lãnh vực tranh thủ sự ủng hộ của các nước ngoài khu vực. Thứ nhất, các
nước này có thể phản đối việc cột nước các bờ hơn 200 hải lý thuộc về
đảo. Thứ nhì, giải pháp này phức tạp hơn giải pháp thứ nhì.
-
Chỉ
số h cao hơn trong loại giải pháp thứ nhì và thứ ba. Lý do là nếu
nước khác giành được Hoàng Sa hay Trường Sa hay cả hai thì những quyền
lợi kinh tế từ cột nước sẽ thuộc về nước này.
Tuy nhiên những giải pháp loại thứ năm vẫn là trong những giải pháp có
lợi nhất cho Việt Nam.
Theo ý kiến của tác giả, loại giải pháp thứ nhì thích hợp cho việc tranh
thủ dư luận đại chúng hơn, và loại giải pháp thứ năm có thể được dùng
trong những phân tích chuyên sâu hơn.
2.3.6.
Cần có sự đồng thuận, bao
gồm hay không bao gồm Trung Quốc
Một trong những quan ngại chúng ta có thể có là nếu Việt Nam chọn một
giải pháp mà các đảo Hoàng Sa, Trường Sa có ít hiệu lực trong việc tính
vùng đặc quyền kinh tế so với bờ thì sẽ bất lợi cho chúng ta nếu nước
khác chọn giải pháp mà Hoàng Sa, Trường Sa có nhiều hiệu lực.
Lập luận đằng sau quan ngại này là nếu chúng ta chọn quan điểm “Hoàng
Sa, Trường Sa có ít hiệu lực” thì chúng ta không thể dùng Hoàng Sa,
Trường Sa để đòi lấn vào thềm lục địa mở rộng và vùng đặc quyền kinh tế
thuộc bờ của các nước kia, trong khi nếu nước khác chọn quan điểm “Hoàng
Sa, Trường Sa có nhiều hiệu lực” thì họ có thể thể dùng Hoàng Sa, Trường
Sa để đòi lấn vào thềm lục địa mở rộng và vùng đặc quyền kinh tế thuộc
bờ của Việt Nam.
Nhưng chúng ta không cần phải quan ngại về điều đó.
Nếu Việt Nam chọn “Hoàng Sa, Trường Sa không có nhiều hiệu lực”, thí dụ
như một trong những giải pháp trong các loại từ hai tới năm thì không có
nghĩa là Việt Nam đơn phương tự ràng buộc mình vào giải pháp đó, hay làm
cho các nước khác hay các trọng tài quốc tế ràng buộc Việt Nam vào giải
pháp đó. Việt Nam có thể đưa ra giải pháp mình chọn như một đề xuất
trong đàm phán và bảo lưu quyền chọn giải pháp khác cho tới khi tất cả
các nước trong tranh chấp ký kết hiệp định chọn một giải pháp nào đó.
Như vậy, Việt Nam sẽ không hề bị thiệt hai nếu như có nước không đồng ý
với quan điểm “Hoàng Sa, Trường Sa không có nhiều hiệu lực”.
Vì vậy, không tồn tại chuyện Việt Nam đơn tìm cách đi đến sự đồng thuận
là một phần không thể thiếu được của các giải pháp.
Ngay cả trong trường hợp Trung Quốc khăng khăng đòi hỏi ranh giới đường
chữ U, Việt Nam và các nước Đông Nam Á trong tranh chấp vẫn có thể đàm
phán để tìm một lập trường chung với một giải pháp thích hợp nào đó,
tranh thủ sự ủng hộ của thế giới cho giải pháp mà các nước này lựa chọ
được qua đàm phán, gây áp lực cho Trung Quốc chấp nhận giải pháp đó,
nhưng vẫn bảo lưu quyền thay đổi quan điểm cho tới khi tất cả các nước
trong tranh chấp ký kết hiệp định chọn một giải pháp nào đó.
Nếu không thể đi tới bất cứ sự đồng thuận nào về các đảo Hoàng Sa,
Trường Sa được bao nhiêu biển, chúng ta nên yêu cầu Toà án Luật Biển
Quốc tế trả lời câu hỏi này, hoặc xin một Ý kiến Tư vấn của Toà án Công
lý Quốc tế. Toà án Công lý Quốc tế đã phân xử một số trường hợp tranh
chấp biển. Trong những vụ phân xử tranh chấp biển trước đây, các phán
quyết của Toà đều thể hiện tính khoa học và công bằng cao, đối nghịch
hẳn với yêu sách đường chữ U của Trung Quốc. Vì vậy, chúng ta có thể tin
tưởng được rằng phán quyết của Toà án Luật Biển Quốc tế hay Ý kiến Tư
vấn của Toà án Công lý Quốc tế về Hoàng Sa, Trường Sa được bao nhiêu
biển sẽ bác bỏ đường chữ U của Trung Quốc.
3. Các giải pháp và đường chữ U
của Trung Quốc
Mặc dù Việt Nam, Philippines, Malaysia và Brunây có tranh chấp biển đảo với
nhau, mối đe doạ lớn nhất cho Việt Nam là Trung Quốc. Nếu Trung Quốc
thực hiện được đường chữ U, hay phần lớn chủ trương của họ, thì tương
lai của Việt Nam sẽ vô cùng bấp bênh. Nếu việc đó xảy ra thì nó sẽ là sự
mất mát lãnh thổ lớn nhất trong lịch sử Việt Nam, và thế hệ chúng ta
cùng với thế hệ đàn anh sẽ chịu nhiều trách nhiệm.
Là nước nhỏ, để chống trả, chúng ta phải tận dung biện pháp ngoại giao.
Tuy không nên tin tưởng rằng nếu Trung Quốc sử dụng bạo lực thì sẽ có
nước nào đó giúp chúng ta, nhưng ngoại giao có trọng lượng trên bàn cân
“đánh hay không” của Trung Quốc. Chúng ta phải tăng tối đa trọng lượng
này.
Trong chiến lược ngoại giao của ta phải có quyền lợi gì cho các nước
khác. Tốt nhất là chiến lược ngoại giao của chúng ta có khía cạnh giúp
những nước khác giành cho họ những quyền lợi không phải, hay chưa chắc
là, của ta. Các loại giải pháp trong đó Hoàng Sa, Trường Sa không có,
hay có ít, hiệu lực trong việc tính vùng đặc quyền kinh tế trong những
vùng có chồng lấn đảo-bờ,
-
vừa
có quyền lợi cho các nước khác trong những vùng biển không phải, hay
chưa chắc là, của ta,
-
vừa
đặt các vùng biển thuộc bờ Việt Nam ra ngoài vòng tranh chấp Hoàng Sa,
Trường Sa,
-
vừa
có nghĩa Việt Nam không phải nhương bộ chủ quyền đối với bất cứ đảo nào.
Theo ý kiến của tác giả đó là những loại giải pháp tối ưu cho Việt Nam
trong hoàn cảnh hiện tại và trong tương lai có thể thấy được.
Trở ngại lớn nhất cho việc giải quyết tranh chấp Biển Đông là Trung
Quốc. Thay vì có một lập trường nào đó về bao nhiêu biển thuộc về đảo,
bao nhiêu biển thuộc về bờ của nước nào thì sẽ phù hợp với luật quốc tế,
với các tiêu chuẩn khách quan, và với sự công bằng, Trung Quốc đòi hỏi
đường chữ U bằng cách dùng lập luận mà họ gọi là “lịch sử”.
Vì Trung Quốc là nước có sức mạnh quân sự và sức mạnh mềm áp đảo, tồn
tại ý kiến rằng bất cứ quan điểm nào về hiệu lực của các đảo nói riêng,
hay giải pháp cho tranh chấp nói chung, cũng đều vô ích, vì Trung Quốc
sẽ không chấp nhận bất cứ quan điểm nào khác quá so với đường chữ U.
Đúng là khả năng là Trung Quốc sẽ tìm cách đòi hỏi và chiếm đoạt nhiều
nhất có thể bên trong đường chữ U, tức là khả năng là Trung Quốc sẽ
không chấp nhận bất cứ giải pháp nào mà theo đó Hoàng Sa, Trường Sa có
ít hiệu lực so với bờ. Không những thế, khả năng là Trung Quốc sẽ chống
cả việc xác định vùng biển thuộc Hoàng Sa, Trường Sa một cách khách
quan, khoa học, rõ ràng.
Mặc dù thực tế là như thế, việc nghiên cứu các giải pháp và tìm cách đi
đến một lập trường chung cũng vẫn cần thiết.
Nếu các nước Đông Nam Á trong tranh chấp có lập trường chung về một giải
pháp thì dù Trung Quốc có không đồng ý đi nữa thì tình hình Biển Đông
cũng sẽ khá lên nhiều.
Trước nhất các nước Đông Nam Á trong tranh chấp sẽ giảm bớt tranh chấp
biển với lẫn nhau. Như vậy, thế giới sẽ thấy rõ Trung Quốc là nước duy
nhất trong tranh chấp có lập trường khác với đa số, và là nước cản trở
sự giảm tranh chấp. Sau đó, nếu có đủ quyết tâm, các nước Đông Nam Á
trong tranh chấp có thể ủng hộ lẫn nhau trong lập trường chung, và có
thể cùng nhau tranh thủ sự ủng hộ của thế giới cho lập trường đó. Nếu
một nước trong tranh chấp tranh thủ sự ủng hộ của thế giới cho lập
trường riêng của mình thì khó thành công, nhưng nếu nhiều nước cùng nhau
tranh thủ sự ủng hộ cho một lập trường chung thì khả năng thành công sẽ
cao hơn rất nhiều.
Một lập trường chung của các nước Đông Nam Á trong tranh chấp, cộng với
sự ủng hộ của thế giới cho lập trường đó, sẽ cản trở hành vi bành trướng
của Trung Quốc ở Biển Đông. Vì vậy, việc tìm hiểu về tính lợi hại và
tính khả thi của các quan điểm khác nhau là điều tối cần thiết.
[1]
Tác giả cảm ơn TS Vũ Quang Việt
đã góp ý cho bài này và cảm ơn Lê Minh Phiếu về việc dùng một đoạn
từ bài “Việt Nam trước chủ trương của Trung Quốc
đối với Biển Đông” (Lê Minh Phiếu và Dương Danh Huy, VNN,
11/01/2009, trên mạng:
http://www.tuanvietnam.net/2009-01-11-viet-nam-truoc-chu-truong-cua-trung-quoc-doi-voi-bien-dong)
Quỹ Nghiên cứu Biển
Đông