Khó khăn nhiều mặt
Qua tìm hiểu từ các quan chức hữu
trách và nhiều vùng trong cả nước, tình trạng đói
nghèo của các cộng đồng dân tộc thiểu số tại Việt
Nam là một thực tế.
Hoàn cảnh sống một cộng đồng dân
cư ngoài các ảnh hưởng từ tự nhiên thì luôn chịu tác
động lớn từ chính sách của nhà nước. Theo Bộ trưởng,
Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Giàng Seo Phử, chính sách
của nhà nước Việt Nam đối với cộng đồng các dân tộc
thiểu số là như sau:
"Chính sách của chúng tôi thì vẫn
là tốt đẹp cả thôi. Vâng, chúng tôi không có gì thay
đổi cả, các ngài biết cả rồi. Chính sách của chúng
tôi là bình đẳng, tôn trọng, đoàn kết, tương trợ và
giúp nhau cùng phát triển. Thế thôi."
Vậy chính sách này được phản ánh
trong cuộc sống như thế nào. Để có thể hình dung kết
quả của chính sách đã thể hiện qua đời sống thực tế,
chúng tôi tìm hiểu từ một người dân bản địa, đó là
ông Kra Jan Ho, đã trả lời cùng Đài Á Châu Tự do như
sau:
"Tôi đang ở Việt Nam đây, dân tộc
K’Ho thuộc tỉnh Lâm Đồng. Tôn giáo là nó cũng làm
khó khăn, bên mình là theo Công giáo. Nhưng mà vừa
rồi, xây nhà thờ nó cũng lập biên bản. Nó bảo là
không thông qua nhà nước, có thông qua rồi mà họ vẫn
nói như thế. Tại vì họ đo kích thước, làm xây thừa
một cái nhà gọi là nhà để sinh hoạt cho các cháu học
giáo lý. Vừa rồi nó lập biên bản, nó ghép tội đủ thứ
luôn, cho nên rất là khó khăn."
Câu chuyện về cuộc sống của người
dân tộc K’Ho này không chỉ có như vậy, mà còn được
bộc lộ qua những khía cạnh khác:
"Con cái tôi đi học mà họ không
cho làm việc nhà nước gì hết. Họ ghép vào gia đình
mình là gia đình không phải thuộc cái diện của chế
độ này. Mình vẫn cho con đi học nhưng mà học đến lớp
9, lớp 10 là họ không cho duyệt vào tham gia công
tác.
Cái đất đai vừa rồi là cũng bị ảnh
hưởng, tại vì hiện tại bây giờ một số diện tích đất
của nhà vẫn thu hồi để làm dự án thủy điện. Rồi họ
thu hồi để họ đưa cho công ty họ trồng rừng, nhưng
mà thực ra họ thu hồi đó để mục đích là không cho
mình phát triển làm ăn."
Ngoài người Kinh, không thể phủ
nhận Việt Nam cũng là quê hương của nhiều cộng đồng
dân tộc thiểu số và bản địa khác, do đó họ cần phải
được đối xử bình đẳng như với mọi công dân khác
trong xã hội, mà điều kiện để sinh sống là một phần
trong các chính sách dân sinh nhà nước cần quan tâm.
Chúng tôi phỏng vấn thêm một người dân ở vùng đồng
bằng sông Cửu Long, thì được biết:
"Dân tộc Khmer tập trung khoảng 3
tỉnh, Sóc Trăng là địa bàn cơ sở tôi đóng đó; thứ 2
là Trà Vinh, thứ 3 là Kiên Giang, cái đó là khu vực
đồng bằng sông Cửu Long. Tất nhiên, một số tỉnh khác
cũng có nhưng mà rải rác và mật độ dân cư không
nhiều lắm.
Con cái tôi đi học mà họ không
cho làm việc nhà nước gì hết. Họ ghép vào gia
đình mình là gia đình không phải thuộc cái diện
của chế độ này.
Ô. Kra Jan Ho, dân tộc K’Ho
Đặc điểm của người Khmer thì sống
bằng nghề nông nghiệp, chắc chắn rồi. Nhưng do cái
đặc thù điều kiện của người Kmer, nói chung tổng thể
là hơi kém hơn là người Hoa hay là người Việt."
Liệu tình trạng cuộc sống của
người Khmer vùng Nam bộ và K’Ho trên cao nguyên có
phải là những trường hợp cá biệt ở Việt Nam hay
không, nếu so sánh với nhận xét của một người đang
làm việc tại miền Bắc Việt Nam thì thính giả Đài Á
Châu Tự do có thể nghe được như sau:
"Em đang thực hiện cái dự án ở
trên tỉnh Điện Biên, hỗ trợ người H’Mông ở trên này.
Đối với người H’Mông ở trên này thì họ chủ yếu vẫn
là sản xuất tự cung tự cấp thôi. Kinh tế họ cũng khó
khăn lắm, về đặc biệt vào những cái mùa giáp hạt tức
là những cái mùa đói của họ đấy, thì thông thường
rơi vào tầm những tháng 12 đến tháng 4. Tức là tháng
12 của năm nay kéo đến tháng 4 của sang năm, trên
này đằng mùa gọi là mùa khô thì không trồng được cái
gì cả, họ rất là đói.
Thành thử nhìn những cái bữa ăn
các thứ của họ, rất là tội nghiệp. Chẳng hạn chủ yếu
là ăn những cái món như mèn mén, tức là món ngô xay
lên đồ lên rồi luộc."
Có lẽ cộng đồng các dân tộc thiểu
số là những người ít được hưởng lợi nhất từ tăng
trưởng kinh tế của đất nước. Để kiểm chứng thêm một
lần nữa về sự chú ý của dư luận quốc tế với hiện
trạng đối xử bất bình đẳng trong vấn đề chủng tộc
tại Việt Nam, Nhân Khánh đã tìm đến ông Hoàng Xuân
Lương, Thứ trưởng Phó Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc, với
câu hỏi về hoàn cảnh thực tế và chính sách chung của
Việt Nam đối với các dân tộc thiểu số thì nhận được
câu trả lời:
"Đời sống đồng bào dân tộc thiểu
số của mình thì còn khó khăn lắm. Là vì họ ở trong
nhưng vùng địa hình quá bị chia cắt, thường xuyên bị
thiên tai, lũ ống, lũ quét. Đời sống từ gốc từ xưa
đến giờ là đã khó khăn rồi, bây giờ vẫn còn thiếu
ăn. Một năm vẫn còn thiếu ăn đến 2, 3 tháng. Rồi nhà
cửa vẫn còn chưa đủ, nhà ở vẫn dột nát. Thiếu đất
sản xuất, rồi có những vùng không có nước sinh hoạt.
Chính sách thì đảng nhà nước ta
vẫn có chính sách hỗ trợ cho đồng bào, kể cả về
lương thực, rồi chính sách đi học đi hành, rồi làm
hạ tầng cơ sở. Nói chung là chính sách thì có, nhưng
vì bà con sống quá phân tán. Từng bản làng một, quá
phân tán trên những rẻo núi cao xa như thế. Cho nên
quả thật cũng… Xin lỗi bác là mặc dầu mình quan tâm
nhưng cũng chưa thể nào quan tâm hết được. Cho nên
vì thế bây giờ cái tỷ lệ nghèo của vùng đồng bào dân
tộc thiểu số vẫn trên 50%."
Vai trò của nhà nước

Đồng bào dân tộc Cơ Tu ở xã
Thượng Nhật (huyện miền núi Nam Đông, Thừa
Thiên- Huế) thu hoạch chuối. Photo courtesy
of ipsard.gov.vn
Đứng từ góc độ quản lý nhà nước, bên
cạnh các lý do khách quan, cần phải thẳng thắn nhìn
nhận những nguyên nhân chủ quan, trong đó có cả hiệu
năng quản lý của chính phủ. Sự chênh lệch quá lớn về
kinh tế, văn hóa và giáo dục giữa các dân tộc tại
Việt Nam cần được nhìn nhận một cách trung thực hơn.
Chẳng hạn vấn nạn: sự chênh lệch giữa tỷ lệ nghèo
của vùng đồng bào dân tộc thiểu số với tỷ lệ nghèo
bình quân của Việt Nam cần có cách giải thích thỏa
đáng hơn. Riêng về vấn đề giáo dục song ngữ, ông
Hoàng Xuân Lương cũng cho biết:
"Hiện nay chủ trương của ta là cho
các trường tiểu học học song ngữ, các trường tiểu
học hiện nay là có 8 thứ tiếng. Ta có 53 dân tộc
thiểu số, nhưng hiện nay chỉ có 8 dân tộc là đưa vào
học song ngữ."
Việc tăng cường giáo dục song ngữ
là một hình thức tạo thêm cơ hội hội nhập cho các
cộng đồng dân tộc thiểu số về mặt hành chính; số
phận hơn 40 dân tộc còn lại khó mà có được một tương
lai sáng sủa, một khi con cháu họ bị vấp ngay trong
những bước chân đầu tiên vào đời bởi hàng rào ngôn
ngữ trong giáo dục.
Hậu quả của kỳ thị chủng tộc ngoài
việc gây ra bao đau khổ cho cộng đồng, còn có khả
năng làm tiêu vong cả một sắc tộc. Do đó báo cáo của
Tổ chức các Quốc gia và Dân tộc không có đại diện
(UNPO) sẽ nộp cho Ủy ban Liên Hiệp Quốc về xóa bỏ
mọi hình thức phân biệt chủng tộc tại kỳ họp thứ 80
diễn ra tại Thụy Sĩ trong tháng 2 này, chẳng phải là
không có căn cứ. Chẳng hạn tại trang 8 và 9 trong
bản báo cáo liên quan đến Việt Nam có đề cập quan
ngại về vấn đề người xin tỵ nạn, thính giả Đài Á
Châu Tự do có thể nghe một nhân chứng phát biểu
rằng:
"Tôi là Liang Hot Eduar, dân tộc
Lạch, mục sư truyền đạo thuộc giáo phái truyền
thống. Trong thực tế nếu một người nào mà Cao ủy
không chấp nhận tỵ nạn, trả về Việt Nam, cộng sản sẽ
trả thù bằng mọi hình thức thủ đoạn. Như là bắt tù
rồi chẳng hạn như chích thuốc, họ làm cho điên
khùng. Có khi họ cũng tiêu diệt ngay luôn."
Hiện nay chủ trương của ta là
cho các trường tiểu học học song ngữ, các trường
tiểu học hiện nay là có 8 thứ tiếng. Ta có 53
dân tộc thiểu số, nhưng hiện nay chỉ có 8 dân
tộc là đưa vào học song ngữ.
Ô. Hoàng Xuân Lương
Liệu có sự tôn trọng một xã hội đa
văn hóa theo nghĩa công nhận sự tồn tại nhiều dân
tộc, nhiều nhóm người, nhiều tôn giáo trong một thể
chế có luồng tư tưởng chính trị luôn đề cao vai trò
thống soái của mình không. Vấn nạn này cũng được Mục
sư Tin Lành Liang Hot Eduar cho biết qua những gì
bản thân từng trải nghiệm:
"Trong thời gian tôi ở Việt Nam,
tôi đi truyền đạo luôn bị chúng đàn áp bắt bớ tôi
nhiều lần. Cho tôi giấy triệu tập, bọn chúng mời tôi
lên xã huyện đánh đập tôi nhiều lần. Họ cố tình làm
những cái chuyện đánh đập không phải riêng một mình
tôi mà rất nhiều anh em. Một số anh em cũng chạy vào
trốn ở trong rừng. Giữa cái chết và cái sống, tôi
đành tìm đường chạy sang Thái Lan để lánh nạn."
Trong thực tế, sự kỳ thị thường
không dễ mô tả. Do đó, không thể xác định được mức
độ kỳ thị chủng tộc nếu thiếu những công cụ đo lường
thích hợp. Ở bối cảnh hiện tại, Việt Nam đang thiếu
những công trình nghiên cứu sâu trong lãnh vực đời
sống người dân tộc bản địa và thiểu số. Quyền bình
đẳng giữa các dân tộc trong một quốc gia cần được
nhìn nhận nghiêm túc, đồng thời một chính sách rõ
ràng về đa văn hóa cũng là một yêu cầu cấp bách hiện
nay.