Đài RFI (Radio France Internationale) ngày 5/12/05
RFI : Hơn bốn năm sau khi được Quốc hội thông qua chủ trương, ngày 2
tháng 12 vừa qua, Việt Nam đã chính thức khởi công xây dựng đập thủy
điện Sơn La. Đây là một dự án có quy mô rất lớn với tổng vốn đầu tư trên
2 tỷ USD. Chủ đầu tư là Tổng Công ty Điện lực Việt Nam, và có tới hơn
một chục Công ty Việt Nam tham gia xây dựng công trình. Đập chính dài
hơn một cây số với chiều cao tối đa 138,1 m. Hồ chứa nước rộng tới hơn
200 km2 nằm trên địa bàn các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Điện Biên.
Sau đây là nhận định của gs. Nguyễn Khắc Nhẫn, Đại học Bách Khoa
Grenoble, nguyên cố vấn chiến lược Công ty Điện Lực Pháp EDF về dự án có
công suất lớn nhất khu vực Đông Nam Á này. Gs. Nhẫn là người đã theo dõi
sát tình hình điện lực Việt Nam và ông đã có nhiều đóng góp ý kiến trong
lĩnh vực năng lượng.
RFI : Xin chào gs. Nguyễn Khắc Nhẫn. Ngày 2 tháng 12 vừa qua Việt Nam đã
khởi công xây dựng đập thủy điện Sơn La trên sông Đà. Giới chuyên gia
coi đây là một dự án của thế kỷ. Vậy xin giáo sư cho biết quy mô của đập
thủy điện Sơn La ? Và khi đi vào hoạt động, thì dự án này đáp ứng bao
nhiêu % nhu cầu điện của Việt Nam.
NKN: Kính chào Anh, kính chào quý Vị thính giả.
Công trình trọng điểm thủy điện Sơn La, cách Hànội 300 km về phía Tây
Bắc, sẽ có công suất đặt lớn nhất Đông Nam Á (2 400 MW gồm 6 tổ máy) với
tổng vốn đầu tư là 2,5 tỷ USD. Điều cần biết là đập Sơn La thuộc loại
đập bê tông trọng lực (barrage poids). Mực nước dâng bình thường là 215
m.
Tổ máy đầu tiên, nhờ sự nổ lực của hàng ngàn công nhân, sẽ phát điện
trong 5 năm tới và tổ máy thứ sáu vào năm 2012. Cũng như phần lớn các
công trình thủy điện trước của quê hương, Sơn La có nhiều mục đính chính
: phát điện, giảm lũ mùa mưa, tăng nước đồng bằng sông Hồng mùa khô cạn.
Dòng sông Đà hung dữ đã được ngăn chặn ngay từ ngày khởi công với trên
200 000 m3 đất đá. Lúc công trình hoàn thành, nhà máy Sơn La với lượng
điện bình quân hàng năm 10 tỷ kWh, sẽ đáp ứng được khoảng 12% nhu cầu
điện lực toàn quốc (hiện nay gần 50 tỷ kWh).
RFI : Thưa giáo sư, việc xây dựng đập thủy điện Sơn La đã gây nhiều
tranh cải về thiết kế, địa điểm. Giới chuyên gia nhiều lần nhấn mạnh đến
yếu tố an toàn vì Sơn La nằm trong vùng có thể có động đất. Xin giáo sư
cho biết ý kiến và giải thích rõ hơn vấn đề này.
NKN : Anh nhận xét rất đúng. Dự án Sơn La đã gây nhiều tranh cãi giữa
các chuyên gia trong nhiều năm qua. Đề án cao 3600 MW không được Quốc
hội chấp thuận vì nhiều lý do : kỹ thuật, kinh tế, chính trị, môi
trường, trong đó yếu tố an toàn là chính, vì sự sống còn của hàng triệu
dân ở hạ lưu.
Cá nhân tôi cũng không tán thành đề án cao 3600 MW vì công trình quá đồ
sộ. Chúng ta nên hết sức thận trọng và khiêm tốn. Không ai có thể tiên
đoán những rủi ro tai biến xảy ra bất thình lình, vì sức mạnh vô lường
của tạo hóa.
Như tôi đã có dịp trình bày và đã lưu ý bên nhà, điều tôi lo ngại là Sơn
La nằm trong vùng có thể bị động đất. Những vệ tinh đã phát hiện vết nứt
(faille) sông Hồng dài 1000 km từ Tây Tạng đến khu miền Bắc và về phía
nam, dọc theo bờ biển nước ta. Vết nứt tuốt (coulissant) theo đường
rãnh, trung bình 1 cm mỗi năm, có thể làm xê dịch từng cơn : sông, thung
lũng, bãi phù sa… mỗi khi có động đất đáng kể. Theo các chuyên gia bên
nhà, đập Sơn La được thiết kế với độ an toàn rất cao, có thể chịu động
đất cấp 8 và dòng lũ sông Đà lên tới 48 000 m3 /giây. Nhân dịp, cho phép
tôi lưu ý các bạn một hiện tượng động đất không thiên nhiên (séisme
induit) đã xảy ra tại vài chục đập lớn khi vừa đón nhận hồ nước đầu tiên
(1er remplissage) :
-Năm 1966, tại đập Kremasta (Hy Lạp) với dung tích hồ chứa 4,8 tỷ m3.
-Năm 1967, tại đập Koyna (Ấn Độ) với dung tích hồ chứa 2,7 tỷ m3.
Các chuyên gia chưa giải thích rõ ràng lý do khoa học vì nhiều đập tuy
có hồ lớn mà vẫn không gặp hiện tượng này.
RFI : Theo giáo sư, việc xây đắp, chặn sông như vậy sẽ ảnh hưởng ra sao
đến môi trường trong khu vực thượng nguồn và hạ nguồn ?
NKN : Chận ngang một dòng sông đang chảy, có thể xem như khiêu khích tạo
hóa. Diện tích lưu vực Sơn La khoảng 44 000 km2, diện tích vùng hồ là
225 km2. Dung tích toàn bộ hồ chứa là 9,26 tỷ m3 (hơn 7 lần dung tích hồ
chứa Serre-Ponçon của EDF).
Qua những con số trên, chúng ta có thể hình dung ngay ảnh hưởng quan
trọng của công trình Sơn La đối với môi trường. Tôi xin phép nhắc lại
đây, không theo thứ tự quan trọng, một số vấn đề : vi khí hậu
(microclimat), hệ động vật (faune), hệ thực vật (flore), đất bị trượt
(glissement de terrain), vận tải chất rắn (transport solide), chất lượng
nước giảm, nước đọng, bệnh sốt rét, bệnh Bilharziose (tên bác sĩ người
Đức Bilharz, đã khám phá vi trùng độc hại này năm 1851) …
Làm sao không khỏi buồn khi chúng ta nghĩ đến 90 chục ngàn đồng bào ba
tỉnh Sơn La, Lai Châu, Điện Biên đành phải hy sinh nhà cửa, bàn thờ tổ
tiên di dời nơi khác. Lẽ cố nhiên nhà nước có bồi thường, giúp đỡ, nhưng
đó là một thảm cảnh của những công trình thủy điện to lớn như Sơn La.
RFI : Giáo sư có suy nghĩ gì về hướng phát triển thủy điện ở Việt Nam ?
NKN : Vâng tôi có suy nghĩ rất nhiều về vấn đề này. Chúng ta may mắn có
tiềm năng thủy điện khá phong phú, tương đương với Pháp (EDF đã khai
thác 70 tỷ kWh thủy điện trong vòng một thế kỷ). Theo tôi, sau khi khai
thác Sơn La, Việt Nam còn khoảng 40 tỷ kWh thủy điện kinh tế. Đây đến
2020, Công ty Điện Lực Việt Nam dự trù sẽ xây cất thêm gần 40 nhà máy
thủy điện với tổng công suất lên đến 12 000 MW. Với mức tăng trưởng kinh
tế 8 % và mức tăng trưởng điện lực (14-16%) mỗi năm, hệ số đàn hồi của
ta vẫn còn quá cao ; có nghĩa còn rất nhiều lãng phí. Hiện tượng lũy
thừa này không thể tiếp diễn và mức tăng trưởng sẽ thấp dần.
Tôi rất mừng được biết Chính phủ vừa có chỉ thị cho các cơ sở, xí nghiệp
và dân chúng triệt để tiết kiệm năng lượng và đồng thời khuyến khích
việc xử dụng năng lượng tái tạo.
Hiện nay, các nhà máy điện của ta, như Anh biết, chạy bằng than, khí, và
thủy điện đóng vai trò quan trọng nhất. Theo tôi, tiềm năng thiên nhiên
của nước ta còn có thể đáp ứng nhu cầu trong vài chục năm nữa. Chưa cần
làm nhà máy điện hạt nhân nguy hiểm và không kinh tế.
Bài trả lời những câu hỏi của thính giả (14/12/05)
Tác giả xin mạn phép trả lời một số câu hỏi của các bạn thính giả. Vì
những thắc mắc của các sinh viên có tính cách kỹ thuật (chủ yếu tập
trung vào vấn đề an toàn, đập vỡ, mà Quốc hội dã thảo luận sôi nổi ),
tác giả phải thu gọn vào một số mục để tiện việc trình bày :
1. Thời gian xây dựng công trình.
2. Các loại đập.
3. Lý do đập vỡ.
4. Danh sách các đập bị tai nạn
5. Bản so sánh với các đập lớn trên thế giới.
6. Bản so sánh với các đập trong nước
1. Thời gian xây dựng
Công trình Sơn La được rút ngắn từ 10 còn 7 năm. Tổ máy thứ 6, nếu không
có gì cản trở, sẽ phát điện năm 2012 thay vì 2015 như đã dự tính. Việc
giảm gần 1/3 thời gian không phải là chuyện dễ. Đội ngũ kỹ sư, kỹ thuật
viên và công nhân ưu tú của ta sẽ phải hy sinh lắm mới thực hiện được.
Cho nước vào hồ lần đầu tiên (1er remplissage) có trường hợp phải mất
hàng tháng hay hàng năm ( đập Kariba ở Rhodesie ), do trạng thái chưa ổn
định ! Vì phải kiểm tra hết sức chặt chẽ và giám sát tất cả các phản ứng
của đập. Rút ngắn thời gian quá lớn có thể ảnh hưởng đến chất lượng của
công trình.
2. Các loại đập
Đứng về phương diện kỹ thuật, tất cả những loại đập trên thế giới có thể
xếp gọn vào hai họ (famille) đập chính, tùy vào bản chất của phản ứng
đối với lực đẩy của nước (poussée de l’eau).
1. Đập trọng lực (barrage poids ou gravité) : phản lực của trọng lượng.
2. Đập vòm (barrage voûte) - dày (voûte épaisse), mỏng (voûte mince) hay
phức tạp (voûte multiple) : phản lực ở hai bên bờ.
Như thế có nghĩa là đập trọng lực (Sơn La) cần một nền móng (fondation)
hết sức vững và đập vòm cần đá núi hai bên bờ thật chắc.
Tùy địa chất, chiều dài đập trọng lực có thể lớn, nhưng chiều dài (dây
cung) của đập vòm phải ngắn (effet d’arc : hiệu ứng dây cung).
Đập trọng lực có thể làm bằng đất và/ hay đá (hầu hết tất cả các đập của
ta đang vận hành) hoặc bê tông (Sơn La)
3. Lý do đập vỡ
Ngoài việc sợ động đất, có hai lý do quan trọng khác có thể gây ra tai
biến là :
1. Lần đầu tiên cho nước vào đập (1er remplissage).
2. Lũ hết sức đặc biệt (crue exceptionnelle) : Với loại đập đất và / hay
đá, sợ nhất là nước lũ tràn ngập đỉnh phá vỡ đập rất nhanh chóng. Ví dụ
hệ thống xả lũ (évacuateurs de crues) Hòa Bình có khả năng xả lưu lượng
38 000 m3/s (lũ 10 000 năm – crue décamillénaire), theo bài tính xác
suất (calcul de probabilité). Tuy là lũ đặc biệt rất lớn, lâu lắm mới
xảy ra một lần, nhưng nó cũng có thể xảy ra bất chợt nay mai, tùy theo
sự biến chuyển của thời tiết. Ở đây ta thấy tầm quan trọng của hệ thống
những trạm đo lưu lượng nước (station de jaugeage des débits) rải rác
trên khắp những con sông. Xây dựng một đập cần nghiên cứu kỹ thủy văn
của con sông trong hàng chục năm về trước. Càng lâu, độ tin cậy thống kê
càng lớn.
Vùng núi Alpes Dauphiné, miền nam nước Pháp, có rất nhiều nhà máy thủy
điện. Riêng thành phố Grenoble chịu ảnh hưởng trực tiếp của 7 đập có
tổng dung tích là 647 triệu m3 nước, trong đó có đập vòm dày Monteynard
(275 triệu m3 nước) cách trung tâm 65 km. Nếu rủi ro, đập này bị phá vỡ,
làn sóng nước sẽ tràn xuống Grenoble sau 58 phút và mực nước sông Isère
có thể cao thêm 7 m.
Đập Monteynard này lúc đón nhận hồ nước đầu tiên cũng bị động đất không
thiên nhiên, tuy nhẹ hơn trường hợp hai đập Kremasta (cấp 6,2 - tiêu
điểm 20 km dưới hồ) , Koyna (cấp 6,0 - tiêu điểm 9 km dưới hồ) và đập
Kariba ( cấp 6 – với chiều cao, hồ chứa tương đương với Assouan)
4. Danh sách vài đập bị tai nạn trên thế giới
Nước
Tên đập
Loại đập
Nguyên nhân tai nạn
Số người thiêt mạng
Năm
Algérie
Mỹ
Ý
Mỹ
Pháp
Brésil
Ý
Chili
Ấn Độ
Habra
South Fork
Gleno
San Fransisco
Malpasset (Fréjus)
Oros (Ceara)
Vaiont
El Cobre
Koyna
Vòm
Đất
Vòm phức tạp
Trọng lực (bê tông)
Vòm mỏng (bộ nông nghiệp)
Đất
Vòm
Đá
Trọng lực (bê tông)
Lũ lớn
Lũ lớn tràn ngập đỉnh
Áp lực ở dưới (sous-pression)
Áp lực ở dưới (sous-pression)
Đá móng tả ngạn bị nứt
Lũ lớn trước khi công trình hoàn thành
Sụt lở đá làm nước tràn ngập
Động đất
Động đất (séisme induit)
400
2200
500
450
420
1000
3000
200
180
1881
1889
1923
1929
1959
1960
1963
1965
1967
Có trường hợp số nạn nhân lên đến hàng nghìn nhưng vì vấn đề uy tín,
nhiều nước không cho biết con số chính xác. Năm 1971, một cuộc động đất
thiên nhiên đã gây thiệt hại lớn ở đập San Fernando cạnh Los Angelès
(Mỹ), làm 80 ngàn dân phải tạm tản cư trong 3,4 ngày để xả nước hồ xuống
mức an toàn.
Bảo đảm an toàn đập không phải chỉ lúc nghiên cứu sơ khởi, tính toán,
thiết kế, xây cất chu đáo là đủ mà còn phải kiểm tra, tu bổ nghiêm khắc
trong suốt thời gian khai thác. Trong lòng và xung quanh mỗi đập lớn,
người ta thường đặt nhiều thiết bị hiện đại để đo lường, theo dõi từng
hơi thở của đập !
Việt Nam vừa mới gia nhập Ủy Ban quốc tế các đập lớn ( chiều cao trên15
m ) Những kinh nghiệm trao đổi nơi đây vô cùng qúy báu .
5. Bản so sánh Sơn La với các đập lớn trên thế giới
(Những con số gạch dưới gần giống các con số của Sơn La)
Tên đập
Chiều cao
(m)
Tên sông
Loại đập
Hồ chứa
(tỷ m3)
Công suất
(MW)
Năm khánh thành
Bratsk
Assouan
Tarbela
Nurek
Sơn La
125
125
143
317
138
Angara (Liên Xô)
Nil (Ai Cập)
Indus (Pakistan)
Vakhsh (Liên Xô)
Sông Đà(Việt Nam)
Trọng lực bê tông và đá
Trọng lực đất và đá
Trọng lực đất và đá
Trọng lực đất
Trọng lực bê tông
169
164
13,7
10,4
9,26
4600
2100
2100
2700
2400
1964
1970
1976
1977
2010-2012
Theo bản so sánh trên, ta thấy rằng không phải đập cao tất nhiên có hồ
lớn hay công suất lớn mà tùy cơ cấu thiết kế, tùy địa điểm, tùy mục đích
của công trình. Đập Assouan (có vấn đề môi trường quan trọng) không cao
lắm mà có hồ chứa gần 18 lần hồ Sơn La !
Nhà máy Itaïpu đang vận hành (sông Parana - Brésil và Paraguay) có công
suất hết sức lớn : 12 600 MW (tương đương công suất 12 lò điện hạt
nhân). Nhưng nhà máy thủy điện lớn nhất thế giới, đang được xây cất, là
nhà máy TGP (Three Gorges Project) ở Trung quốc trên sông Yangtze (tuy
không có sự hưởng ứng của 1/3 đại biểu Quốc hội). Sau đây là vài số liệu
đáng lưu ý : công suất 17 680 MW ; chi phí 24 tỷ USD ; 1,5 triệu người
bị di dời ; chiều cao đập 185 m, chiều dài đập 2,3 km ; thời gian xây
dựng 16 năm (1993-2009).
6. Bản so sánh Sơn La với các đập trong nước
Tên đập
Công suất (MW)
Sản lượng điện bình quân hàng năm (tỷ kWh)
Số giờ vận
hành bình quân
Công suất Sơn La lớn hơn (lần)
Sản lượng điện Sơn La
lớn hơn (lần)
Đa Nhim
Trị An
Yaly
Hòa Bình
4 x 40
4 x 100
4 x 180
8 x 240
0,8
1,4
3,3
7,0
5000
3500
4585
3645
15,00 6,00
3,33
1,25
12,5 7,0
3,0
1,4
Điều cần biết là đối với các nhà máy thủy điện phải lý luận với sản
lượng điện bình quân hàng năm (tỷ kWh) thay vì công suất đặt MW. Thiết
kế những tổ máy lớn mà hay thiếu nước cho tua bin chạy cũng vô ích và
phí của. Số giờ vận hành tùy thời tiết là chủ yếu. Mỗi năm Sơn La có thể
vận hành trung bình 4165 giờ (hơn Hòa Bình).
Tổng Công ty Điện lực Việt Nam, tuy có nhiều kinh nghiệm quý báu, sẽ gặp
trở ngại về kinh phí và thời gian để hoàn thành 40 nhà máy thủy điện
trong vòng 15 năm tới, như đã dự trù (chưa kể thủy điện nhỏ cần được
khuyến khích) . Nếu đem làm bài toán kinh tế (calcul économique) tỉ mỉ,
sự sắp hạng ưu tiên của mỗi công trình có thể bị xáo trộn.
Thay lời kết luận : Sau 2012, khi hàng ngàn khách du lịch đến viếng
thắng cảnh hồ nước ; khi hàng triệu đồng bào ta bật đèn, tiêu thụ dòng
điện Sơn La, Hòa Bình, Trị An, Đa Nhim, Yaly, Phú Mỹ (khí), Phả Lại
(than)… hòa nhịp với nhau trên lưới, mấy ai nghĩ đến những kWh làm bằng
nước Sông Đà hòa với mồ hôi, nước mắt, với bao hy sinh (kể cả tính mạng)
của những kỹ sư, kỹ thuật viên, công nhân, phải dầm mưa dãi nắng, chịu
gian khổ, trong hàng chục năm trời để hoàn thành những công trình then
chốt này cho đất nước.
Vì không thể đi sâu vào chi tiết, xin mời các bạn sinh viên tham khảo
các tài liệu sau đây :
- L’énergie hydraulique – Ginocchio, Nguyen Khac Nhan. Etudes et
Recherches, EDF. Eyrolles, Paris 1978.
-Thủy điện - Nguyen Khac Nhan, Đại học Bách khoa - Viện kinh tế chính
trị năng lượng Grenoble -1992.
- L’hydroélectricité au Vietnam – Nguyen Khac Nhan, Nguyen Tran The,
Michel Ho Ta Khanh. Revue de l’Energie, N° spécial 546, Paris 2003
(www.tailieu.thoidai.org).
-Nguyen Khac Nhan trả lời một số câu hỏi về điện hạt nhân ở Việt Nam,
Đoàn Kết, số 491, Paris 10/2003 (www.tailieu.thoidai.org).
Vừa qua tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội Khóa XII có đại biểu Quốc hội nói rằng
Tàu cao tốc ở Đài Loan (THSR-Taiwan High Speed Rail) tuy tự xây dựng theo
phương pháp đấu thầu nhiều hạng mục với các nước khác nhau nhưng đã thành
công và đến nay đã có lãi. Tuần vừa qua nhân có dịp qua Đài Loan để khảo
sát khoa học tôi có dịp kiểm chứng thông tin này. Đồng chí Nguyễn Bá Cự,
Chủ nhiệm Văn phòng Văn hóa Kinh tế Việt Nam tại Đài Bắc khẳng định thông
tin này là không đúng và thực tế là vẫn đang lỗ to. Tìm hiểu qua các nhà
khoa học Đài Loan mà tôi có dịp tiếp xúc mới biết năm 2009 HSR ở Đài Loan
thu được 23,32 tỷ Đài tệ (khoảng 35 Đài tệ bằng 1 USD), tăng 1,2% so với
năm 2008 . Mặc dầu giá vé không chênh lệch mấy so với giá máy bay nhưng do
việc ra ga thuận lợi, lại có các phương tiện giao thông khác nối với các
ga và với tốc độ rất nhanh (250-316 km/h) và mức sống của nhân dân khá cao
(GDP tới 29 800 USD/người), cho nên năm 2009 vẫn có tới 32,349 triệu lượt
hành khách sử dụng HSR, tăng 5,8% so với năm 2008.
Đây là chuyến đường sắt cao tốc nối Đài Bắc với Cao Hùng, dài 335,5km, chỉ
có tất cả 13 ga (nhưng thực tế đỗ ít ga hơn) chạy dọc suốt lãnh thổ Đài
Loan và có chất lượng rất cao. Đường sắt có chiều rộng là 1435mm, ngày
2-3-2007 mới chính thức đưa vào hoạt động. THSR được xây dựng bằng cả vốn
Nhà nước lẫn vốn Doanh nghiệp và chỉ hết có cả thẩy 14,5 tỷ USD. Do đấu
thầu quốc tế nên công trình này có nhiều hạng mục của nhiều quốc gia khác
nhau và còn có nhiều hạng mục do Đài Loan tự thiết kế. Tập đoàn THSR
(THSRC) đã thực hiện việc hợp tác với công nghệ xây dựng tàu Shinkansen
của Nhật Bản, phối hợp với công nghệ của GEC-Alsthom (sản phẩm là tàu TGV
của Pháp ) và Công ty Siemens (sản phẩm là tàu ICE của Đức).
Tháng 5-1998 Nhà nước giao nhiệm vụ cho tập đoàn THSRC. Việc lập dự án bắt
đầu từ năm 1980 nhưng mãi đến năm 2000 mới bắt đầu khởi công. Và đến tháng
10-2006 đã hoàn thành. Như vậy là chỉ sau 6 năm đã xây dựng xong với công
sức của trên 2000 chuyên gia kỹ thuật đến từ 20 quốc gia khác nhau và trên
20 000 công nhân trong và ngoài lãnh thổ. Toàn hệ thống có 73% là xây dựng
trên cao và qua các cầu, cùng với 48 hầm xuyên núi (chiếm 18% chiều dài
toàn tuyến).
Để “mục sở thị” hai thầy trò chúng tôi đã đi thử một chuyến suốt từ Đài
Bắc đến tận Cao Hùng (giá vé mỗi chiều là 2440 Đài tệ, 33 Đài tệ là khoảng
1 USD ~ 74 USD) và thật ngạc nhiên khi thấy trên toa mà chúng tôi ngồi chỉ có đúng
hai chúng tôi (!).
Thú thật tôi thấy rất lo lắng trước dự án vay 56 tỷ USD
(thực tế chắc sẽ cao hơn nhiều) để xây dựng đường sắt cao tốc Bắc Nam ở
nước ta với thời gian thi công quá dài và không biết bao giờ con cháu
chúng ta mới thu hồi được vốn vay. Tôi có ấn tượng sâu sắc về ý kiến cho
rằng nước ta còn rất nghèo, phải tính toán tiết kiệm từng đồng ngoại tệ và
phải cố gắng làm điều gì mà mình có thể tự làm chủ được công nghệ.
Thật là thú vị trước tính toán nếu làm một đường đôi tầu nhanh với đường
sắt khổ rộng 1,435m thì ta có thể tự làm lấy với kinh phí ít hơn rất
nhiều, mà với vận tốc 150-200km/giờ thì lên tầu ngủ một giấc sáng hôm sau
đã đến thành phố Hồ Chí Minh rồi. Đâu cần gì phải đi nhanh 5-6 tiếng như ở
mươi nước có tiềm năng kinh tế giàu có. Con cháu ta sau này giầu có thì có
thể làm đường sắt cao tốc toàn tuyến chỉ trong vài ba năm chứ đâu cần hàng
vài chục năm như chúng ta đang định làm. Thời đại công nghệ đang phát
triển như hiện nay thì biết đâu vài chục năm nữa chẳng có công nghệ đường
sắt cao tốc khác hẳn tàu của Nhật Bản hiện nay. Tôi rất chú ý đến ý kiến
lo ngại về các tác động đối với môi trường, về diện tích rừng sẽ bị biến
mất, về hậu quả của việc đào cắt tạo ta-luy cho đường sắt dài 149,5km trên
đất dốc và của việc đào đắp 214,4 km trên nền đất thấp, việc xây dựng 72
đường hầm, dài tổng cộng tới 116,6 km...Mong sao đến kỳ họp thứ 8 vào cuối
năm nay Chính phủ chưa trình tiếp Dự án này ra Quốc hội (sắp hết nhiệm
kỳ). Chính phủ cần có đủ thời gian để cân nhắc kỹ lưỡng hơn sau khi nghe
mọi ý kiến phản biện của các chuyên gia trong và ngoài nước, cũng như ý
kiến của đông đảo nhân dân cả nước.
Ðập
thủy điện Sơn La nứt:
Ai chịu trách nhiệm khi 15 triệu người thiệt mạng?
Trong một báo cáo vừa được gửi đến thủ tướngNguyễn
Tấn Dũng, hội đồng nghiệm thu các công trình xây
dựng quốc gia chính thức thông báo “có nhiều vết
nứt tại
đập không tràn bờ của công trình
thủy điện Sơn La”.
Những vết nứt
này xuất hiện tại cả hai đập không tràn bên bờ trái lẫn bờ phải.
Thông tin kể trên làm dư luận rúng động và có vẻ những cảnh báo
cách nay vài năm về một “đại thảm họa”, có nguồn gốc từ Thủy điện
Sơn La, sẽ
đến sớm hơn dự kiến...
Năm 1999, Tập Ðoàn Ðiện Lực Việt Nam (EVN) bắt đầu tiến hành khảo
sát để lập dự án xây dựng công trình
thủy điện Sơn La.
Thủy điện Sơn La là một
phần trong hệ thống
thủy điện
bậc thang trên sông Ðà. Trước đó, chính quyền CSVN từng cho chặn
đoạn giữa của sông Ðà làm
thủy điện
Hòa Bình. Với dự án
thủy điện Sơn La,
sông Ðà sẽ bị
chặn thêm một lần nữa ở đoạn phía trên
thủy điện
Hòa Bình để lập nhà máy
thủy điện Sơn La.
Khi dự án được đệ trình, trên giấy tờ,
thủy điện Sơn La trở
thành nhà máy
thủy
điện lớn nhất Ðông Nam Á (hồ chứa nước có diện tích 224 km2,
dung tích 9.26 tỉ khối nước, công suất 2 400 MW, sản lượng
điện
9.429 tỉ kWh/năm, tổng vốn đầu tư
là
42,476 tỉ đồng - khoảng 2.5 tỉ USD). Ðể thực hiện công trình khổng
lồ đó, sẽ có 19,669 gia đình, với trên 100,000 dân, cư trú tại ba
tỉnh Sơn La, Lai
Châu, Ðiện Biên (đa số
là
người thiểu số)
bị buộc
phải chuyển đi nơi khác.
Dù được quảng bá rằng sẽ tăng thêm nguồn
điện,
giảm lũ trong mùa mưa, cấp thêm nước cho đồng bằng sông Hồng trong
mùa khô nhưng dự án xây dựng công trình
thủy điện Sơn La tạo
ra nhiều âu lo hơn
là sự
vui mừng.
Kể từ khi dự án xây dựng công trình
thủy điện Sơn La được
công bố, giới khoa học trong và ngoài nước đã cùng lên tiếng cảnh
báo liên tục về một đại thảm họa, tác động nghiêm trọng tới kinh tế,
văn hóa, xã hội cũng như tương lai Việt Nam để kêu gọi chính quyền
CSVN phủ quyết dự án...
Theo các chuyên gia,
Sơn La nằm
trong khu vực có thể
bị động
đất rất mạnh. Ngoài động đất trong tự nhiên, các hồ chứa nước lớn
còn là
nguyên nhân tạo ra những cơn địa chấn khi chúng bắt đầu tích nước
(trường hợp đập Kremasta ở Hy Lạp năm 1966, đập Koyna ở Ấn Ðộ năm
1967,...). Song hành với động đất, hồ chứa nước của
thủy điện Sơn La còn
bị đe
dọa bởi những trận lũ bất thường, khó dự đoán. Bên cạnh đó, hồ chứa
nước của thủy điện Sơn La còn
tạo ra vô số tác động bất lợi đến môi trường: thay đổi về vi khí
hậu, hệ động vật, hệ thực vật, đất
bị
trượt, vận tải chất rắn, suy giảm chất lượng nước, bệnh sốt rét,
bệnh Bilharziose (tên một bác sĩ người Ðức, đã khám phá loại vi
trùng độc hại này ở các hồ chứa nước). Chưa kể cuộc sống, sinh hoạt
của hàng trăm ngàn người sẽ
bị xáo
trộn hoàn toàn.
Trong bối cảnh, đa số các trung tâm đông dân
cư ở vùng châu thổ sông Hồng đều nằm dưới mực nước lũ, do rừng đã
mất, biến đổi khí hậu khiến mưa bão càng ngày càng nhiều và càng
lớn, Sơn La lại
là vùng
có động đất thường xuyên và mạnh nhất Việt Nam (giới chuyên môn xác
định có sáu nếp gấp địa chất chính, có thể phát sinh động đất, ảnh
hưởng đến công trình
thủy điện Sơn La: đứt
gãy sông Hồng, Lai Châu-Ðiện Biên,
Sơn La,
sông Mã-Pu Mây Tun, sông Ðà, Phong Thổ-Nậm Pìa, theo kết quả đo đạc
thì từ năm 1990 đến năm 2003, trên khu vực có bán kính 200km quanh
công trình
thủy
điện
Sơn La
đã xảy ra 1,089 vụ động đất, trong sáu nếp gấp vừa kể, nếp gấp Phong
Thổ-Nậm Pìa chỉ cách đập chính của
thủy điện điện Sơn La 5
cây số và trên thực tế, những địa chất ở nếp gấp này đã từng gây ra
những trận động đất mạnh đến 5 độ Richter), nên đập
thủy điện Sơn La rất
dễ vỡ, nếu đập
thủy
điện
Sơn La
vỡ, đập thủy điện
Hòa Bình cũng sẽ vỡ theo và như thế hồ chứa nước của
thủy điện Sơn La thực
sự là
một “đại thảm họa”, treo lơ lửng trên đầu châu thổ sông Hồng...
Khi dự án
thủy điện Sơn La được
công bố, Bộ Quốc Phòng CSVN từng đòi Bộ Kế Hoạch-Ðầu Tư phải “chừa”
lại tỉnh lộ 12 và thị xã Lai Châu, không để con đường và vị trí
chiến lược này chìm dưới nước. Tuy nhiên, khi dự án được phê duyệt,
cả hai đều nằm trong khu vực
bị nước
nhấn chìm. Không chỉ nhấn chìm những vị trí và đầu mối giao thông
chiến lược, vào lúc phê duyệt dự án
thủy điện Sơn La,
chính quyền CSVN còn “hiến” cho Trung Quốc một “quả bom nước” khổng
lồ, nằm cách biên giới Việt-Trung đúng 16 cây số. Khi cần, Trung
Quốc có thể kích nổ “quả bom nước” này và sức công phá của 10 tỉ
khối nước từ trên cao tràn xuống, chắc chắn không thua gì bom nguyên
tử.
Do 47% lưu vực sông Ðà nằm trong lãnh thổ
Trung Quốc, Bộ Ngoại Giao CSVN từng gửi công hàm, đề nghị Trung Quốc
trả lời về quy hoạch khai thác nguồn nước sông Ðà nhưng Trung Quốc
không trả lời...
Trong một cuộc họp Quốc Hội, CSVN diễn ra vào
năm 2005, để “bàn về dự án
thủy điện Sơn La”,
một đại biểu quốc hội CSVN đồng thời
là sĩ
quan quân đội CSVN, lo ngại: “Nếu đập
Sơn La vỡ,
một chiếc xe tăng 4 tấn ở
Sơn Tây
có thể bị
thổi... bay như một chiếc
lá”.
Còn các chuyên gia khác ước tính: “Nếu đập
Sơn La vỡ,
sau 30 phút, toàn bộ đồng bằng Bắc Bộ sẽ
bị chìm
sâu dưới mực nước từ 4m đến... 60m và sẽ có khoảng 15 triệu người
thiệt mạng...”
Bất chấp các phân tích thiệt-hơn, cũng như
những cảnh báo về “đại thảm họa”, Bộ Chính Trị Ðảng CSVN vẫn chỉ đạo
phải thực hiện
thủy
điện
Sơn La.
Thậm chí, tại một kỳ họp Quốc hội hồi cuối năm 2005, Phan Văn Khải,
thủ tướng CSVN lúc đó đã chỉ mặt những đại biểu Quốc Hội CSVN dám
nêu thắc mắc rồi nạt: “Không được bàn lùi!”
Ngày 2 tháng 12 năm 2005, công trình
thủy điện Sơn La
chính thức khởi công tại xã Ít Ong, huyện Mường
La,
tỉnh Sơn La.
Việc chặn dòng sông Ðà bắt đầu...
Ðại thảm họa
là điều
khó tránh
Chiều 12 tháng 5 năm 2008, một trận động đất 8 độ richter (theo
nghiên cứu địa chất của Hoa Kỳ, cường độ này tương đương 1.01 tỉ tấn
chất nổ TNT), xảy ra tại Tứ Xuyên, Trung Quốc đã gây thiệt hại nặng
nề cho 44 huyện, trên diện tích 65,000 km2. Trận động đất đã khiến
khoảng 80,000 người thiệt mạng, hơn 10 triệu người trở thành vô gia
cư...
Giới nghiên cứu khoa học ở Trung Quốc và trên
thế giới đã đưa ra nhiều chứng cứ chứng minh, hồ chứa nước Tử Bình
Phô (Zipingpu) ở Tứ Xuyên có thể
là
nguyên nhân chính dẫn đến đại thảm họa đó.
Ðập Tử Bình Phô (cao 156m, trọng lượng của hồ
chứa nước Tử Bình Phô lên đến 315 triệu tấn) nằm cách đường
nứt
gãy, gây ra địa chấn vỏn vẹn 550m.
Ông Phạm Hiểu (Fan Xiao), trưởng nhóm kỹ sư
của Cục Ðịa Chất và Khoáng Sản Tứ Xuyên, cho rằng, có thể trọng
lượng khổng lồ của hồ chứa nước Tử Bình Phô đã làm đường
nứt gãy
mong manh hơn, ảnh hưởng đến thời điểm xảy ra động đất và cường độ
của nó. Dù động đất không phải
là
chuyện hiếm ở Tứ Xuyên nhưng theo ông Phạm Hiểu: “Ðịa chấn có cường
độ mạnh đến thế chưa từng xuất hiện trong cả ngàn năm qua. Ðộng đất
sẽ xảy ra khi không có đập nhưng con đập có thể đã thay đổi thời
điểm và cường độ địa chấn khiến nó trở nên mạnh hơn rất nhiều”.
Tháng 1 năm 2009, báo chí Trung Quốc đăng tải
một nghiên cứu, kết luận đập Tử Bình Phô thật sự đã tạo ra các rung
động địa chấn trong khu vực.
Giới khoa học cho biết phần lớn các trận động
đất tại Trung Quốc
là kết
quả của việc kiến tạo địa tầng Ấn Ðộ di chuyển về phía Bắc va vào
địa tầng Âu - Á. Ðường
nứt gãy
gây động đất ở Tứ Xuyên
là
đường ranh giới chủ chốt giữa lòng chảo Tứ Xuyên và cao nguyên Tây
Tạng. Ông David Schwartz, một nhà địa chất làm việc tại Cơ quan
Nghiên cứu địa chất Mỹ (USGS) nhận xét: “Nếu được xây ở Mỹ, con đập
đó không thể gần một đường
nứt gãy
đang hoạt động đến thế”.
Ða số chuyên gia cùng tin rằng hồ chứa nước
Tử Bình Phô là
yếu tố khiến đại thảm họa diễn ra sớm hơn dự kiến. Ông Christian
Klose, một nhà địa chất làm việc tại Ðại Học Columbia (Hoa Kỳ) ước
tính: “Ðập Tử Bình Phô tạo ra áp lực cao gấp 25 lần so với áp lực
đường nứt
gãy tích tụ trong một năm, dù rất nhỏ so với áp lực tự nhiên tích tụ
trong hàng ngàn năm nhưng áp lực phụ do con đập tạo ra có thể
là đủ
để trận động đất xảy ra sớm hơn hàng chục năm so với 'thời biểu' tự
nhiên”. Ông David Schwartz ví von: “Nó giống như một tòa lâu đài
trên cát rung chuyển trong gió mạnh, bạn chạm rất nhẹ vào nó và nó
sụp đổ”.
Trong vài thập niên vừa qua, chính quyền
Trung Quốc liên tục cho xây dựng nhiều hồ chứa nước lớn để phục vụ
các nhà máy
thủy
điện, nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về
điện
năng, giảm lũ lụt. Giới khoa học trong và ngoài Trung Quốc đã nhiều
lần cảnh báo về việc xây dựng các con đập khổng lồ có thể tác hại
nghiêm trọng đến cấu trúc tự nhiên của các con sông, dẫn đến những
thảm họa sinh thái và cũng giống như chính quyền CSVN, giới cầm
quyền Trung Quốc đã phớt lờ tất cả những khuyến cáo này.
Sau trận động đất 8 độ richter xảy ra hôm 12
tháng 5 năm 2008, ngày 30 tháng 8 năm 2008, một trận động đất 6.1 độ
richter xảy ra tại thành phố Phán Chi Hoa, cũng thuộc tỉnh Tứ Xuyên,
Trung Quốc, làm chết thêm khoảng 30 người, làm
bị
thương thêm khoảng 360 người, phá hủy 180,000 ngôi nhà và ảnh hưởng
đến cuộc sống, sinh hoạt của 600,000 dân ở hai tỉnh Tứ Xuyên và Vân
Nam.
Vào lúc này, đập Tam Hiệp, dự án
thủy điện
lớn nhất thế giới, được xây dựng để phát
điện và
ngăn lũ trên sông Dương Tử đã gây ra vô số vấn nạn đau đầu cho chính
quyền Trung Quốc. Nguy cơ vỡ các đập nước do tác động của động đất
đang đe dọa dân chúng ở quốc gia này. Chính quyền Trung Quốc thú
nhận, Trung Quốc đã và đang có 400 đập nước hoặc đã
bị phá
hủy hoặc có thể vỡ vì trở thành rất yếu sau nhiều vụ động đất lớn,
nhỏ.
Nhìn lại Việt Nam,
thủy điện Sơn La cũng
đang tạo ra hàng loạt vấn nạn tương tự. Thậm chí, thời gian xây dựng
thủy điện Sơn La đã
được rút ngắn từ 10 năm (2005 - 2015) theo dự kiến xuống còn 7 năm
(2005 - 2012). Việc giảm gần 1/3 thời gian thi công một nhà máy
thủy điện có
diện tích lưu vực khoảng 44,000 km2, diện tích vùng hồ khoảng 224
km2 không phải
là thành tích. Nó chỉ tăng thêm nguy cơ vì việc kiểm tra đòi
hỏi phải chặt chẽ, việc giám sát tất cả các phản ứng của đập, bảo
đảm chất lượng công trình sẽ khó khăn hơn. Ðối với các hồ chứa nước,
bảo đảm an toàn của đập nước không phải chỉ đòi hỏi sự cẩn trọng
trong nghiên cứu sơ khởi, tính toán, thiết kế, xây cất chu đáo mà
còn phải kiểm tra, tu bổ nghiêm khắc trong suốt thời gian khai thác.
Trong vụ “xuất hiện nhiều vết
nứt tại
đập không tràn bờ cả hai bên phải, trái của công trình
thủy điện Sơn La”,
một công ty có tên
là
Colenco, đảm trách vai trò tư vấn cho chủ đầu tư
là EVN,
đã biện bạch rằng những vết
nứt
ấy... không đáng ngại. Hội đồng nghiệm thu các công trình xây dựng
quốc gia không tán thành lối biện bạch rằng. Trong báo cáo gửi Thủ
tướng CSVN, họ nhận định: “Những nhận định của Colenco về nguyên
nhân nứt
ở các khối đổ và ảnh hưởng của các vết
nứt đến
an toàn chịu lực của đập chưa thuyết phục. Ðể có biện pháp ngăn ngừa
nứt cho
các khối đổ tiếp theo cũng như biện pháp xử lý vết
nứt,
yêu cầu chủ đầu tư chỉ đạo tư vấn thiết kế tính toán, kiểm tra, khảo
sát đầy đủa về các thông số môi trường (nhiệt độ không khí, độ ẩm
tương đối, bức xạ nhiệt...), hồ sơ hoàn công các lớp đổ. Ngoài ra,
phải kiểm tra độ ổn định và độ bền của đập trong điều kiện vẫn tồn
tại các vết
nứt.”
Dù sự kiện này rất nghiêm trọng nhưng chưa ai
biết những vết
nứt này có được “bỏ qua” hay không (?) Cung cách quản lý,
điều hành của chính quyền CSVN vốn đầy những khiếm khuyết cả do
thiếu hiểu biết, thiếu khả năng lẫn
bị chi
phối bởi vô số gian ý. Vào ngày 10 tháng 2 năm 2009, khi đề cập đến
thủy điện Sơn La, tờ
Công An Nhân Dân cho biết: “Theo Bộ Nông nghiệp và Phát Triển Nông
Thôn, chương trình di dân khỏi lòng hồ
thủy điện Sơn La đang
bộc lộ hàng loạt bất cập, không chỉ chậm chạp về tiến độ, mà ngay cả
những nơi đã tái định cư thành công, hàng ngàn gia đình vẫn đang
phải đối mặt với những khó khăn do cơ sở hạ tầng xuống cấp... Tỷ lệ
gia đình đã được di dời so với mục tiêu chung chỉ đạt khoảng 64.3%.
Trong số 19,669 gia đình cần phải di dời, mới có 12,650 gia đình
được tái định cư. Tờ Công An Nhân Dân dẫn lời ông Lê Văn Thành, phó
văn phòng Ban Tái Ðịnh Cư
Thủy
Ðiện Sơn La, Bộ
Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn cho biết: “Trong năm 2009, chính
phủ đã giao chỉ tiêu cho ba tỉnh
Sơn La,
Ðiện Biên, Lai Châu phải di dời và tái định cư gấp 5,998 gia đình
nhưng các tỉnh vẫn chưa lập được kế hoạch di dời”.
“Ðại thảm họa”
Sơn La vẫn
hiện hữu. Hãy nhớ: “Nếu đập
Sơn La vỡ,
sau 30 phút, toàn bộ đồng bằng Bắc Bộ sẽ
bị chìm
sâu dưới mực nước từ 4m đến... 60m và sẽ có khoảng 15 triệu người
thiệt mạng...”