Những bài cùng tác giả
Đối với tôi, công nghiệp điện hạt nhân không
có triển vọng như có người lầm tưởng!
Làm điện hạt nhân không phải là đổi mới
mà ngược lại có thể kìm hãm tiến bộ của đất nước. Tôi sẽ
phát triển rõ hơn ý này trong ba khía cạnh dưới đây.
1. Vai trò điện hạt nhân trong hiện tượng thay đổi khí hậu
Những nhóm có thế lực lợi dụng hiện tượng
thay đổi khí hậu đề cao quá trớn vai trò điện hạt nhân.
Với kịch bản của cơ quan quốc tế năng lượng
(AIE) đưa ra năm 2007, giả thuyết làm ổn định CO2 đến mức 450
ppm có thể đưa tỷ lệ điện hạt nhân trên nguồn năng lượng sơ cấp
toàn cầu lên đến 12% vào năm 2030. Con số này có nghĩa cần một
công suất đạt 830 GW cho thế giới. Tổng số lò hiện nay là 440
với một công suất đặt là 370 GW. Tăng lên 830 GW có nghĩa là cần
xây dựng thêm 600 GW đến năm 2030, vì đây đến đó hàng loạt lò
đến tuổi phải chấm dứt vận hành.
Những lý do sau đây cho ta thấy không thể nào
thực hiện được kịch bản trên: kinh phí đầu tư quá lớn, nhịp độ
cấp bách sản xuất lò, sự khan hiếm chuyên viên kỹ thuật có kinh
nghiệm, thời gian cấp giấy phép kéo dài vì mức độ an toàn đòi
hỏi, quản lý chất thải phóng xạ chưa có lời giải thích đáng, khó
tránh sự lan tràn vũ khí nguyên tử, kinh phí tháo gỡ nhà máy quá
cao...
Đừng quên rằng tỷ lệ đóng góp của điện hạt
nhân còn kém, phải cần thời gian hết sức lâu dài mới mong đóng
được vai trò quan trọng. Theo báo cáo của GIEC (Bangkok 05-
2009), tỷ lệ đóng góp của điện hạt nhân trên tổng sản lượng điện
sản xuất toàn cầu, hiện nay là 16%, đến năm 2030 sẽ tăng lên 18%
là tối đa! Trong lúc đó hiện tượng thay đổi khí hậu đòi hỏi
những lời giải cấp bách, không thể chờ đợi hàng chục năm, quá
muộn !
Kết luận : Điện hạt nhân không phải là lời
giải thỏa đáng cho nhu cầu năng lượng và sự thay đổi khí hậu.
2. Điện hạt nhân trong nhu cầu điện lực Việt Nam
Riêng về nhu cầu điện lực nước nhà,
tôi hoàn toàn không đồng ý với những con số khổng lồ đã đưa ra!
Nói rằng Việt Nam sẽ cần 380 tỷ kWh vào năm 2020 (gần 4 lần nhu
cầu năm 2010) là hết sức vô nghĩa1.
Không có nước nào có thể phát triển với một tốc độ kỷ lục như
thế. Ta không thể tiếp tục ngoại suy mãi và áp dụng tốc độ tăng
trưởng 15 %- 17% mỗi năm. (có nghĩa là cứ 4 - 5 năm phải nhân
gấp đôi công suất các nhà máy điện và tất cả hệ thống giây cao
thế và hạ thế toàn quốc ! ). Đường biểu diễn lũy thừa với một
tốc độ khiêu khích như thế có ngày làm nổ hệ thống như bong bóng
thổi phồng quá mạnh. Với mục tiêu tăng trưởng kinh tế 5 -6%, hệ
số đàn hồi (coefficient d'élasticite)2
của Việt Nam cao nhất nhì thế giới ! Như thế tức là chúng ta
lãng phí ngoài mức tưởng tượng và hiệu suất năng lượng
(efficacité énergétique) của Việt Nam bé thấp nhất nhì! Với một
chính sách tiết kiệm năng lượng dài hạn vững chắc, với một chiến
lược khuếch trương mạnh mẽ năng lượng tái tạo, ta có thể không
cần xây cất lò điện hạt nhân nào cả, tốn kém và vô cùng nguy
hiểm cho các thế hệ con cháu. Mỗi lò 1000 MW, trung bình một năm
sản xuất 6 đến 7 tỷ kWh . Sản lượng điện của 8 lò tối đa là 56
tỷ kWh. Lấy con số 380 tỷ kWh trên đây trừ bớt 56 tỷ kWh còn 324
tỷ kWh, một sản lượng điện vẫn còn lớn hơn nhiều so với nhu cầu
thực của đất nước vào năm 2020 – 2025, nếu chúng ta kiên quyết
áp dụng những chính sách chống lãng phí năng lượng trong nền
kinh tế (mà có người ước tính lên đến 30%, tức khoảng 100 tỷ
kWh !). Mặt khác, giá thành năng lượng tái tạo sẽ ngày càng kinh
tế hơn. Theo tôi, đến chân trời 2025, một chính sách kiên quyết
tiết kiệm năng lượng cộng với một chương trình khuếch trương
mạnh mẽ năng lượng tái tạo sẽ có đủ khả năng để đáp ứng nhu cầu
điện lực Việt Nam. Thế thì tại sao phải làm điện hạt nhân ?
Chứng minh vì nhu cầu là hoàn toàn không đúng sự thật.
Ta cần hết sức cân nhắc, lựa chọn thật chu
đáo những dự án đầu tư của ngoại quốc, trước khi cho phép xây
cất những nhà máy đồ sộ, bắt buộc ta cung cấp điện năng một cách
ồ ạt cấp bách. Mỗi lần gặp cơn khủng hoảng hay thất bại trên thị
trường, họ đóng cửa các nhà máy này, thì ta sẽ thừa điện ngay,
không ai mua. Như ở Trung Quốc hiện nay, kinh tế nước ta cũng
đang mất thăng bằng trầm trọng (surchauffe). Trong tương lai,
nếu lương công nhân lên quá mức cạnh tranh, một số doanh nghiệp
ngoại quốc sẽ rút khỏi Việt Nam để đầu tư ở các nước có nhân
công rẻ hơn (délocalisation ). Trung Quốc đã có ý định dời một
số nhà máy sang Ai Cập. Đất Việt không thể mãi mãi là cơ xưởng
rẻ tiền của thế giới ! Chiến lược xây dựng non sông phải có tầm
nhìn xa, ngó quá gần sẽ sớm gặp bế tắc và thất bại nặng nề.
Chẳng lẽ chúng ta làm điện hạt nhân để phục
vụ tư bản ngoại quốc hay sao?
3. Bài toán lựa chọn công nghệ
Nếu một hai ta quyết tâm xây nhà máy điện hạt
nhân ở Ninh Thuận, tại sao phải cần 8 lò vào năm 2025
(trị giá cả thảy tối thiểu là 24 tỷ đô la ! Con số này có thể
tăng lên gấp đôi – 48 tỷ đô la - vì chỉ vài năm mà giá đã tăng
thêm 50%) . Với một kinh phí đầu tư quá lớn như thế, năng lượng
tái tạo sẽ thừa sức cạnh tranh với điện hạt nhân. Đồng thời, 1
đô la xuất ra để làm năng lượng tái tạo có khả năng đem lại
nhiều việc làm cho đồng bào – 15 lần lớn hơn nếu làm điện hạt
nhân.
Kinh tế, tài chính, cơ cấu, nhân lực, môi
trường, luật lệ an ninh, an toàn, không có lĩnh vực nào có thể
chịu được áp lực với tốc độ xây cất nhà máy điện hạt nhân cao
như thế. Chưa có nước nào thiếu điều kiện mà dám xung phong vào
điện hạt nhân một cách mạo hiểm như ta (xin mời quý độc giả đọc
các bài bình luận đầy tâm huyết của GS Phạm Duy Hiển và của tôi
đã đăng trên báo chí hay trên mạng từ nhiều năm nay).
Và ta sẽ chọn kiểu lò nào, thế hệ 2 (đã lỗi
thời) hay 3 (cùng một kiểu) ?
Lò thế hệ 3 của Mỹ A P 1000 giá rất cao
(khoảng 5000 đô la mỗi kW).
Lò EPR (1600 MW) của Pháp đang được xây cất ở
Phần Lan và ở Flamanville. Areva đang bị Phần Lan kiện tụng rắc
rối, đòi Areva bồi thường 2,3 tỷ đô la vì công trường chậm trễ 3
năm. Vừa qua, các cơ quan an toàn (Autorité de sureté) của 3
nước Phần Lan, Anh và Pháp đã đồng thanh yêu cầu Areva nghiên
cứu lại hệ thống an toàn và kiểm soát vì chất lượng chưa được
bảo đảm lắm ! Lò thế hệ 3 EPR chưa ra đời đã có vấn đề, chứng tỏ
sự mong manh của công nghiệp điện hạt nhân trên toàn cầu . Xây
một lò là kẹt cả một thế kỷ (40 - 50 năm vận hành và thời gian
tháo gỡ có thể kéo dài 50 năm). Không nên nghĩ rằng tất cả các
lò thế hệ 2 sẽ được gia hạn thời gian vận hành đến 60 năm và lò
thế hệ 3 đến 80 năm. Kéo dài thời gian vận hành như thế tốn ít
nhất 500 triệu đô la mỗi lò. Mấy ai chịu xung phong lái một xe
cũ với giấy phép được chạy thêm 10 năm nữa ?
EDF và CEA cũng bị chỉ trích vì đã để xảy ra
vài sự cố như: mua lại các nhà máy điện hạt nhân cũ ở Mỹ với giá
quá cao, bị bê trễ tại công trường EPR ở Flamanville, các thanh
nhiên liệu bi treo kẹt ở nhà máy điện hạt nhân Tricastin,
uranium nghèo tìm thấy ở Nga, 18 trên 58 lò phải ngưng chạy để
tu bổ hay thay đổi tim, plutonium quên ở Cadarache.
Nước Pháp có giàu kinh nghiệm như thế từ hơn
nửa thế kỷ nay3
mà còn gặp phải các sự cố trên, đem lại nghi ngờ và thắc mắc
trong dân chúng về mức độ an toàn. Còn ta ?
Nguyễn Khắc Nhẫn
Nguyên cố vấn
Nha kinh tế, dự báo, chiến lược EDF Paris
Nguyên GS Viện kinh tế năng
lượng và Đại học Bách khoa Grenoble
(*) Nguồn
: trích tham luận gửi "Hội nghị Người VN ở nước ngoài lần thứ
nhất", với sự cho phép của tác giả. Nhan đề và những tiểu đề
cũng như những chú thích dưới đây là của Diễn Đàn
Chú thích :
1 Theo
Tuần Việt Nam ngày 17.11.2009 :
« Từ năm 2007 đến 2009 Bộ Công Thương đã có ít nhất ba lần
chính thức trình lên Chính Phủ dự án ĐHN Ninh Thuận, cả ba lần
đều căn cứ trên dự báo nhu cầu điện năng năm 2020 theo cả ba
kịch bản tăng trưởng cao, cơ sở và thấp. Nhưng các con số dự
báo này cứ nhảy nhót đến chóng mặt. Xin đơn cử dự báo điện sản
xuất năm 2020 theo kịch bản cao như sau: 334 tỷ kWh (tờ trình
12-04-2007), sau 9 tháng tăng lên 513 tỷ kWh (tờ trình
09-01-2008), rồi lại hạ xuống 380 tỷ kWh trong lần trình mới
đây nhất lên Quốc Hội (09-09-2009). Dự báo trong hai lần trình
kế tiếp cách nhau chưa đầy 9 tháng đã vênh đến 180 tỷ kWh sao
có thể xem là tính kỹ ?. Trong khi đó một nhà máy với hai lò
phản ứng mỗi năm chỉ sản sinh ra đâu đó khoảng 15 tỷ kWh, có
nghĩa là dự báo nhu cầu điện năng năm 2020 có thể sai đến hơn
10 nhà máy ĐHN Ninh Thuận!
Nếu sau đây còn phải trình nữa, chắc
chắn dự báo sẽ ngày càng thấp dần để trở về con số 230 tỷ kWh
được ghi rõ trong Dự án Tiền khả thi ĐHN do Bộ Công Nghiệp lần
đầu tiên trình lên Chính Phủ ngày 10-08-2005 dựa trên Tổng Sơ
Đồ VI về quy hoạch phát triển ngành điện Việt Nam. Mà ngay với
con số "khiêm tốn" này, các chuyên gia năng lượng Nhật Bản
cũng phải lắc đầu: nó quá cao so với mặt bằng sử dụng điện
trong khu vực! » (chúng tôi nhấn mạnh, DĐ)
2 Hệ số này là tỉ lệ giữa các tỉ số tăng trưởng điện năng
và tăng trưởng tổng sản lượng quốc dân (GDP).
3 Nói thẳng là kinh nghiệm và trình độ công nghệ - khoa
học của Pháp về phương diện này cao hơn Trung Quốc nhiều, và
những tin hành lang về việc TQ có thể được chỉ định làm điện
hạt nhân cho VN càng khiến cho người ta không khỏi lo ngại.
Nguồn:
http://www.diendan.org/viet-nam/111ien-hat-nhan-khong-kinh-te/
|