Những bài cùng tác giả
Vừa qua các báo đã đưa tin hai tỉnh Quảng Nam và Quảng Ngãi tổ chức lễ viếng
mộ và tưởng niệm Huỳnh Thúc Kháng nhân kỷ niệm 60 năm ngày mất của ông
(1947- 2007). Đây là ý kiến của riêng tôi: Lễ tưởng niệm một bậc chí sĩ như
vậy lẽ ra nên làm ở tầm quốc gia, chứ không phải ở mức vài tỉnh lẻ. Huỳnh
Thúc Kháng, cùng với Phan Châu Trinh và Trần Quý Cáp, là nhân vật của nhóm
“Bộ ba Quảng Nam” nổi tiếng, chủ xướng phong trào Duy Tân đặc sắc trong thập
kỷ đầu của thế kỷ XX, đưa đến cuộc Trung Kỳ Dân Biến chấn động năm 1908, một
trong những cuộc nổi dậy bạo lực của quần chúng rộng rãi và quan trọng nhất
trước Cách mạng Tháng Tám 1945. Sau cuộc Dân biến này, Trần Quý Cáp bị chém
ở Khánh Hoà. Phan Châu Trinh bị đày đi Côn Đảo, về sau thoát ra được do
phong trào đấu tranh của các lực lượng tiến bộ trong nước và ở Pháp, là
người đầu tiên chủ trương phải sang tận đất Pháp, tìm liên kết với các lực
lượng tiến bộ ở chính quốc, để mưu đồ sự nghiệp cứu nước. Năm 1925 ông trở
về nước, và chỉ 6 tháng sau qua đời ở Sài Gòn do kiệt sức suốt những năm bôn
ba vì sự nghiệp dân tộc. Người duy nhất còn lại trong Bộ ba lừng danh này
cho đến sau Cách mạng Tháng Tám là Huỳnh Thúc Kháng. Ông cũng bị đày đi Côn
Đảo cùng với Phan Châu Trinh, ở Côn Đảo lâu hơn, sau được trở về cũng do đấu
tranh của các lực lượng tiến bộ trong nước và quốc tế. Trở về, ông lập tức
tiếp tục hoạt động với tư cách “một nhà cách mạng công khai”, như chính lời
ông tuyên bố. Năm 1926, ông làm Chủ tịch Viện Dân biểu Trung Kỳ, nhưng chẳng
bao lâu sau đó đã từ chức vì nhận thấy ở vị trí này không thể thực hiện được
những điều mình vẫn đeo đuổi. Ông quyết định chuyển sang làm báo. Và vị nhà
nho uyên thâm ấy lập tức trở thành một nhà báo hiện đại cực kỳ xuất sắc.
Dường như từ những ngày ở tù, ông đã tự chuẩn bị mình cho công việc mới mẻ
này. Người ta bảo rằng ở Côn Đảo, Huỳnh Thúc Kháng đã luyện tiếng Pháp bằng
cách học thuộc lòng cả cuốn từ điển Larousse?... Ngày 10 tháng 8 năm 1926, tờ báo
Tiếng Dân của Huỳnh Thúc Kháng ra đời ở
Huế. Ngay từ số đầu tiên, chủ bút Huỳnh Thúc Kháng đã viết lời tuyên ngôn
súc tích mà vô cùng độc đáo và dõng dạc cho tờ báo của mình: “Nếu không có
quyền nói thì ít ra cũng giữ được cái quyền không nói những điều người ta
buộc nói”. Trong điều kiện xã hội của chế độ thực dân thời bấy giờ, quả như
một tiếng súng sắc gọn mà vang lừng của một người chiến sĩ “cách mạng công
khai”. Tôi thường tìm đọc các tác phẩm báo chí của Huỳnh Thúc Kháng, và rất
ngạc nhiên một cách thích thú, hoá ra các cụ ngày ấy, hết sức thâm nho,
nhưng khi chuyển sang chữ quốc ngữ thì lại viết chữ quốc ngữ rất hay, đặc
biệt cô đọng, sắc sảo, chính xác sâu sắc, có lẽ hơn chúng ta ngày nay nhiều.
Nói về tính chất độc lập tư tưởng độc đáo của người đồng chí thân thiết nhất
của mình là Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng viết: “Tiên sinh đọc sách có
con mắt riêng”. Lời tuyên ngôn cô đọng trên kia, vắn tắt đến không thừa một
chữ mà thật đầy đủ và mạnh mẽ: tố cáo quyết liệt và công khai một chế độ
không có quyền tự do, con người không có quyền nói đồng thời khẳng định một
cách thách thức mà lại không thể bắt bẻ vào đâu được cái quyền riêng của
mình, không ai tước đi được, quyền không nói những điều người ta buộc nói.
Câu văn rất mới, rất Tây, mà hừng hực cái khí tiết không gì lay chuyển nổi
của nhà nho. Hai năm sau, trong số báo ngày 1 tháng 5 năm 1929 ông lại nhắc
lại, lần này khẳng định một cách rành rọt hơn cái quyền bị tước mất và cái
quyền không ai tước đi được của mình: “Vì rằng ta không có quyền tự do nói
những điều nên nói, mà ta lại có quyền tự do không nói những cái không nên
nói”… Tôn chỉ đó, khí tiết đó của người làm báo, Huỳnh Thúc Kháng đã kiên định giữ
vững trong suốt cuộc đời làm báo của mình. Tờ báo Tiếng Dân của ông, chống
chính quyền thuộc địa của Pháp và chính quyền Nam Triều rất quyết liệt,
nhưng cũng lại là tờ báo tồn tại được lâu nhất trong thời kỳ thực dân ở Đông
Dương, suốt 16 năm. Kỳ thực Huỳnh Thúc Kháng không chỉ nói những điều được
cho nói, tờ báo của ông rất nhiều lần, mạnh mẽ mà khôn khéo, đã nói lên được
bao nhiêu điều cần nói với đồng bào của mình. Tôi có một người cậu là bạn
của Huỳnh Thúc Kháng, ông giữ được một bộ sưu tập gần như đầy đủ báo Tiếng
Dân. Hồi nhỏ, cứ đến dịp hè, tôi lại đến nhà cậu, nằm lì ở đấy, lục bộ sưu
tập quý ấy ra đọc. Chính ở đấy tôi đã đọc được toàn bộ tường thuật tỉ mỉ
phiên toà xử Nguyễn Thái Học sau khởi nghĩa năm 1930. Đầy đủ chi tiết, những
cuộc tranh biện căng thẳng, những lời khẳng khái của Nguyễn Thái Học trước
toà, cả những lời nói cuối cùng của người anh hùng Yên Bái trước khi bước
lên đoạn đầu đài.
Năm nay cũng là kỷ niệm 80 năm báo Tiếng Dân. Bài học khí tiết người làm báo
của Huỳnh Thúc Kháng, quyết không nói một lời điều người ta buộc mình phải
nói, quyết không bẻ cong ngòi bút, trước mọi cường quyền, còn sống động vô
cùng trong cuộc vật lộn gian nan của người cầm bút cho sự thật và công lý
hôm nay. |
Nguồn: Bằng đôi chân trần. TP HCM: NXB Văn nghệ, 2008
|