Xin cho tôi được nói thật, ít nhất là một lần này nữa, dù làm mích lòng một
số người.
Từ một thời gian rồi, một số người có những khẳng định sai sự thật về một số
danh nhân Việt Nam, mà họ biến thành “lưỡng quốc (Việt-Pháp) danh nhân”, trở
lên đến tận những năm 30 của thế kỉ 20, với một mục đích có thể là không
lành mạnh lắm. Phải chăng là họ tự ý chế biến ra những thông tin “giật gân”,
thêm mắm thêm muối, để đăng cho được bài, thu hút sự chú ý của độc giả? Để
rồi sau đó, một số người khác cả tin, không biết, cứ dùng những loại tin tức
đó để bàn luận sự việc này nọ:
Trước hết, cần nhắc lại vào những năm 30, của thế kỉ 20, mấy người Việt Nam
không thể là professeurs de facultés ở Université ở Pháp được. Vì mấy lẽ sau
đây:
Thời đó, Đại học (Université) ở Pháp, gồm 5 Facultés : Facultés des
Sciences, Faculté des Lettres (sau này mới gọi là « Lettres et Sciences
Humaines »), Faculté de Droit (sau này mới gọi là « Droit et des Sciences
Economiques »), Faculté de Médecine (bao gồm cả Nha), và Faculté de
Pharmacie. Phải có quốc tịch Pháp (hoặc nhập tịch thì phải có thâm niên tối
thiểu 5 năm) mới làm ứng viên vào các chức vụ professeurs ở đó
[1]. Vả lại, muốn làm ứng viên vào các chức vụ
đó, phải có những bằng cấp tối thiểu là Doctorat d’Etat ès Sciences, Doctorat d’Etat ès Lettres cho Facultés des
Sciences, Faculté des Lettres ; Agrégé des Facultés (còn gọi là Agrégé de
l'Enseignement supérieur) cho Faculté de Droit, Faculté de Médecine (bao gồm
cả Nha), và Faculté de Pharmacie. Các « chaire » (chức vụ) trong các
Universités của Pháp rất là hiếm và khó. Nhiều nhà khoa học nổi tiếng của
Pháp cũng phải đợi, khi các vị tiền bối về hưu hay mất đi thì mới hy vọng
thay thế.
Những loại bằng cấp nêu trên là loại bằng cấp mà những người Việt Nam « được
tôn vinh » không có. Thường các vị Việt Nam này chỉ có những bằng cấp «
không phù hợp » : thí dụ bằng agrégé về Triết, agrégé về Toán, agrégé về
Lý-Hoá, agrégé về Sử-Địa, là loại bằng dạy Trung học, bằng tốt nghiệp Ecole
Polytechnique, là bằng kỹ sư, vv. dù phải thi tuyển khó
[2].
Cho nên, như tôi biết, câu chuyện « lưỡng quốc danh nhân » gán cho một số
danh nhân Việt Nam, là câu chuyện hoang đường, các tác giả của những bài báo
tâng bốc một số « danh nhân Việt Nam » [3], có lẽ với mục đích riêng không
lành mạnh, chỉ nhắm lợi cho riêng mình [4], không tính đến hậu quả sau này,
có khi làm cho người được vinh danh bị hậu thế nghi ngờ oan là chính các vị
mạo nhận.
Một số danh nhân Việt Nam như các ông Tạ Quang Bửu, Hoàng Xuân Hãn, Trần Đức
Thảo, Ngụy Như Kontum, Nguyễn Mạnh Tường, Hồ Đắc Di, Nguyễn Văn Huyên, vv. ,
(tuy không là danh nhân của Pháp) là những người đã có kỳ công xây dựng nền
tảng giáo dục, khoa học và văn hóa cho một nước Việt Nam mới. Công lao của
các vị cần được ghi nhận. Nền tảng đó đang bị một số người trách nhiệm «
không có tâm cũng chẳng có tầm » làm ô nhiễm như thế nào, kẻ thức giả trong
hay ngoài nước cũng thấy. Chỉ mong họ còn một chút gốc « người thiện », còn
chút « thiện tâm », đừng hại đến thanh danh của các vị.
Chú thích :
[1] Vào giai đoạn những thập niên 50 của thế kỉ 20, dần dần có sự nới rộng
tiêu chuẩn tuyển chọn và bổ nhiệm Professeurs des Universités ở Pháp, tuy
vậy đến thời của tôi, (thập niên 60 của thế kỉ 20) vẫn phải có quốc tịch
Pháp, mãi những năm gần đây mới có việc mở cho những người không có quốc
tich Pháp. Nhưng số người gốc Việt Nam thực sự là Professeurs des
Universités ở Pháp không nhiều như người ta tưởng, mà thường có sự tiếm
xưng. Có lẽ số người gốc Việt Nam làm Directeurs de Reherche ở CNRS đông
hơn, nhưng ở Việt Nam thì không phân biệt (?).
Nhắc lại một chút về bằng cấp, rồi tôi sẽ trở lại việc chú trọng hiểu biết
cơ bản như thế nào. Ở Pháp trước đây, rất phân biệt từ «bằng » [mà tiếng VN
không phân biệt: nghĩa là diplôme, titre, grade]. Nhưng định nghĩa rất tế
nhị. Theo tôi hiểu: Diplôme là bằng nói chung, ghi trên văn bản trao cho, có
thể là bằng « biết bơi», bằng « tiểu học ».Titre cũng là bằng cấp nhưng có
thể là bằng dùng cho một mục đích nghề nghiệp nhất định nào đó, nếu không
hành nghề đó thì không có giá trị thị trường lao động hoặc bị mất đi. Đó là
trường hợp của các bằng agrégé [do thi tuyển để dạy học Trung học hay Đại
học]. Grade là bằng nhà nước công nhận, có cấp bậc, đi vào thị trường lao
động có tương xứng với thang lương này nọ. Trước đây, có 3 grades
universitaires là:
-1) Baccalauréat [Tú tài, « premier grade universitaire »; vì thế nên khi có
bằng này, các sinh viên thuở đó được quyền ghi tên vào học Université, không
phải thi tuyển; và cũng vì thế mà khi chấm thi tú tài, ngay cả hiện nay, chủ
tịch ban giám khảo phải là một GS đại học hay một Maître de conférences đại
học, tuy họ chỉ đến tượng trưng để ký vào hồ sơ biên bản thôi]. Ngược lại,
thuở ấy không có bằng Baccalauréat, thì không được ghi tên vào Université.
Sau này mới có lệ cho phép một số người (nếu trong quá trình nghề nghiệp sau
1 số năm làm việc có kết quả), được phép thi tuyển vào Université mà không
có bằng Baccalauréat.
-2) Licence [Cử nhân, kiểu cũ].
-3) Doctorat d’Etat ès Sciences (Tiến sĩ nhà nước về khoa học) hay
Doctorat
d’Etat ès Lettres (Tiến sĩ nhà nước về văn học). Thuở ấy, đây là grade cao
nhất của Université của Pháp.
Trở lại Licence [Cử nhân, kiểu cũ]. Vì nó là grade universitaire, thuở
trước, cho nên nếu không có bằng này, thì dù có công trình nghiên cứu cao xa
đến đâu, cũng không được phép ghi tên và bảo vệ luận án Doctorat d'Etat ès
sciences (Tiến sĩ nhà nước về khoa học) hay Doctorat d'Etat ès Lettres (Tiến
sĩ nhà nước về văn học). Thuở ấy có « ngoại lệ » như sau : nếu người nào học
ở một số trường lớn của Pháp [Pháp gọi là Grandes Ecoles như các trường kỹ
sư có tiếng như Ecole Polytechnique, Ecole des Ponts et Chaussées, Ecole des
mines , vv.], hoặc là Y khoa bác sĩ, hoặc là Dược sĩ, ..., thì được « miễn »
có bằng « Licence », nhưng phải thi thêm 2 chứng chỉ Licence theo qui định
cho mỗi ngành. Cũng vì thế mà có người không thi được 2 chứng chỉ qui định
nên không ghi tên soạn Doctorat d'Etat được. Hơn thế nữa, những người « ngoại
lệ » như vậy, dù bảo vệ xong Doctorat d'Etat, cũng không có quyền làm ứng
viên vào các chức vụ giáo sư ở Université (professeurs des Universités).
Nhân đây, xin nhắc lại về chức vụ ở Pháp. Tên gọi professeur des Universités
của một Université nào đó, là một danh hiệu chính xác : đó là một loại nhà
giáo ở một Université nào đó, được những người đồng nghiệp của mình đã có
danh hiệu này, tuyển chọn theo bàu cử kết nạp (cooptation) dựa trên công
trình khoa học, và (để được thủ tục hóa hành chính, vì đây là những công
chức nhà nước loại đặc biệt) được Tổng thống Pháp ký sắc lệnh bổ nhiệm (Tổng
thống Pháp ký sắc lệnh bổ nhiệm, chứ không can thiệp vào quyết định lựa
chọn).
Ở Pháp chặt chẽ như vậy vì có những lý do và kinh nghiệm lịch sử của họ.
Cũng vì những luật lệ chặt chẽ như vây, mà thuở trước, một số nguời đã đỗ
bằng kỹ sư trường lớn rồi, hay đã là bác sỹ y khoa, dược khoa rồi, còn trở
lại đi học Licence từ đầu, để có thể soạn luận án Doctorat d'Etat, và sau đó
làm ứng viên và trở thành professeur ở Faculté des Sciences hay Faculté des
Lettres. Lý do chặt chẽ như vậy, theo tôi hiểu, là vì muốn có một sự bảo đảm
về những hiểu biết cơ bản của đương sự ; có lẽ vì sự bảo đảm này lúc đó được
coi là cần thiết cho những người có nhiệm vụ chuyển giao sự hiểu biết cho
các sinh viên, như giáo sư đại học. (Trong khi đó thì ở CNRS Trung tâm Quốc
gia Nghiên cứu Khoa học CNRS của Pháp, được thành lập theo đạo luật
19/10/1939, ứng viên không buộc phải có bằng cấp chặt chẽ như ở Université,
có lẽ vì chỉ cần người có khả năng nghiên cứu chứ không phải đồng thời là
người có nhiệm vụ chuyển giao hiểu biết như người giáo sư đại học, cho nên
có thể là Directeur de recherche mà không cần phải là Docteur d'Etat). Vào
khoảng những năm của thập niên 60, mới có sự bùng nổ về con số của sinh viên
và do đó số giáo sư đại học (professeurs des Universités) tăng lên gấp bội.
Sau này, khoảng những năm cuối thập niên 70 hay đầu thập niên 80 gì đó, do
một số trường kỹ sư lớn của Pháp đổi cách nhìn về chương trình và mục tiêu,
chuyển sang học cơ bản nhiều và kỹ hơn cho những năm đầu, nên mới có qui
định cải tổ là các trường lớn này được quyền ghi tên soạn luận án Doctorat
d'Etat ès sciences mà không phải thi lại bằng Licence.
Đã trót kể chuyện cũ thì thì tôi đành kể nốt cho rõ, dù có dài dòng một
chút. Về cái « học vị tiến sĩ nhà nước » nói trên:
(a) Trước hết là tên gọi ở Pháp: xưa kia, [thời tôi còn là sinh viên và soạn
luận án và mới vào nghề], học vị « tiến sĩ nhà nước » (Docteur d'Etat) có
hai « nhánh » : Docteur d'Etat ès sciences (Tiến sĩ nhà nước về khoa học),
và Docteur d'Etat ès lettres (Tiến sĩ nhà nước về Văn học) như đã kể trên.
Trong mỗi nhánh mới chia ra chuyên môn, thí dụ như về Toán, thì gọi là
Doctorat d'Etat ès sciences mathématiques ; về Lý hay Hóa, thì gọi là
Doctorat
d'Etat ès sciences physiques [dù đó là luận án về Hóa] ; về Sinh học hay
Thực vật học, thì gọi là Doctorat d'Etat ès sciences naturelles [dù đó luận
án về microbiologie hay gì khác]. Đối với Doctorat d'Etat ès lettres thì cũng
vậy, thí dụ như luận án về Sử, cũng chỉ ghi là Doctorat d'Etat ès lettres
.Trên các văn bản, bằng cấp cũng ghi như vậy.
(b) Sự phân chia như thế, là do bối cảnh lịch sử của thời đó. Lúc ấy, Đại
học (Université) ở Pháp, gồm 5 Facultés : Facultés des Sciences, Faculté des
Lettres (sau này mới gọi là « Lettres et Sciences Humaines »), Faculté de
Droit (sau này mới gọi là « Droit et des Sciences Economique »), Faculté de
Médecine (bao gồm cả Nha), và Faculté de Pharmacie. Thuở ấy:
- (b.1) Điều kiện « phải có » (nhưng chưa đủ) để thành professeur ở các
Facultés des Sciences là phải là Docteur d'Etat ès sciences. Điều kiện «
phải có » (nhưng chưa đủ) để thành professeur ở Faculté des Lettres et
Sciences Humaines, phải là Docteur d'Etat ès lettres.
- (b.2) Có sự phân biệt như vậy là vì: các môn Luật, Y, Dược không dạy trong
Trung học. Trong khi đó các môn Toán, Lý, Hóa, Vạn vật, Sử Địa, Văn, sinh
ngữ, vv. có dạy ở trường Trung học, mà ở cấp bậc này, lại có một loại bằng
cấp là tên bằng agrégé (de l'Enseignement secondaire). Và ngược lại, trong
các ngành như Y có bác sỹ Y khoa (Docteur en Médecine, vv.), như Luật có
tiến sĩ Luật (làm trạng sư, thẩm phán, vv.). Tên gọi ở Pháp rắc rối như vậy,
nên cũng có một số người Việt Nam thoải mái lạm dụng để tiếm xưng.
- (b.3) Điều kiện « phải có » (nhưng chưa đủ) để thành professeur ở các
Facultés khác, như là Droit, Médecine, Pharmacie, phải là Agrégé des
Facultés (còn gọi là Agrégé de l'Enseignement supérieur). Muốn có loại bằng
cấp này thì trước tiên phải có bàng tiến sĩ Luật, bác sỹ Y khoa, Dược khoa,
là các bằng tiến sĩ nhẹ, rồi với công trình nghiên cứu của mình, mới nộp đơn
làm « thí sinh » để thi Agrégé des Facultés. Đỗ Agrégé des Facultés thì theo
thứ bậc đỗ cao thấp mà được bổ nhiệm ở đại học này đại học kia.
- (b.4) Thuở xưa, cũng có vài người VN ở miền Bắc có bằng cấp lớn của Pháp,
như ông Nguyễn Văn Huyên và ông Nguyễn Mạnh Tường là Docteurs d'Etat ès
lettres, ông Lê Văn Thiêm là Docteur d'Etat ès sciences. Nhưng ở VN không
hiểu , nên có người dùng lạm; đặc biệt là vì «agrégé de l'enseignement
secondaire (Trung học) » còn gọi nôm na là « agrégé de l'université », vì ở
Pháp : « Etat (Nhà nước) » mới là trọng [thí dụ như « Diplôme d'Etat » (bằng
cấp Nhà nước) mới có giá trị cả nước công nhận], chứ « université » thì tạp
nham [thí dụ như diplôme d'université [bằng của riêng trường đặt ra], thì
chỉ có trường đó chịu trách nhiệm, nơi khác không công nhận. Đây cũng do vì
nước Pháp có thể chế chính quyền tập trung.
-(b.5) Thuở ấy, ở Pháp cũng còn có những bằng cấp khác, mang tên « na ná »,
dễ làm lẫn lộn những người không biết.
- Có một bằng tên là Doctorat d'université (cũng kể trên ở b-4, không thể
dùng để vào giảng dạy ở Đại học được, và rất thượng vàng hạ cám), chẳng cần
phải có bằng cấp cơ bản, thậm chí chẳng cần phải có tú tài, hoặc có người ở
một truờng lớn ra nhưng thiếu hai chứng chỉ bó buộc như đã kể trên, nên tuy
công trình nghiên cứu có già dặn sắc sảo, cũng không bảo vệ được luận án
tiến sĩ nhà nước. Có trường hợp một vị, trước đây thường ghi bằng cấp của
mình là Docteur ès lettres de l'université, thật ra không có bằng cấp nào
của Pháp tên là như vậy: Docteur ès lettres là Docteur d'Etat, còn Docteur
d'université là loại vừa kể, khi trao văn bằng, người ta chi ghi thêm trong
ngoặc (mention Lettres) hay (mention Sciences). Ngày nay, thì vị đó thoải
mái ghi danh hiệu GSTS, từ ngày VN nở rộ danh hiệu này.
- Ngoài ra thuở ấy (từ khoảng 1957 đến năm 1984) còn có bằng Doctorat de
spécialité (còn gọi là Doctorat de 3ème cycle, ở Sài gòn trước đây dịch là: «
tiến sĩ đệ tam cấp ») ở mức độ khoảng Tú tài + 7 hay 8. Năm 1984, đạo Luật
Savary 84-52 ngày 26/1/1984 bỏ Doctorat d'Etat, bỏ Doctorat d'université, bỏ
Doctorat de 3ème cycle, và đặt một bằng tiến sĩ mới duy nhất là Doctorat hiện
nay, ở mức Tú tài + 8. Bằng Doctorat de 3ème cycle được phép tương đương với
Doctorat mới này (trong những điều kiện làm ứng viên ở một số chức vụ).
Song song với việc bỏ các bằng Doctorat kể trên, Pháp có đặt ra « HDR »
(Habilitation à Diriger des Recherches). Nhưng đây không phải là một « grade
», bởi vì nó chỉ cần dùng để làm ứng viên (điều kiện « phải có », nhưng chưa
đủ) vào cái chỗ làm professeur của Université. Nó chỉ tương đương với bằng
Doctorat d'Etat trên điểm đó thôi, chứ nó khác ở 2 điểm nữa là : nó không
phải là một « grade », và cách bảo vệ luận án cũng khác (luận án Doctorat
d'Etat phải là một khối công trình nghiên cứu « thuần nhất » thành một khối
lượng những vấn đề liên quan chặt chẽ với nhau; luận án « HDR » là tập hợp
của nhiều công trình nghiên cứu có thể trên những vấn đề khác nhau; do đó,
người soạn HDR có thể thoải mái hơn, giải quyết những vấn đề thời thượng
hoặc đáp ứng nhu cầu đáng đặt ra, chứ không cứ phải bo bo « rặn » ra những
kết quả về một đề tài mà mình đã trót lao vào khi bắt đầu làm luận án
Doctorat d'Etat). Nếu không nhắm làm giáo sư đại học thì bằng HDR chẳng ích
lợi gì. Nó cũng chẳng cần thiết cho những người của CNRS (Trung tâm quốc gia
nghiên cứu khoa học của Pháp), như đã kể trên.
Từ ngày có HDR, thì các ngành như Y, Dược, Nha, cũng bỏ Agrégation de
l'Enseignement supérieur để áp dụng chế độ HDR. Chỉ còn có ngành Luật, Kinh
tế, KH chính trị, vì có những thế lực bảo thủ rất mạnh trong giới chính trị
cầm quyền, là vẫn giữ Agrégation de l'Enseignement supérieur (nhưng có tin
là cũng rục rịch muốn bỏ, hay cải cách lại).
« Hình như » (lúc này chưa thay đổi xong, nên tôi chưa kiểm kỹ được) 3
grades hiện nay/hay sắp tới là Licence (Tú tài +3 ngày nay), Master (tú
tài+5, tôi viết Master chứ không viết Maîtrise hay Mastère là loại bằng cấp
khác, ở mức tú tài +4), và Doctorat (Tú tài+8).
Trong nước, một số người làm công tác hành chính ở Bộ Giáo dục Việt Nam, và
cả một số người trong đội ngũ khoa học, hình như không tìm hiểu cho cặn kẽ
đầu đuôi. Và có thể là không có cái «triết lý hay chiến lược » về đào tạo,
nên có vẻ khẳng định ào ào. Sau cái vụ quyết định chỉ có một bằng tiến sĩ,
chắc hẳn có một số người luyến tiếc việc mình mất công làm được cái bằng
tiến sĩ hạng « nặng », nên để phân biệt, mới tự chế ra cái tên gọi « tiến sĩ
khoa học » (có lẽ là để chỉ bằng HDR và Doctorat d’Etat của Pháp, hay các
bằng tương đương ở một số nước Tây Âu, hay các bằng tiến sĩ « nặng » của
khối Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu trước đây chăng ; tôi
không biết có văn bản chính thức nào của ta ghi như thế không ?). Chắc cũng
có Việt kiều có HDR, cũng có ý phân biệt, nên cũng sử dụng « TS KH » trong
mục đích này chăng ? Ở Bắc Mỹ, xem ra họ không có mặc cảm, cho nên chỉ có
một bằng tiến sĩ, là thực sự chỉ có một bằng, chẳng phải như ta, đã định một
bằng rồi quanh co lại tiếc.
[2] Lại có chuyện tán dương những người Việt Nam thời sinh viên đi thi đỗ
bằng cấp do ông giáo toán học B. ở Faculté des Sciences Paris lấy đỗ. Ông B.
này là một nhân vật kỳ dị, rất ác, dạy môn học cũ rích, nhưng thích « đánh
lừa » thí sinh, bằng cách ra những đầu bài hiểm học với những ký hiệu làm
lạc đường sinh viên khi giải bài. Hồi tôi bị bệnh lao ở dưỡng đường, có dịp
gặp thằng con ông ta, lúc đó nó còn là học sinh. Nó hợm hĩnh khoe tôi : tao
là con nhà toán học lớn B. ; tao cũng sẽ là nhà toán học lớn, vì tao đang
chứng minh postulat (sic) về hai đường song song là sai. Tôi mới hỏi nó :
tao không biết toán học nhiều, vậy mày nói hình học nào, hình học
Lobatchevski hay hình học Euclide. Nó bảo Hình học Euclide 3 chiều. Tôi nghĩ
bụng : Chắc thằng này bị bệnh não, không phải là bệnh phổi, nên tôi bỏ đi,
không nói nữa.
[3] Mãi đến khoảng giữa thập niên 50 của thế kỉ 20, mới có sự bùng nổ của
con số sinh viên, kéo theo số lượng professeurs des universités. (Con số năm
2003-2004) : Số Giáo sư đại học (professeurs des universités) ở Pháp là
19655, không kể số maîtres de conférences đông hơn – mà bằng cấp và trình độ
khoa học của maîtres de conférences còn cao hơn một số giáo sư đại học ở
Việt Nam – cho 83 universités (toàn là công lập), không kể các Grandes
Ecoles. So với con số « trường đại học » ở Việt Nam (khoảng 160 trường đại
học và 209 trường cao đẳng, số giáo sư và phó giáo sư và số nhà giáo có bằng
tiến sĩ … ?) thì thấy được trình độ hiểu biết và quản lý của mấy quan chức
của Bộ Giáo dục Đào tạo của Việt Nam hiện nay.
[4] Nhà báo H.C., trong bài Thứ Ba, 23/08/2005, 00:53 (GMT+7) trên báo Tuổi
trẻ (tôi trích): “Cách mạng và ba chàng rể nhà họ Vị (kỳ 2), viết [về ông Hồ
Đắc Di] (tôi trích): “Vào những ngày chủ nhật, Hồ Đắc Di thường được cô Ève
Curie, con gái thứ hai của Pierre Curie và Marie Curie (hai lần được tặng
giải thưởng Nobel về vật lý và hóa học, vào những năm 1903 và 1911), mời đến
nhà riêng chơi. Lúc bấy giờ ông Pierre đã mất, bà Marie sống với hai người
con gái là Irène và Ève… Đôi khi Ève còn cùng anh song tấu: cô đánh piano,
còn anh kéo violon. Về sau Ève kết hôn với Pierre Mendès France, thủ tướng
Pháp trong những năm 1954-1955, người lãnh đạo phái đoàn Pháp ký Hiệp định
Genève lập lại hòa bình ở Đông Dương... (hết phần trích).
Sao lại có chuyện dựng đứng như vậy? Năm 1933, ông Pierre Mendès France cưới
vợ là bà Lily Cicurel (1910-1967), em gái của ông Raymond Cicurel (nhạc sỹ,
có một thời chơi đàn với Django Reinhardt và Stéphane Grappelli). Sau khi bà
Lilly Cicurel mất, ông Pierre Mendès France cưới bà Marie-Claire de Fleurieu
(tên tục là Servan-Schreiber). Như vậy hoàn toàn không có việc bà Ève Curie
kết hôn với ông Pierre Mendès France. Vả lại, bà Ève Curie có chồng là ông
Labouisse, cựu đại sứ và chủ tịch UNICEF, và với tư cách đó, ông này nhận
giải Nobel về hòa bình. Vì thế mà bà thường nói đùa rằng bà là “nỗi hổ thẹn”
của gia đình, vì bà là người duy nhất không có giải Nobel.
Đã đăng trên Diễn Dàn Forum (diendan.org)